Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2025

Chữ Nghĩa Làng Văn - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

                      Chữ Nghĩa Làng Văn 

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng


“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phí Ngọc Hùng.


***


Hát ả đào


Người ta cho rằng chỉ mới xuất hiện ở Sài Gòn vào năm 1951-1952, cùng một thời gian với hai nhà hát ả đào, một ở xóm Monceaumột ở xóm Đại Đồng.

Cả hai thứ ấy đều rất xa lạ với người Sài Gòn thuở đó. Kiếm được một quan viên biết cầm trống chầu không phải chuyện dễ. Cho nên họ chỉ cầm cự được một, hai năm rồi dẹp tiệm.

(Chuyện “cờ bịch” ngày xưa ở Việt Nam - Văn Quang)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ 

Hồng nào hồng chẳng có gai

Gái nào gái chẳng yêu 2,3 thằng


Chữ là nghĩa 

Trung Hoa cũng biết cháo trước ta không lâu lắm. Theo bác sĩ Huard, giáo sư y khoa ở Hà Nội hồi tiền chiến, tác giả quyển "Y Khoa Trung Hoa" thì môn trị bịnh bằng cách ăn uống (diététique), chỉ mới xuất hiện ở Trung Hoa vào cuối đời nhà Chu mà thôi. 

Món cháo không phải là món ăn của người thường mà là món ăn của người đau ốm vì cháo thuở ấy là cháo trắng, tức cháo hoa, chớ chưa biết nấu cháo thịt, cháo lòng, cháo cá như về sau.

(Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)

Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca

Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo


Tướng mặt

Mặt Vuông :

Vuông phần trán giáp với chân tóc cho tới hàm, đó là người tham lam, bướng bỉnh, gàn dở. - Vuông cả mặt, trán vuông hàm nở rộng như chim én xòe cánh, đó là tướng anh hùng cái thế. 

Vuông khoảng giữa, từ ngang mắt tới ngang môi, hai bên trán thu lại, dưới hai bên cằm hẹp lại, là người kém trí, tham lam, gàn dở.


Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca

Sông sâu sào vắn dễ dò
Đố ai lấy thước mà đo lòng người


Tản mạn về tiếng Việt - 1

Trước tiên hãy giới hạn trong phạm vi ngũ sắc:
Đối lại với xanh là đỏ. Dường như có một cái luật bất thành văn là khi muốn tạo một điệp âm cho một từ ở vần trắc
, thì không nhắc lại y nguyên từ đó, mà phải đổi từ trước thành vần bằng. Vì thế, không nói đỏ đỏ, mà phải nói đo đỏ. Đỏ thì có nhiều sắc độ khác nhau như: Đỏ sẫm, đỏ chói, đỏ chót, đỏ lòm, đỏ rực, đỏ ối, và đo đỏ, tức chỉ hơi đỏ mà thôi.


Trắng. Điệp âm của trắng là trăng trắng. Trắng cũng có rất nhiều độ: trắng tinh, trắng toát, trắng ngần, trắng bạch, trắng hếu, trắng dã, trắng trẻo, trắng phau, trắng phau phau, trắng ngà  Tím. Điệp âm là tim tím. Tím có tím bầm, tím ngắt, tím lịm, tím tái...
Vàng.
 Có nhiều độ khác nhau: Vàng tươi, vàng cam, vàng khè, vàng vọt, và sau cùng là vàng vàng, tức chỉ hơi vàng thôi. Và vàng hiu hắt (xem tr 13).

Đen. Có nhiều độ đen: đen xì, đen đủi, đen đúa, đen như cột nhà cháy, đen như củ tam thất, đen như quỷ...

(Minh Võ)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ 

Không có cuộc tình nào khó

Chỉ sợ mình không liều

Đạp xe và cuốc bộ

Quyết chí ắt được yêu


Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam - 1

Tôi thừa hưởng cái ấm trà và bộ chén trà từ ngày mẹ tôi mất. Hàng năm anh tôi vẫn làm giỗ Thạch Lam và nhiều năm chúng tôi cũng không quên để bộ đồ trà trên bàn cúng. Chúng tôi vẫn coi ngày giỗ là ngày tụ họp trong gia đình và họ hàng thân quen, và sự gặp gỡ bây giờ lại là ngày chúng tôi nhắc nhở nhiều đến mẹ chúng tôi hơn là Thạch Lam. Chúng tôi hay nhắc nhở tới những thức ăn cúng bà sửa soạn một cách chu đáo và ngậm ngùi, như bà đang sửa soạn bữa ăn hàng ngày cho Thạch Lam. Chúng tôi cũng không quên rót đầy hai chén trà để lên bàn cúng và cái ấm trà hiện diện như một phần đời của Thạch Lam. Tại sao tôi lại được giữ bộ đồ trà, có lẽ là khi mẹ tôi mất đi, anh tôi vẫn còn độc thân và vợ tôi đã sinh cho bà ba đứa cháu nội. 


Tôi có đôi lần mang cái ấm trà ra ngắm nghía, nhất là sau khi đã đọc khá nhiều lần cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân. Khi đọc đến đoạn văn: “Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức mầu gan gà. Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần. Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi”. 


Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa có cao mấy”, tôi cũng tò mò nhìn vào lòng cái ấm đất xem có mấy lớp cao và cũng có lần úp ấm trà xuống bìa một cuốn sách để xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm có cắn sát vào mặt bằng của bìa sách hay không, và đôi lần cầu kỳ hơn, thả cái ấm trà vào chậu nước xem có nổi đều, cân nhau không triềng như Nguyễn Tuân đã mô tả trong truyện Những Chiếc Ấm Đất.

 

Vào khoảng năm 1974, tôi nhờ một người bạn thông chữ Hán đọc dùm hai cái triện chữ Tầu ở trôn chiếc ấm và sung sướng như bắt được vàng khi biết đó đúng là cái ấm trà hiệu Thế Đức

(Nguyễn Tường Giang)


Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả

“sử: tình sử, xét sử. → không viết: xử”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

Phải viết “xử” trong “xét xử” mới đúng. Trong tiếng Việt không có khái niệm “xét sử”.

(Hòang Tuấn Công)


Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam - 2

Tôi bây giờ đã trên tuổi bẩy mươi, cái tuổi cổ lai hi, mới ngẫm nghĩ rằng mọi việc trên đời, từ sống chết đều có thể buộc vào chữ nghiệp, chữ duyên. Bộ đồ trà đối với tôi, nếu có linh hồn, hẳn phải nợ nần nhau lắm. Cuộc tao loạn nước mất nhà tan năm 1975, gia đình tôi vì may mắn đã di tản trong những ngày cuối cùng. Những năm tháng đầu tiên trên xứ người. Không định trước, một người chị họ đã sống lâu trên đất Pháp cho biết sẽ đến thăm tôi.

Một sự ngạc nhiên không bao giờ tôi có thể nghĩ tới, là trong những tặng vật chị mang đến cho tôi lại có bộ đồ trà, cái ấm trà và bộ chén trà tôi đã quên bẵng đi như đã quên những vật thân yêu khác. Qua những thư từ liên lạc, hồi đó còn rất khó khăn, với anh tôi và với gia đình bên ngoại, không thấy ai nhắc nhở tới bộ đồ trà tôi đã bỏ lại trong nhà. 


Có thể nào trong những ngày tháng hốt hoảng của một thành phố không có tương lai, mẹ vợ tôi, bà đã vì một lý do nào đó giữ lại bộ đồ trà di vật của gia đình tôi để trao lại cho anh tôi. Trong những ngày vật đổi sao dời, bà chị dâu đã phải bươn chải bán dần những tài sản ngoài chợ trời để lo cho lũ con mọn và người chồng trong trại học tập, bộ đồ trà vẫn bám lấy gia đình chúng tôi, như một phần thân thuộc của Thạch Lam. Có thể trong hoàn cảnh của một tương lai mờ mịt, không có hy vọng gì về một cuộc sum họp, người chị dâu tôi đã gói ghém bộ đồ trà kỷ niệm trong gia đình, chuyển đi qua một đại dương cách trở, như một lời trăn trối. 


Bộ đồ trà phải lìa bỏ quê hương ấy chắc cũng có lúc đau lòng, trong khi phải lưu lạc nửa vòng trái đất từ Sài Gòn qua Ba Lê đến Hoa Thịnh Đốn, rồi dừng lại ở một tỉnh nhỏ heo hút chỉ có dăm ba người đồng hương, cái đĩa bàn đựng chén trà, như một người mẹ muốn che chở mấy đứa con, đã vỡ đi một góc. Tôi nhìn những mảnh sứ vụn rời rạc của chiếc đĩa, đau như có ai cắt vào tay. Vợ chồng tôi đi tìm mua năm bẩy loại keo dán đồ sứ, loay hoay cả nửa ngày trời để gắn lại những mảnh vỡ và nghĩ rằng đã có bao nhiêu sự đổ vỡ trong đời không có gì hàn gắn được.


(Nguyễn Tường Giang)


Thạch Lam mất sớm vì bệnh lao, để lại ba con. Người con đầu là gái tên Dung sau lấy trung tướng Ngô Quang Trưởng. Người con trai thứ nhất là Nguyễn Tường Đằng học Luật sau trở thành chuyên viên hành chánh tài chánh. Người con trai út là nhà thơ bác sĩ Nguyễn Tường Giang. 



30 tháng 4 tưởng nhớ nhà văn Chu Tử

Nhưng tất cả những đau đớn thể xác ấy gom lại cũng không bằng cái đau thương thống khổ của ông ngày Chu Trọng Ly, đứa con trai út ông đặt lòng thương quý đã hủy mình bằng viên đạn carbine nổ vào đầu năm 14 tuổi. Nhà thơ Hà Thượng Nhân, và tôi đã ở bên ông, mủi lòng, bối rối, cảm thương, cực cùng xúc động trước cơn vật vã và tiếng khóc thê lương của người cha cô khổ.


Hơn ba mươi năm đã trôi qua. Hơn ba mươi ngày 30 tháng Tư. Hơn ba mươi năm ngậm ngùi tưởng niệm Chu Tử chết cùng vận nước. Tôi day dứt nhớ và tiếc nhiều điều chưa trọn vẹn cùng ông. Chu Tử sống mang biết bao nhiêu ngộ nhận và ân oán. Một con người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh... Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận. Người như ông, đem thân lưu lạc mà nhìn thấy đám nhân loại nhơ bẩn quá nhiều, lừa dối, gian manh, đê tiện quá nhiều, sẽ héo hon, cô đơn thê thảm gấp trăm lần cái cô đơn thê thảm ngày xưa trên đất nước...


(Đào Vũ Anh Hùng)



Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả

sửu: tài sửu. → không viết: sỉu”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

Viết “sửu” hay “sỉu” đều không đúng. “Tài xỉu” 大 小 là một trò cờ bạc có tên đầy đủ là “đổ đại tiểu” 賭 大 小. Theo đây, “xỉu” là phiên âm của “tiểu” 小 (bính âm: xiǎo), nên phải viết “tài xỉu”.

(Hòang Tuấn Công)


Một vài ký ức về cụ nhạc phụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu - 1

Tôi và bà nhà tôi quen nhau qua sự mai mối của cô em ruột của tôi. Trong ngày cưới, tôi còn nhớ khi mình đứng trước bàn thờ chuẩn bị làm lễ gia tiên, cụ Tú Mỡ tiến đến gần tôi hỏi khẽ: “Có biết lễ không?...” Thì ra, cụ vẫn nghi ngờ là những thanh niên theo Tây học như tôi thời bấy giờ chắc là không biết lễ bái theo đúng truyền thống. Tôi trả lời là: “Dạ thưa có ạ!”. Thế là cụ đứng sang một góc, kín đáo nhìn tôi lễ trước bàn thờ, thấy tôi lễ bộ, lên gối xuống gối đàng hoàng, cụ mới yên tâm sau đó.

Cụ Tú Mỡ là nhà thơ trào phúng của văn học trong Tự Lực Văn Đoàn. Một trong những bài thơ của cụ mang tính chất ngụ ngôn mà tôi rất thích, đó là bài Tú Mỡ đi xe bình bịch như sau:


Tú rửng mỡ cưỡi xe bình bịch
Máy nổ vang xình xịch chạy như bay
Bóp còi toe như quát tháo dương vây
Khách đường cái vội giãn ngay tăm tắp
Tú nhớ thuở còn đi xe đạp
Một thứ xe chậm chạp hiền lành 
Trên đường đông dù chuông bấm liên thanh
Khách đủng đỉnh làm thinh không chịu tránh
Ồ ngán nhỉ ở trên cõi tục
Con người ta bất độc bất anh hùng


(Dõan Quốc Sỹ)


Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả

“trung: “triết trung chủ nghĩa”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

Viết đúng là “chiết trung chủ nghĩa”.

(Hòang Tuấn Công)


Một vài ký ức về cụ nhạc phụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu - 2

Một trong những bài thơ không có tính chất trào phúng nhưng nổi tiếng của cụ Tú Mỡ là bài Khóc Người Vợ Hiền, viết để tiễn đưa bà Tú Mỡ về nơi cõi vĩnh hằng. Có đoạn cuối mà tôi rất thích, và tôi cũng đã đọc lên trong ngày tiễn linh cửu bà nhà tôi về cõi Phật cách đây hai năm:


Bà đi rồi nhưng tôi phải ở, 
Công việc đời còn dở chút thôi, 
Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi, 
Về nơi cực lạc, lại tôi với bà...


Có một chi tiết mọi người ít biết đến, đó là cụ Tú Mỡ không hề vào đảng Cộng Sản Việt Nam. Nghe nói là vì cụ cho rằng vào đảng thì không còn làm thơ châm biếm được nữa. 

Cụ có làm một bài thơ nói về việc này như sau:


Đồng chí chết cũng ra ma,
Quần chúng chết cũng đưa ra ngoài đồng.
Miễn là làm việc gắng công,
Vì dân, vì nước một lòng trung kiên.
Cứ gì có thẻ đảng viên,
Kè kè giắt túi mới nên con người


Không biết có phải vì thế mà mãi cho đến ngày hôm nay, Hà Nội vẫn chưa có con đường nào mang tên Tú Mỡ. Con cháu của cụ ở Hà Nội thì cho rằng cũng có thể tại gia đình không có ai “chạy chọt, lo lót” chính quyền về chuyện này. May sao, ở trong Sài Gòn, cách đây chừng 10 năm có một con đường nhỏ được mang tên Hồ Trọng Hiếu, nằm ở Ngã Ba Cây Thị, Quận Gò Vấp


Ngay tại ngã ba này có căn nhà của người em ruột của cụ Tú Mỡ là cụ Hồ Trọng Phú, mà tôi và bà nhà vẫn gọi là chú Tư Phú, người cũng di cư vào Nam đợt 1954 giống như gia đình tôi. 

Hy vọng sự sắp đặt cho dù là tình cờ này cũng an ủi phần nào cho con cháu của cụ Tú Mỡ, một nhà thơ trào phúng độc đáo của nền văn học Việt Nam. Xin trân trọng kính chào quí vị trong buổi họp mặt thân tình ngày hôm nay.


(Dõan Quốc Sỹ)


Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 1

T.K.: Xin hỏi anh về di sản văn học thì Văn Học Miền Nam có vai trò gì trong việc bảo tồn Văn Học Tiền Chiến và trên mặt nghiên cứu văn học, theo anh, miền Nam có để lại thành quả nào mà anh thấy vẫn còn hữu ích cho giới làm văn học hiện nay không?


V.T.N.: Nhìn vào di sản Văn Học Tiền Chiến, thì trong một thời gian dài, ở Hà Nội mất đi rất nhiều, nhiều tài liệu bị cất vào thư viện, sau đó không ai đọc, cuối cùng không biết ở đâu. Thì chính là ở Sàigòn, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn đã bắt đầu có sự nối tiếp, chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, đã góp phần làm giàu có thêm di sản chung của chúng ta. Gần đây, Từ Điển Văn Học của nhóm Nguyễn Huệ Chi đã đưa vào một cuốn sách văn học sử mà riêng bản thân tôi rất thích thú và đã mua về để dùng, coi như là cuốn sách rất tốt về văn học sử Việt Nam, đó là cuốn Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên của Phạm Thế Ngũ. Hồi ấy, ở Sàigòn có nhiều người rất nổi trên phương diện nghiên cứu văn học và biên khảo, ông Phạm Thế Ngũ chỉ là một nhà giáo và cuốn sách mà tôi nói chỉ là một cuốn giáo trình nhưng thực sự gần đây đọc lại, tất cả mọi người đều công nhận đó là một cuốn sách viết rất nghiêm túc.


Về việc nghiên cứu và giới thiệu nói chung. Năm ngoái, một cuốn sách về triết học của Trần Thái Đỉnh, cuốn Triết Học Hiện Sinh cũng đã được in lại. Hôm qua tình cờ tôi đọc lại Văn Học Miền Nam Tổng Quan của Võ Phiến, thì thấy ông Võ Phiến cho biết cuốn Triết Học Hiện Sinh đó có thời gian là cuốn bán chạy nhất năm nó ra đời ở Sàigòn. 


Điều đó với tôi là thú vị, bởi vì hiện nay ở Hà Nội cũng thế thôi, cũng đang có một khao khát tiếp nhận những cái mới của phương Tây, tiếp cận những tinh hoa của họ thế kỷ XX, và trong việc này tôi thấy Văn Học Miền Nam đã đi trước cũng như để lại những thành quả mà bây giờ chúng tôi không dễ gì vượt qua.


(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)


Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả

“triết: khúc triết. → không viết: chiết”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

Viết “chiết” mới đúng. Vì “chiết” 折 nghĩa là cong, “khúc chiết” 曲折 là quanh co. 

  (Hòang Tuấn Công)


Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 2

T.K.: Thưa anh, chuyện đã khá dài, trước khi từ giã, anh thấy có gì nói thêm về việc đưa Văn Học Miền Nam trở lại văn đàn.


V.T.N.: Tôi bị ám ảnh bởi một điểm là chúng ta đến chậm quá, làm muộn quá. Hiện nay nếu muốn quay trở lại Văn Học Miền Nam, ngoài khó khăn tôi nói trên về tư tưởng, các quan niệm, thì khó khăn vật chất cũng rất cụ thể. Như không khí chểnh mảng không ai chuyên tâm. Lòng người thì vẫn tâm lý hậu chiến, tức là vẫn bị ảnh hưởng ngày hôm qua, không tách ra được để nhìn đối tượng văn hóa, bình tĩnh làm công việc một cách tốt hơn. 


Thứ nữa, tư liệu thì mất rất nhiều. Gần đây trên mạng talawas cũng đã trích đăng lại một số tác phẩm cũ của Văn Học Miền Nam, ở bên Mỹ, nhiều tác phẩm cũ được in lại, nhưng tôi vẫn cảm thấy chưa đủ. Thỉnh thoảng trao đổi với một vài nhà nghiên cứu khác cũng thấy thế. Chúng tôi có cảm tưởng mỗi người nắm một tí, tức là mỗi người chỉ nắm được phần của mình thôi, còn sự thực người có khả năng bao quát chung thì không có.


Câu chuyên về tài liệu đang là chuyện cấp thiết lắm. Có những tờ báo, tạp chí quan trọng mà thiếu nó không thể hình dung đời sống văn học một thời. Ở miền Nam, đó là Bách Khoa, Văn rồi là Trình Bày, Khởi Hành Vấn đề, Thời Tập... Nhưng những bộ sưu tập báo và tạp chí đó không biết ở trong và ngoài nước còn giữ được bao nhiêu, và làm thế nào đưa nó lên thành tài liệu tiện dụng cho tất cả mọi người. Việc này cần không chỉ cho các chuyên gia Văn Học Miền Nam mà cho mọi người nghiên cứu nói chung. Bản thân tôi, khi giải quyết vấn đề gì, tôi đều rất muốn có dịp trở lại Văn Học Miền Nam, đọc lại nó để đối chiếu và tham khảo. 

(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)


Gặp gỡ người làm văn học miền Nam

Trên tinh thần đó, “Tủ Sách Văn Học Miền Nam trước 1975” do Phương Nam thực hiện là một ý tưởng hợp thời. Lựa chọn in lại những tác phẩm có giá trị văn chương của các nhà văn nhà thơ từng sáng tác ở Sài Gòn giai đoạn 1954 – 1975 là nhìn văn học ở tư cách văn học dưới con mắt lịch sử. 

Bốn tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi Mắt Trên TrờiCũng ĐànhNhan SắcTiếng Sáo Người Em Út) vừa được ra mắt ở Nhà xuất bản Văn Nghệ trên tinh thần này. Đọc nó, độc giả sẽ được phát hiện một nhà văn với một lối viết hiện đại, thấm đầy chất hiện sinh, đi sâu vào thân phận con người, phơi bày những cảnh ngộ làm người trong một thế giới nhiều bất trắc, phi lý. 


Viết văn học sử mà gọi Nguyễn Đăng Sinh thay vì Mai Thảo, Đoàn Thế Nhơn thay cho Võ Phiến, Thu Vân và Trần Thị Thu Vân thay vì Nhã Ca, v.v…thì quả là bất thường thật! Không lẽ những danh tính nhà văn Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Nhã Ca, v.v…hãy còn nhạy cảm và gây dị ứng đến thế sao? 

Cũng cần nhắc lại, những nhà văn nhà thơ của miền Nam bị giấu tên trong bộ sách của Nguyễn Q. Thắng nằm trong số 10 vị từng bị gọi là Những tên biệt kích. 10 “biệt kích” đó là Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Nhất Hạnh, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Nhã Ca, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Võ Phiến, Hồ Hữu Tường.

Và phải chăng nền “học thuật một nửa sự thật” này đã khiến cho một giáo viên sư phạm đã không biết Tự Lực Văn Đoàn là gì, hoặc Nhất Linh là ai.

(Văn học miền Nam qua bộ “Văn học sử” – Nguyễn Vy Khanh)



Lạc nẻo mây ngàn

Văn vô sơn thuỷ vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lảo tài


Những kỳ tài tuấn kiệt được người đời ca tụng thường là những người từng trải, biết nhiều. Phải là người trải qua phong ba, bão táp. Tôi thích nhất những người đi khắp mọi miền đất nước, lịch lãm núi rừng kỳ vĩ và sông nước hào hùng.


Đoàn Phú Tứ với "Mầu Thời Gian", Thâm Tâm với "Tống Biệt Hành", Nguyễn Bính với "Hành Phương Nam" đều là những tuyệt phẩm. Nhưng người ta gọi đó là những nhà thơ lớn bởi những vị này chưa được “phong sương“ lắm! Ngay cả những người được nhiều người biết đến như Xuân Diệu, Huy Cận cũng chỉ là những câu “uyên ương hồ điệp“ và “ngậm ngùi“. Lưu Trọng Lư nghe con nai vàng đạp trên lá mùa thu thì tôi nghĩ chàng cũng chưa từng trải nhiều. Tôi nghĩ những người này còn thua xa những kẻ phong sương lưu đầy cùng sơn thuỷ. Tôi thích nhất thơ “sơn thủy“ của các bậc kỳ tài: Tô Thuỳ Yên, Tuệ Sĩ… chỉ vì nỗi hờn chất chứa nên phát tiết ra những bài thơ ngoại hạng! 


Tô Thuỳ Yên qua miền Tây qua phá Tam Giang, Trường Sa … làm suy nghĩ lung lắm. Chính vì thế mà câu thơ giựt mắt ra đời:


Thức dậy đi nào gỗ đá ơi


Nhà tu Tuệ Sĩ mong góp phần vào Phật pháp cứu đời. Nhưng núi rừng đã luồn vào tai nhà tu những lời huyễn hoặc thê lương :


Quê người trên đỉnh Trường Sơn
Cho ta gửi một nỗi hờn thiên thu


Chao ôi! Cái giọng kỳ khí này biết đâu có người khoác cho nó cái bộ áo thơ “điên”. Không điên sao đươc khi nói chuyện với gỗ đá:

Thức dậy đi nào gỗ đá ơi


(Chân Diện Muc)



“Thơ con cóc”: Một bài thơ hay

Con đường đi vào cõi hư không mênh mông và tịch lặng, lại là một con đường hẹp. Và ngậm ngùi. Vô cùng ngậm ngùi. Trong văn học dân gian, rất gần với bài ‘Thơ con cóc’ là bài đồng dao: 


Ông Nỉnh ông Ninh 

Ông ra đầu đình 

Ông gặp ông Nảng ông Nang 

Ông Nảng ông Nang 

Ông ra đầu làng 

Ông gặp ông Nỉnh ông Ninh. 

 

Bài đồng dao này được nhà văn Bình Nguyên Lộc khen hay, hơn nữa, còn có ngầm ý cho Tản Đà cũng không thể làm nổi. Tôi đồng ý. Có điều, chủ đề của bài đồng dao chỉ là sự chật chội, tù túng, quẩn quanh trong đời sống thôn xã Việt Nam ngày xưa cũng như chủ đề bài ca dao trên chỉ là sự bế tắc, cùng quẫn, khốn khó của những thân phận con ong cái kiến trôi giạt giữa đời. Nó không có cái ‘bận tâm lớn’, cái ‘băn khoăn siêu hình’ - chữ của nhà văn Võ Phiến như bài ‘Thơ con cóc’. 


Ở phương diện này, có lẽ gần hơn với bài ‘Thơ con cóc’ là bài ‘Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi‘ của Nguyễn Đức Sơn: 

Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi 

Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ 

Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi 

Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô 

Chân rục rã tôi đi luồn ra núi 

Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô. 

 

Nguyễn Đức Sơn loăng quăng líu quíu đi luồn vô luồn ra trong núi giống như con cóc cứ nhảy, rồi ngồi, rồi lại nhảy đi. Thế thôi. Hai bài thơ đều có cùng một chủ đề: sự vô nghĩa của kiếp người. Đi đâu cũng thấy hư vô. Chất ngất trước mắt. Rợn ngợp trong lòng. 

Cùng một chủ đề, nhưng rõ ràng bài ‘Thơ Con Cóc’ mạnh và sắc hơn bài thơ của Nguyễn Đức Sơn nhiều. Họ Nguyễn, tuy mỏi mệt và tuyệt vọng đến não nề, nhưng tâm hồn ít ra cũng còn chút thanh thản đủ để nhìn ngắm ngoại cảnh chung quanh mình, từ bãi cỏ, cành cây đến nắng tàn; hơn nữa, còn chú ý đến thời gian, thoạt đầu, chỉ là chiều tà, sau, dần dần, biến thành hoàng hôn thoi thóp. Chút điểm trang trong hình thức câu thơ, dù rất nhạt, cũng đủ làm cho cảm xúc của Nguyễn Đức Sơn nhẹ đi, lênh ra. 


Như một niềm hiu hắt. Chỉ là một niềm hiu hắt. Mà như thế bài thơ lại có cái gì chênh vênh: hình tượng đi ‘luồn vô, luồn ra’ trong núi như muốn nói điều gì dữ dội hơn nhiều. Bài ‘Thơ Con Cóc’, ngược lại, trần trụi tuyệt đối. Như một cành gai. Không có đến lá, đừng nói gì là hoa. Nó thô tháp. Nó mạnh bạo. Nó sần sùi. 

(Nguyễn Hưng Quốc)



Tản mạn về tiếng Việt – 2 (tiếp tr 1)

Đặc biệt trong Cung Oán có mấy chữ gió vàng hiu hắt. Gió sao lại có màu vàng, thế nào là vàng hiu hắt? (Trải vách quế gió vàng hiu hắt). Thường ta chỉ nghe tiếng gió. Gió hú. Gió rít. Gió thổi vù vù. Gió thoảng (Tiếng khoan như gió thoảng ngoài (Nguyễn Du) Nhưng làm sao trông thấy gió? Một cách gián tiếp. Thấy lá bay, lá xào xạc, cây đổ, cành rung rung thì biết có gió. Do đó gió vàng thì phải hiểu rằng gió làm tung bụi lên dưới ánh tà dương (Nguyễn Gia Thiều). Dầu sao thì cũng phải có một cái gì đó màu vàng bị gió thổi tung lên, như lá vàng khô chẳng hạn, hay bụi mang ánh vàng của tà dương... thì mới cho tác giả cái ý, và hình ảnh tưởng tượng để viết ra mấy chữ gió vàng hiu hắt.
(Minh Võ)


Bài thơ Con Cóc qua nhận định 

nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc

Mặc Lâm: Trở lại ý tưởng của anh về bài thơ Con Cóc, bắt đầu từ luận cứ cho rằng nếu dở thì bài thơ này không thể tồn tại một thời gian lâu như thế. 

Nguyễn Hưng Quốc: Vâng, có lẽ trước hết chúng ta phải nhắc lại bài Thơ Con Cóc, bài thơ đó thì đơn giản tôi nghĩ rằng ai cũng biết nhưng để giúp dễ theo dõi thì tôi xin đọc lại bài thơ đó:

Con cóc trong hang Con cóc nhảy ra Con cóc nhảy ra Con cóc ngồi đó Con cóc ngồi đó Con cóc nhảy đi.

Để phân tích bài thơ này tôi xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau nhiều khía cạnh khác nhau. Thứ nhất là từ khía cạnh lịch sử, theo tôi thì người ta không thể tìm ra được một bài thơ nào dở mà lại bất tử như bài thơ con cóc.

Hàng triệu bài thơ dở không thể tồn tại với thời gian bởi vậy nếu cho bài thơ Con Cóc là một bài thơ dở như vậy chúng ta chấp nhận nó như một ngoại lệ. Thật ra, cái ngoại lệ ấy rất ít khả năng xảy ra và không đủ sức thuyết phục.

(Mặc Lâm, phóng viên đài RFA)



Văn hóa... hủ tíu cà phê

Xuất thân từ giới bình dân nghèo khổ, không được học nhiều, bà Lê Thị Ngọc có lòng trắc ẩn với những nhân công làm việc với bà và khi có điều kiện, bà giúp họ “ra riêng” mở tiệm. 

Trong số chín tiệm, bà và các con duy trì ba tiệm ở (trung tâm) Sài Gòn, cầu Băng KyĐa Kao.


 

(Một tiệm cà phê hủ tíu ở Gò Vấp thuở thập niên 1950)


Sáu tiệm còn lại, trong đó có tiệm của ông Ba ở chợ Bà Chiểu, đều của những người làm công giúp việc cho bà mở ra hoặc có mối quan hệ quen biết, và do bà giúp vốn lập tiệm. Cách thức này, người Hoa thường áp dụng để giúp đồng hương hay cộng sự thân thiết của họ, và bà đã thực hiện được không thua kém họ. Điều kiện tiên quyết của bà là lấy tên Đức Thành Hưng dù đặt tiệm ở đâu. Các tiệm được bà hỗ trợ phía sau nên vượt qua được khó khăn ban đầu, phát triển tốt. Phát triển nhất là chi nhánh Đức Thành Hưng – Gia Định với số vốn của chủ chi nhánh lên tới 10 ngàn đồng năm 1933.

(Phạm Công Luận)


Văn hóa... khói

Thuốc lá, thuốc lào

Cũng theo Lê Quý Đôn, Vân Đài Loại Ngữ (1773), Tập III:

“Nước Nam ta lúc đầu không có cây thuốc lá ấy. Từ năm Canh-tý tức niên hiệu Vĩnh-thọ thứ 3 (1660) đời vua Lê Thàn Tông nhằm niên-hiệu Thuận-trị thứ 16 đời vua Thanh Thế-tổ, người Ai-lao mới đem đến, dân nước ta bắt đầu trồng cây thuốc lá. Quan dân đàn bà con gái tranh nhau hút thuốc lá, đến nỗi có câu « Có thể ba ngày không ăn, chớ không thể một giờ không hút thuốc lá”.

Do đó mới gọi là thuốc lào. Như vậy, nếu Lê Quý Đôn nói đúng, dân Đàng Ngoài chỉ được biết thuốc này ít ra là 40 năm sau dân Đàng Trong.

Ba ngày có thể không ăn,

Hút thì không thể cấm ngăn một giờ.


Năm Ất-tỵ niên-hiệu Cảnh-trị thứ 3 (1665) đời vua Lê Huyền Tông, triều đình đã hai lần xuống lịnh chỉ nghiêm cấm, lùng bắt những người trồng thuốc, bán thuốc và lén hút thuốc, nhưng rốt cuộc không dứt tuyệt được. Sau người ta phần nhiều khoét cột tre làm ống điếuchôn điếu sành xuống đất. 


(Đông Phong Nguyễn Tấn Hưng)



Kiệu, võng

Ngày xưa, phương tiện di chuyển nước ta có voi, ngựa, kiệu, võng. Voi, ngựa, kiệu dành cho vua, quan văn, quan võ. Dân thường chỉ dùng võng hay cáng. Đời Minh Mạng đặt ra lệ cho các ông tiến sĩ tân khoa cưỡi ngựa dạo phố, vinh quy bái tổ, "Ngựa chàng đi trước, võng nàng theo sau". 

Số người đi ngựa tuy không nhiều nhưng các nơi trang nghiêm như Văn Miếu (Hà Nội) thường được dựng bia "hạ mã", bắt các ông quan lớn muốn đi qua phải xuống ngựa. Bia "hạ mã" nghiêm hơn đèn đỏ, bảng cấm ngày nay. Quên xuống ngựa có thể bị nọc ra quất cho vài roi trước mặt mọi người. 


  • Dần dần những nhà quyền quý cũng sắm ngựa, võng, hay cáng. 
    Một hôm ở phường Đông Các (Hàng Bạc) có một bà lớn đi võng mành mành cánh sáo, đầy tớ lính hầu rậm rịch, đến trước cửa một nhà hàng bạc, truyền thị tỳ dừng võng lại để hỏi mua mấy chục nén bạc...  (5)
    Em đi cùng với me 
    Me em ngồi cáng tre 
    Thầy theo sau cưỡi ngựa 
    Thắt lưng dài đỏ hoe 
    (Nguyễn Nhược Pháp, Chùa Hương)


(Nguyễn Dư)


(5) Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút, Văn Học, 1972, tr. 84.



Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 1

Khi truyền thuyết xuất hiện trong Lĩnh Nam Chích Quái thế kỷ 14, tất cả những địa danh, nhân danh từ Đế Minh, Lộc Tục, Xích Quỷ… đến Hồ Tôn, Hồ Bắc, Hồ Nam, Động Đình Hồ… là tên thuần Hán. Tất cả nằm tại địa bàn nước Sở, tức Động Đình Hồ. 
Vương đầu tiên của người Việt là Kinh Dương Vương, có thể hiểu đó là “vương của châu Kinhchâu Dương”? 
Đất Kinh, mang tên loại cỏ Kinh mọc thành bụi cao, đa số dân thuộc chi Âu, đại diện là Âu Cơ, đọc theo phát âm Mường là Ngu Kơ, ưa sống miền núi rừng. 


Bây giờ, địa bàn của châu Kinh là tỉnh Hồ Bắc. 
Đất Dương có dân thuộc chi Lạc, đại diện là Lạc Long Quân, ưa sống miền biển. Địa bàn châu Dương gồm các tỉnh ven biển: Giang Tây, An Huy, Chiết Giang, và Giang Tô. 
Cả hai đại chi Âu và Lạc, thuộc chủng Yueh/Việt. Mỗi đại chi lại có hàng trăm tiểu chi. Khoa nhân chủng học ngày nay gọi nhóm này là Austro-Asiatic = người châu Á phương Nam, khác với Mongoloid, người châu Á phương Bắc, chính là chủng Hoa Hạ. 
Theo chính sử Trung Hoa, Châu Thành Vương (1042-1021 TCN) phong cho Hùng Dịch tước tử ở nước Sở, còn gọi là nước Kinh, để cai trị dân “man di” Yueh/Việt ở địa phương. Đây là lần đầu tiên người Trung Hoa thiết lập chế độ phong kiến (phong đất cho thuộc hạ, họ hàng). Đây cũng là lần đầu tiên người Hoa Bắc chính thức chinh phục miền đất phía Nam sông Dương Tử. 
(Trần Thị Vĩnh Tường)


Khoa trương trong ca dao của người Việt

Ý nghĩa nguyên thủy của các con số là biểu thị hàm ý chính xác; nhưng trong một ngữ cảnh nhất định, ý nghĩa của số từ phải suy ra và hiểu theo nghĩa rộng vì nó không biểu thị số thực, chính xác mà biểu thị số hư, mơ hồ do khoa trương mà ra.

Trong trường hợp này, tính mơ hồ của số từ là do biểu đạt khoa trương với ý nghĩa: số lượng rất nhiều, phạm vi rất rộng, thời gian rất dài v.v… Đặc biệt là trong văn học, các tác giả thường sử dụng các số từ “trăm”, “nghìn”, “vạn” với nghĩa “nhiều” làm cho tác phẩm thêm phần kích thích trí tưởng tượng của độc giả. Ví dụ:

Khó khăn thì chẳng ai nhìn

Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em


Hay

Cưới em tám vạn trâu bò

Mười vạn dê lợn, chín vò rượu tăm

(Nguyễn Ngọc Kiên)


Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 2

Nước Sở có từ bao giờ? 
Trong 800 năm, từ đầu thế kỷ 11 TCN đến khi bị Tần Thuỷ Hoàng diệt năm 223 TCN, nhà họ Hùng đưa nước Sở từ một miền phên dậu thành một chư hầu hùng mạnh có lúc lấn cả thiên tử nhà Châu, và suýt trở thành “thủ lãnh đại ca” của Xuân Thu Ngũ Bá. 
Năm 740-689 TCN, khoảng đầu thời Xuân Thu, nhà Châu bắt đầu suy, nước Sở cường thịnh dù vẫn bị người Hoa Hạ chế diễu “Vua Sở như con khỉ biết đội mũ”. Lãnh tụ của Sở là Hùng Thông tự ý xưng Vương, tức Sở Vũ Vương. Từ đó trở đi, tiếp theo hàng chục đời, lãnh tụ nước Sở bao giờ cũng có họ Hùng và tước Vương. Hùng Dịch, Hùng Thông, Hùng Sì, Hùng Cừ… 

Chữ Hùng 雄 viết y hệt như trong “Hùng Vương” của Việt Nam. 

(Trần Thị Vĩnh Tường)



Cua cáy phiếm lược - con cà ra

Cà ra là loại cua ở tỉnh Hải Dương. Đoạn sông Văn Úc qua địa bàn xã Vĩnh Lập là nơi có nhiều cà ra sinh sống. Cà ra được nhiều người ưa chuộng, bởi "thịt chắc, gạch ngon" và làm được nhiều món ăn ngon, ngon nhất là cà ra hấp mẻ…


Ngụp lặn với chữ nghĩa cà ra là tên gọi của một loài cua có hình dáng gần giống như con rạm vùng nước lợ nhưng kích thước lớn hơn. Cà ra có người còn gọi là cua lông, chỉ sống trong môi trường nước ngọt, trên các con sông, chưa ai nuôi và gây giống được. Đầu càng cà ra có một túm lông đen mềm, mịn. Như ghẹ, cù kì, cua đều có một càng rất to, một càng nhỏ, thì cà ra chỉ có hai chiếc càng nhỏ bằng nhau 8 cẳng. 


   


Cà ra thường làm hang ở chỗ nước sâu hay trong các kè đá. Loài cua này hay đi ăn đêm nên bát quái (?) phải thả từ trưa hôm trước đến sáng hôm sau mới nhấc.
Loại cua sông này có vị ngọt thơm không giống như những loại cua, ghẹ khác. Hương vị của nó cũng giống như cua dẹp.Cua tháng ba, cà ra tháng tám là thời điểm cua cà ra vào mùa nhưng chúng thực sự rộ nhất là vào tháng 9 và tháng 10 âm lịch. 


Cà ra có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như cà ra rang me, cà ra hấp, om lá lốt …, nhưng món ăn độc đáo, lạ nhất có lẽ là lẩu cà ra. Cà ra được thả vào nồi nước lẩu khi vẫn còn sống. Do vỏ cà ra mềm nên rất nhanh chín và không cần dùng đến kìm kẹp như khi ăn cua, ghẹ, cù kỳ…


Món cà ra nấu canh bầu dễ nhất: Cà ra rửa sạch, tách mu và yếm, khi xay cho một ít muối, phần gạch ở mai lấy ra để riêng. Cho nước cà ra lên bếp đun nhỏ lửa để phần thịt cà ra nổi đều trên bề mặt, sau đó thả bầu về phía không có thịt cà ra nổi lên trong nồi canh. Khi bầu chín nêm gia vị vừa đủ, cho lá lốt vào rồi bắc ra. Sau đó, phi thơm hành tỏi khô với một chút dầu ăn rồi cho phần gạch cà ra vào phi cho chín. Khi đơm canh ra bát thì lấy phần gạch đã chín rưới đều lên trên bát canh. Lúc múc canh nhớ múc cho khéo không để vỡ phần gạch cho bát canh đẹp và hấp dẫn hơn.


Đọc truyện & Xem phim “Bác sĩ Zhivago”

Tiểu thuyết kinh điển của Nga, sáng tác vào những thời kỳ trước Cách Mạng Tháng 10, như “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Lev Tolstoy (1828-1910) xuất bản năm 1816 hoặc “Anh Em Nhà Karamazov” của Fyodor Dostoyevsky (1821-1881) xuất bản năm 1880... đều là những loại “rất khó đọc”. “Khó” là vì đó là những trường thiên tiểu thuyết với nhiều tình tiết và nhân vật có những cái tên khó đọc, khó nhớ. Đến thời kỳ “Hậu Cách Mạng” (hay còn gọi là “Hậu Sa Hoàng”) cuốn Bác sĩ Zhivago” của Boris Pasternak (1890-1960) cũng thuộc vào loại “khó đọc” dù đó là tác phẩm đã được trao tặng giải thưởng Nobel về văn chương năm 1958.


Pasternak không nhận giải vì áp lực của chính quyền Xô Viết, vì ông thuộc nhóm người có tư tưởng “dửng dưng” với Cách Mạng Tháng 10 (nếu không muốn nói là “phản cách mạng”)!


Boris Pasternak (1890-1960)


(xem tiếp kỳ tới)

(Nguyễn Ngọc Chính)



Góp nhặt cát đá

Mộng


Trần gian vốn là mộng
Thực hư cũng là mộng
Say mộng hay tỉnh mộng
Đều là mộng mà thôi



Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn

Đường Bạch Đằng có tên là Hàng Xanh đi ra hướng Thị Nghè, Cầu Sơn. Khúc Cầu Sơn, Bình Qưới xưa là đồng ruộng it người ở chỉ có hảng sắt kỹ nghệ của ông Võ Hồng Nho (một thời bầu gánh cải lương Trăng Mùa Thu với cô đào chánh Bích Sơn, em cô Bích Thuận) thông ra đến sông Sài Gòn. Bây giờ mùa mưa, vùng Thanh Đa, Cầu Sơn, Bình Quới thường bị ngập là chuyện khó tránh, vì nước không có chỗ thoát.

Rạp Cao Đồng Hưng 


Trên đường Bạch Đằng có rạp chiếu bóng Cao Đồng Hưng, rạp này sinh sau đẻ muộn so với rạp Huỳnh Long trên đường Châu Văn Tiếp (nay Vũ Tùng), gần cửa chính của Lăng Ông. Rạp Cao Đổng Hưng trang bị toàn ghế bằng sắt có lỗ nhỏ, phía sau gần cửa vào thì có cả vài hàng ghế cây, học trò Hồ Ngọc Cẩn rất “thân quen” với rạp này, đối với Nguyên kỷ niệm là rệp cắn, vì lần ấy rạp CĐH được biến đổi để hát cải lương, vì cô Nguyên quen với bầu đoàn Thủ Đô nên được mời ngồi hàng ghế đầu, suốt buổi em gái Nguyên cứ cựa quậy, ngồi không yên, một số người ngối gần có vẻ không vui, Nguyên hỏi em thì em nói tại rệp cắn, vì em mặc “jupe”, em còn nhỏ nên chả biết gì về cải lương nên cứ ngọ ngậy bắt rệp, rồi Nguyên cũng thấy rệp cắn, thế là anh em Nguyên xin phép ra về sớm. Lý do cũng dể hiểu vì không ai ngồi hàng ghế đầu khi xem phim, thế là rệp tha hồ làm ổ, chỗ nào đánh hơi có thịt người là… làm luôn.


Đi xa hơn cổng lăng về hướng chợ Bà Chiểu thì sẽ thấy rạp Huỳnh Long, Đây là một rạp hát bình dân, hay chiếu phim Việt Nam và Ấn Độ. Rạp này lúc chiếu phim Tề Thiên Đại Thánh họ cho đốt nhang ở một góc trước màn chiếu có lẽ vì trong phim có xuất hiện Phật Bà Quan Âm và Đường Tam Tạng.


Đây là khu xóm ngày xưa đối diện với trường Lê văn Duyệt. Khu xóm này kéo dài đến gần Cầu Bông, chiều ngang từ ranh giới đường Lê Văn Duyệt đến đường Bùi Hữu Nghĩa. 


Trường Lê Văn Duyệt 2011


Cả khu này và khu trường Lê Văn Duyêt nằm trong khu đất ruộng nên có nhiều cầu ván để đi, chính trường Lê Văn Duyệt cũng nằm trên khu đất bồi để giảm thiểu chuyện ngập nước thường xảy ra trong mùa mưa và do thuỷ triều của rạch Thị Nghè- mà người địa phương vẫn gọi là sông Cầu Bông. Trường Lê Văn Duyệt lúc mới xây xong giống nằm trên một hòn đảo vì hầu như xung quanh trường là ruộng nước. Một hai năm đầu trường chưa cất phải tá túc với trường Nam Tỉnh lỵ (rồi Trương Tấn Bửu) và Hồ Ngọc Cẩn.
(Y Nguyên - Mai Trần)



“Chiệc” với Chệt

Qua những bài ca dao cổ hay mới gần đây như:

Cô kia đội nón chờ ai?

Chớ lấy chú Chiệc mà hoài tấm thân


Hoặc giả như:

Lấy Tây, lấy Chiệc làm chi

So bè nhân nghĩa chẳng bì An Nam



Thập niên 30, Sài Gòn lai rai

Vì quán mở trên một mũi nên được đặt tên là “Quán mũi đất của bọn đấu láo” (Bar de la Pointe des blageurs) hay nôm na là “mõm tán phét”. Đến năm 1961 một người Hoa thuê lại quán ấy, để lập ra quán Ngân Đình. Đến năm 1967, lúc tác giả Bình Nguyên Lộc viết bài về quán này, nó vẫn tồn tại.

Trong sáu tháng đầu, quán Ngân Đình giữ truyền thống cũ, nghĩa là lộ thiên và chỉ bán rượu thôi. Họ còn trải sạn trắng trên sân đất, thắp đèn mờ giấu trong vỏ sò. Nhưng rồi họ lợp nóc, tráng xi-măng cái sân đất, bỏ đèn mờ, bán thức ăn nên bọn đấu láo rút lui lần lần. Các món dê bảy món, món xào, món nước, món khô… nhắc ở trên, được cho là lạ miệng có lẽ là món ăn nấu theo kiểu người Hoa. Ông Bình Nguyên Lộc kết luận về quán Ngân Đình: “Kể ra thì Sài Gòn còn được cái quán 70 tuổi đó cũng là một chuyện đáng nói tới”.

(Phạm Công Luận)


Tiểu sử :  Phạm Công Luận bút danh Phạm Lữ Ân. Sinh năm 1961 tại Sài Gòn. Quê nội Quảng Bình, hiện ở Phú Nhuận.

 

Tác phẩm: Sài Gòn Chuyện Đời Của Phố 1, 2, 3


Bay

Ông du khách Trung Quốc tới nước ta nói với người hướng dẫn viên du lịch rằng ông đã đi Hạ Long bay, Cam Ranh bay nhưng có một cái “bay” ông chưa được dẫn đi thăm. Người hướng dẫn viên hỏi cái “bay” nào?

Ông du khách Trung Quốc chỉ bức tường gần đó có hàng chữ:

Cấm không được đái


Ông du khách Trung Quốc gia dĩ là người Tàu, không đọc 

từ trái sang phải như ta mà đọc từ phải sang trái:

Đái được không cấm 

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)



Ngôi sao Hàn Thuyên

Người ta thường nói đến một từ-trường Nguyễn Đức Quỳnh. Đến sức hấp dẫn kỳ lạ toát ra ở ông. Đến hiệu năng thu hút khác thường tưởng như có ma thuật ở nơi ông, đối với lớp nhà văn trẻ suốt hai thập niên vừa qua, ở miền Nam. Đừng vội bảo rằng vì đến ông, tự ái được ve vuốt, giá trị được phóng lớn. Phải nói rằng lớp người trẻ tuổi tìm đến ông đơn giản vì ông gần họ nhất. Và đã thấy ông trước như thế nào mới chịu đến. Điểm này dưới những chùm hoa gạo Quần Tín năm nào, Nguyễn Đức Quỳnh với đám người trẻ hồi đó, hệt như lớp người trẻ ở đây, sau tôi. Nguyễn Đức Quỳnh ngày ấy và của Đàm Trường Viễn Kiến gần đây là một. Một sức hút. Một từ trường.


Họp mặt Quần Tín cũng là một chia lìa. Những người mác xít, chưa ra hẳn mặt, đã muốn áp đặt đường lối chính trị họ vào hội thảo văn học. Không khí họp mặt thoạt đầu cởi mở, trở nên trầm trọng, ngột ngạt. Những phát biểu không xuất phát từ biện chứng hiện thực bị bác bỏ tàn bạo. Trên bàn chủ tịch đoàn, Nguyễn Đức Quỳnh là người duy nhất đánh phá đường hoàng vào sự trầm trọng lệch lạc này. Bằng những ý kiến phóng khoáng, vui nhộn, tếu nghịch, làm nhẹ hẳn cái không khí khó thở đè nặng. Ở dưới, bọn trẻ chúng tôi khoái thích ông vô tả. Thấy ông bước vào phòng họp là chúng tôi vỗ tay ào ạt.


(Mai Thảo)


Nguyễn Đức Quỳnh sinh ngày 20-11-1909, mất năm 1974. Quê làng Trà Bồ, huyện Phù Cừ, bút danh Hoài Đồng Vọng...


Từ năm 1931 ông thành lập nhóm Hàn Thuyên với tạp chí Văn Mới xuất bản định kì như một nguyệt san văn học. Hàn Thuyên là một nhóm văn sĩ có khuynh hướng nhân sinh gồm một số cây bút có tiếng trước thế chiến II: Nguyễn Đình Lạp, Đặng Thai Mai, Trương Tửu, Nguyễn Tuân, Phạm Ngọc Khuê... đã xuất bản một số tác phẩm văn, sử có tiếng vang hồi tiền chiến.



Đến Diên Khánh nhớ tích xưa

Sẵn tiện tôi ghé qua thăm nhà thờ Hà Dừa gần đó, đi qua cổng Tây thành một đoạn thì ta sẽ đến nhà thờ Hà Dừa, nhiều người lầm tưởng nhà thờ Hà Dừa chỉ mới được xây vào năm 1917 nhưng thật ra đây là một nhà thờ cổ được xây dựng từ rất lâu đời nhằm mục đích truyền đạo cho người dân trong vùng, ít nhất là từ những năm 1800.. mấy. 


Sau này những Cha Sứ đi truyền đạo cho xây dựng và tu bổ. Đến năm 1917 thì người Pháp cho xây dựng thêm tháp chuông như kiến trúc ngày nay. Cái tên Hà Dừa cũng không biết xuất phát từ đâu, chỉ nhớ rằng mình đã đọc đâu đó một lần là do khu vực này trước đây mọc rất nhiều dừa, Hà Dừa có nghĩa là con sông dừa. Đến nay qua bao năm do ít được trùng tu thường xuyên nên phía ngoài nhà thờ xuống cấp khá nhiều, nhưng chính những vết thời gian ấy lại làm mình muốn chụp nơi này.


_MG_3537   (Nhà thờ Hà Dừa)


Chia tay nhà thờ Hà Dừa, tôi quay trở lại Nha Trang để tiếp tục đi lang thang những điểm khác.


(Trần Ngọc Hiếu)

thổ quán Bạc Liêu, hiện ngụ cư tại Sydney, Australia 

người viết tạp bút quê hương, ký‎ sự địa danh, di tích lịch sử



Kỷ vật Hồ Trường

Bản dịch trên Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920

Sau đây là nguyên bản lời ca Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác dịch thoát trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920 (giữ nguyên các lỗi sai so với chính tả ngày nay):

Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường;

Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương

Trời nam nghìn dậm thẳm, mây nước một mầu sương

Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.

Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.

Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?

Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;

Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan

Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;

Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng

Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta hay

Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.


(Trần Trung Sáng)


Tiểu sử: Trần Trung Sáng là họa sĩ, nhà văn. Sinh năm 1954, người Hội An, Quảng Nam. Hiện ở Đà Nẵng.

Tác phẩm: Tập truyện: Dấu Xưa Xứ Quảng, Ký Ức Thành Phố Tiếng Còi Tàu, Ký sự về Người Hoạ Sĩ Ở Ngục Tù Côn Đảo.

 

***


Phụ đính 


Huy Cận, Xuân Diệu

Khi tập thơ Những năm 60 của Huy Cận ra đời, Xuân Diệu đặt tôi viết bài phê bình đăng Tác phẩm mới. Anh nói, Huy Cận đang đi Pháp, Mạnh phải viết thẳng tay, nêu rõ nhược điểm cho cậu ta đỡ chủ quan. Tập thơ nhiều bài yếu lắm. Khi viết bài ấy, anh có trao đổi góp ý với tôi. Tôi nhận thấy Xuân Diệu có một cái gì như là có chất đàn bà, hay hờn dỗi. Và khác hẳn với Nguyễn Tuân, anh hay bộc lộ thẳng tình cảm với những người mà anh quý mến. Thực tình tôi không hiểu sao Xuân Diệu lại có thể thân với Huy Cận. Họ quả cũng có những chỗ hợp nhau. Nhưng Huy Cận đâu phải hạng người tử tế, ngay cả trong tình bạn với Xuân Diệu


Hai ông bạn, có chỗ này quả là giống nhau: cùng ăn rất khoẻ và chỉ thích thịt cá, trứng vịt lộn, nghĩa là những thứ nhiều prôtit. Hồi khoa văn Đại học sư phạm Việt Bắc đưa sinh viên về Hà Nội để mời các nhà văn đến nói chuyện, tôi có được nhờ tiếp khách hộ. Tôi thấy Xuân Diệu rất thích uống bia và húp trứng sống. Tối nào, cần viết một cái gì, buổi chiều thế nào cũng phải mua ba lạng thịt chó để bồi dưỡng. Có thế mới có sức viết. Xuân Diệu chết vì bị nhồi máu cơ tim, tức là máu nhiễm mỡ, cần kiêng ăn nhiều thịt, trứng. Khi anh mất, Vũ Tú Nam nói, Xuân Diệu đã bồi dưỡng nhầm là vì thế. Huy Cận cũng vậy. Phải nói là tham ăn.


(Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh) 


 



Không có nhận xét nào: