Chữ Nghĩa Làng Văn
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
***
Khoa cử thời xưa
Nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu vào năm 1070 đời vua Lý Thánh Tông.
Năm 1076, vua Lý Nhân Tông xây Quốc Tử Giám và sau đó mở khoa thi Nho học đầu tiên.
(Bia tiến sĩ ở Văn Miếu)
(Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội - Bùi Xuân Đính)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn kia… đứng chửi thề
Góp nhặt…
Nếu Hà Nội có tẩm quất, có bánh mì ủ trong chăn, có “đậu phụng rang húng líu” của ông Tàu già ở tháp Hoà Phong gần hồ Gươm. Sau này nhiều người học nghề ông Tàu già rao lang thang khắp phố phường: “Phá xa, húng lìu nóng ròn đây”…
Thì Sài Gòn cũng có “Chú chệt bán đậu phọng rang”. Bởi từ câu thơ trong tập thơ rất xưa Hoa trái mùa từ năm 1943…
Quần chằm khiếu, áo lang thang
Trên đầu đội cái nón rách
Đi khắp quanh đường tắt
Làng trên xóm dưới reo vang:
Tàu phọng rang
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Má bánh bầu xem lâu muốn chửi
Mặt chữ điền tiền rưỡi muốn mua
Tướng mặt
Mặt là bộ phận được nghiên cứu nhiều nhất trong nhân tướng học phương Đông. Chỉ cần nhìn qua người đối diện, bạn có thể biết cá tính, vận mệnh cả đời của người đó.
Mặt Lưỡi Cày :
Đây là dáng mặt dài thượt, thẳng tuột nhọn cằm, lưỡng quyền thấp, mũi thấp. Mặt có bề ngang hẹp, như cái lưỡi cày hoặc hẹp giống cái đinh là tướng cô độc, làm gì cũng thất bại, nghèo khổ.
Thành Tây
Dân đất Bắc
Đắp thành Tây.
Đông thật là đông
Sầu Nam vời vợi.
Câu này gồm đủ đông, tây, nam, bắc. Dân đất Bắc phải chăng những người bị đưa vào Nam làm dân phu, đắp thành cho người Tây? Số dân phu ắt nhiều lắm, đông thật là đông. Sự đông đúc này quả là một mối sầu vời vợi cho nước Nam, cho dân Nam! Nước mất nhà tan, thân làm nô lệ, phải đi đắp thành cực khổ cho Tây để chúng dựa vào thành trì đô hộ đồng bào mình. Người miền Bắc bị đi dân phu hằng than thở:
Nhà tan nước mất ai ơi
Cái thân nô lệ sống đời cu ly
(Hồ Đình Vũ)
Cư dân Hà Nội
- Thời Lý khoảng 15000 người.
- Thời Lý Trần có lúc lên tới 40000 người.
- Thời vua Lê chúa Trịnh vì Thăng Long bị
lụt lội và cháy nên còn khoảng 20000 người.
- Năm 1950, Hà Nội có khoảng 300,000.
- Năm 2000, Hà Nội dân số lên đến trên 3 triệu.
Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam
Cái ấm đất và bộ chén trà từ đó lại lẽo đẽo theo tôi hơn một nửa đời người. Bộ đồ trà đã có lúc được gói trong những mảnh vải xé, trong giấy nhật trình hay được bầy trong tủ kính ở phòng ăn phòng khách. Tuyệt nhiên, nếu tôi nhớ không lầm, chưa có lần nào tôi dám mang ra hầu tiếp bạn bè hoặc pha một ấm trà uống một mình. Có một cái gì thiêng liêng đâu đó, như âm hồn bao nhiêu người xưa cũ còn quẩn quanh đã khiến tôi biến một vật thành một món đồ thờ. Cũng có một khoảng thời gian khá dài, sau khi đã quân bình được cuộc sống, tôi cũng sa đà vào những cái vụn vặt của thú uống trà. Tôi cũng đi tìm mua những ấm trà được tạo dáng khác nhau. Cái ấm trà và bộ chén trà trong những năm gần đây, thật sự tôi cũng không biết đã ẩn nấp ở đâu trong nhà.
Riêng có bộ sưu tập những phác họa của Nguyễn Gia Trí và bộ đồ trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam, tôi giữ lại. Tôi sẽ cặm cụi viết những dòng chữ về cái ấm đất và bộ chén trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam để có dịp nhìn lại và tìm hiểu về món kỷ vật đã có cái duyên theo tôi trên một nửa thế kỷ.
Nếu cách đây khoảng một tháng Nguyễn Tường Thiết, người anh họ tôi, đã không gọi tôi hỏi han về bộ đồ trà này. Thiết nói với tôi: cái ấm đất Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam là một chuyện thú vị lắm chứ, sao ông không viết vài hàng về nó. Thiết cho tôi biết lần đến thăm tôi cách đây hơn nửa năm, chủ yếu để nhìn tận mắt cái ấm đất mà Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ tả trong truyện ngắn của ông, nhưng lại vì những chuyện đâu đâu quên đi không hỏi tới.
Đối với tôi, cái ấm đất và bộ chén trà nhiều khi không còn hiện diện, mà chỉ là những kỷ niệm liên hệ đến cha tôi, mẹ tôi, căn nhà tranh ở Hồ Tây và người văn sĩ tài hoa Nguyễn Tuân một lần đến thăm, một thời nào đó đã xa xôi lắm như chỉ có trong giấc mơ. Vợ tôi, sau cả ngày lục lọi, cuối cùng cũng tìm ra cái ấm trà và bộ đĩa chén để trong một cái túi nhựa giấu sâu trong giá sách.
(Nguyễn Tường Giang)
Hồi ký “Một Cơn Gió Bụi” của Trần Trọng Kim bị thu hồi
Tin cho hay bản in lại cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục) của học giả Trần Trọng Kim (1883-1953) vừa bị Cục Xuất bản, in và phát hành thu hồi vì "có nhiều chi tiết không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng" trong khi có ý kiến nói cuốn hồi ký có "giá trị lịch sử".
Cuốn hồi ký của học giả Trần Trọng Kim xuất bản năm 1949, tóm lược quãng đời làm chính trị của ông trong giai đoạn 1942 - 1948. Ông cũng là đồng tác giả bộ Việt Nam Sử Lược (1) với bao thế hệ học sinh Việt Nam. (1) xem tiết mục Việt Nam Sử Lược ở phần sau
Một Cơn Gió Bụi nói lên suy nghĩ của ông về các sự kiện xảy ra trong nước thời bấy giờ như sự thành lập chính phủ của Việt Nam, sự cầm quyền của Việt Minh, cùng Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất do Việt Minh phát động.
Với sử gia Phạm Cao Dương:
“Bốn tháng đầy rẫy những khó khăn nhưng những thành quả đạt được không phải là không đáng ghi nhận… Vượt qua tất cả mọi khó khăn, Trần Trọng Kim và các cộng sự viên của ông đã vạch ra những mục tiêu và chương trình hành động cụ thể và thực tế, từ những việc làm có tính các tương trưng như đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đổi quốc kỳ, duyệt lại quốc ca… đến cứu đói, thu hồi toàn vẹn lãnh thổ, bắt các quan ở các tỉnh phải trực tiếp liên lạc với chính phủ Việt Nam và cấm họ liên lạc trực tiếp với người Nhật như họ vẫn liên lạc với người Pháp trước kia, Việt Nam hóa nền giáo dục, cải tổ thuế má, tư pháp, vận động thanh niên sinh viên tham gia sinh hoạt chánh trị, xã hội, lập các hội đồng tư vấn địa phương và vận dụng mọi khả năng để thực hiện.”
(Dương Cầm)
Góp nhặt cát đá
Mộng
Giã từ cõi mộng điêu linh
Ta về buôn bán với mình phôi pha
Bùi Giáng vẽ tranh
Cùng với các tập thơ đã xuất bản như Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Bài Ca Quần Đảo, Sa Mạc Trường Ca, Rong Rêu, Đêm Ngắm Trăng, v.v., Bùi Giáng (1926-1998) còn được biết tới qua ngòi bút dịch thuật, bình luận văn học và triết học.
Tuy nhiên, ít người biết Bùi thi sĩ vẽ, lại vẽ nhiều. Do đó, khá đông người - đặc biệt là những kẻ hâm mộ Bùi tiên sinh - tỏ vẻ thích thú khi nhận được thông tin từ bài Một Bức Tranh Lở Dở của Hoàng Hoài Sơn đăng báo Tuổi Trẻ xuân Tân Tị 2001: "Bùi Giáng vẽ nhiều. Tại Việt Nam hiện có khoảng 10 - 15 bức tranh do ông vẽ bằng bút chì đen, bút sắt. Nhưng tranh màu thì cho đến thời điểm này dường như Chân dung lở dở là bức duy nhất còn lại."
Bức tranh vừa nêu vốn được Bùi Giáng sáng tác vào khoảng năm 1966-1967 bằng bột màu / gouache trên giấy kích cỡ 105 x 63cm, mô tả một phụ nữ khả ái và đượm buồn giữa nền xanh lục nhạt. Phía dưới bức tranh, người vẽ ký tên bên góc trái, còn góc phải thì ghi luôn nhan đề: Chân Dung Lở Dở.
Bài báo của Hoàng Hoài Sơn cho hay rằng trước kia, bức tranh này treo trong nhà ông Bùi Hộ (anh ruột của Bùi Giáng); đến năm 1975, ông Hộ ra nước ngoài thì ông Bùi Văn Ký (em ruột của Bùi Giáng) đem tranh về Thủ Đức rồi sau đấy lại chuyển xuống Long Đất (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Khoảng năm 1992 - 1993, do uống rượu, thiếu tiền, ông Ký đem tranh bán cho chủ quán được... chục nghìn đồng. Năm 1976, Phạm Bùi Nam Liên (cháu gọi Bùi Giáng bằng cậu ruột) xin chuộc tranh ấy với giá 1 triệu đồng.
(Phanxipăng)
Những trăn trở tháng Tư - 1
Nguyễn Thị Thanh Bình: Sau 44 năm không còn tiếng súng đạn pháo, liệu tháng tư 1975 trong lòng bạn vẫn còn là tháng tư đen, và mỗi người trong chúng ta dường như đều có mỗi cách riêng để nghĩ về hoặc truy điệu cho Ngày 30/4 chăng? Ví dụ bạn có cảm hứng sáng tác một chút thơ “riêng tư” nào cho tháng 4 như thắp lên nén hương lòng chẳng hạn? Nếu bạn không làm thơ thì bài thơ tháng 4 hay tác phẩm nào khiến bạn xúc động nhất?
Đại khái lúc trước tôi rất tâm đắc những linh cảm tiên tri của thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong mấy câu thơ: “Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc bến”, hoặc “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”… Coi như là chuyện “thơ thẩn”, vì dường như khi lòng mình chưa quên lãng nguôi ngoai thì người Việt vốn là dân tộc yêu thơ, nên đều muốn được gởi gấm cùng thơ. Kỳ thực bạn ơi, nếu có một ai đó đang muốn lắng nghe một câu chuyện tháng 4 của bạn như “chuyện bây giờ mới kể”, thì liệu bạn có muốn chia sẻ điều gì cho mốc điểm 30/4 năm nay? Và liệu có bao giờ bạn tự hỏi giang sơn đất nước chúng ta đã quy về một mối, sao điều gì vẫn khiến lòng người ly tán và không thống nhất được?
(Nguyễn thị Thanh Bình phỏng vấn Hòang Hưng)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“xa: xa trường. → không viết: sa”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết “sa” mới đúng. Vì “sa trường” 沙 場 = bãi cát bằng mà rộng, thường dùng để chỉ chiến trường.
(Hòang Tuấn Công)
Những trăn trở tháng Tư - 2
Hòang Hưng: Tôi không trả lời “trực tiếp” từng ý nhỏ trong câu hỏi của bạn! Mà chỉ nhân đây kể ra vài việc thật của bản thân hoặc nói lên suy nghĩ của mình vào lúc này liên quan đến ngày 30/4.
Cho câu 1, cũng để trả lời câu hỏi của một bạn văn ở “bên thua cuộc” mới quen trên FB, tôi đã post vài đoạn nhật ký viết bằng văn vần từ đầu những năm 1970. Nay xin chép lại (theo trí nhớ) để bạn thấy tôi đã từng nghĩ thế nào về cuộc chiến, sau một số năm cũng xổ ra không ít vần thơ hào hùng như mọi cây bút khác trên đất Bắc, thậm chí còn viết đơn “tình nguyện đi B. (miền Nam) phục vụ chiến trường” (chắc là làm báo “Giải phóng”?).
Các anh bảo chúng tôi
Đi chiến đấu cho ngày mai tươi đẹp
Chúng tôi đi
Vì không sợ chết
Chúng tôi chết
Vì sợ sống hèn
Nhưng sẽ ra sao cái ngày mai ấy?
…
Trong vụ án “Về Kinh Bắc” năm 1982 (tôi cầm bản chép tay “VKB” mà nhà thơ Hoàng Cầm chép tặng để mang vào Sài Gòn “chơi”), vì tôi cãi bướng, công an đã vào SG lục tung nhà tôi và vớ được những dòng “thơ” này. Họ kết luận: “Thơ này phản động gấp trăm lần thơ HC” (lời ông Khổng Minh Dụ, trưởng phòng Văn nghệ của Cục An ninh Văn hoá – A25 – lúc đó, sau này là Thiếu tướng Cục trưởng). Và kết quả là tôi được… đi tập trung cải tạo (“chiếu cố nên chỉ xử lý nội bộ, không đưa anh ra toà” – lời sĩ quan điều tra khi kết luận vụ án), ở cùng trại với rất đông cựu sĩ quan công chức của “bên thua cuộc”!
(Nguyễn thị Thanh Bình phỏng vấn Hòang Hưng)
Hoàng Hưng sinh năm 1942 tại Hưng Yên. Tên khai sinh Hoàng Thụy Hưng. Dạy học rồi làm báo. Chuyển vào Sài Gòn sống từ 1977. Bị bắt và tập trung cải tạo (từ tháng 8/1982 đến hết tháng 10/1985) vì cầm tập bản thảo Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm và cất giữ những phác thảo thơ của mình trong nhật ký.
Trở lại nghề báo năm 1987, về hưu năm 2003, viết bài và biên tập các trang mạng vanviet.info. Hiện sống tại Sài Gòn, Vũng Tàu.
Ai là người dịch Chinh Phụ Ngâm
Chinh Phụ Ngâm nguyên là tác phẩm chữ Hán do Đặng Trần Côn đời Lê Trung Hưng viết, dài đến 477 câu, làm theo thể trường đoản cú, diễn tả nỗi cô đơn của người chinh phụ mòn mỏi trông chồng đi chinh chiến xa mà Chinh Phụ Ngâm lại làm bằng chữ Hán nên đã được nhiều người dịch ra chữ Nôm.
Vấn đề khúc mắc ở chỗ bản Nôm Chinh Phụ ngâm diễn âm: Hiện có cả thảy 8 bản nôm cổ. Điều gây khó nhất cho ta hôm nay là tất cả các bản Nôm này đều không có tên người dịch.
Cái khó thứ hai là các bản Nôm khác biệt nhau nhiều, riêng có một bản được phiên ra quốc ngữ từ lâu, rất quen thuộc trong các sách văn học kể cả sách giáo khoa, tạm gọi bản này là bản Nôm hiện hành lại tồn tại lời “tương truyền” bà Đoàn Thị Điểm là người dịch bản Nôm này.
Lời “tương truyền” chỉ là lời đồn đoán, không có bằng chứng nên non 100 năm nay, người ta đã bàn cãi rất nhiều: Ai là tác giả bản dịch Nôm Chinh Phụ ngâm hiện hành?
GS.Hoàng Xuân Hãn sưu tầm được 7 bản, GS. Nguyễn Văn Xuân sưu tầm thêm được 1 bản tại Huế với tên sách là Tân San Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Từ Khúc. Các bản này đều không có tên người dịch nôm. Riêng bản của GS. Nguyễn Văn Xuân có bài tựa của Phan Huy Ích. Đây là những bản Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm cổ tức là có trước bản của Trương Vĩnh Ký (1887) và Vũ Hoạt (1902) cũng như các nối bản về sau.
Kể từ bản của Trương Vĩnh Ký về sau đều có ghi tên người dịch:Văn Giang Trung Phú Đoàn phu nhân Điểm diễn âm.
(Nguyễn Cẩm Xuyên)
Phạm Thị Hoài
Nina McPherson, dịch giả chính thức của Dương Thu Hương kể lại kỷ niệm của mình khi tiếp xúc văn chương Việt: Năm 87, bao sân những vụ nổi dậy chống Bắc Kinh ở Tây Tạng cho Thông Tấn Xã AFP. Năm 89 bao sân biến động Thiên An Môn, bị thẩm cung và bị trục xuất. Chứng kiến những Lạt-ma bị đạn của công an Trung Quốc rồi chứng kiến các sinh viên của mình bị bắt, phải thú tội trên truyền hình, đến phiên chính bản thân bị phát vãng, McPherson trở về Pháp với ám ảnh ray rứt một Á Châu bị đàn áp.
Buổi sáng tháng Giêng 1991, lướt ngang qua một hiệu sách, McPherson vô tình trông thấy sau phiến kính bản dịch Pháp ngữ Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài. Còn một Á Châu khác với những thân phận muốn vượt thoát?
Đẩy cửa bước vào. Từ bấy, là cuộc phiêu lưu với những bản dịch.
Cá nhân tôi có kỷ niệm tương tự: Tôi cũng tình cờ đi qua một hiệu sách khu Maubert-Mutualité, nơi McPherson sinh sống, và, có thể đã nhìn thấy cùng tấm chân dung Phạm Thị Hoài bên cạnh quảng cáo La Messagère de Cristal sau tấm kính. Tôi cũng đã đẩy cửa bước vào, và mua, rồi giống McPherson, là một khám phá. Khi ấy, tuần lễ 24 tháng 1-1991 lúc bản dịch Thiên Sứ bày bán, Phạm Thị Hoài hãy còn xa lạ với độc giả bên ngoài.
Editions des Femmes là một nhà xuất bản uy tín, việc quảng cáo rầm rộ Thiên Sứ và cho in dưới chân dung Phạm Thị Hoài câu văn của tác giả: “Je refuse tout uniforme. Ils sont toujours trop étroits ou trop larges pour moi. Qu’on me laisse nue, avec ce corps flétri qui, très tôt, s’est arrêté de grandir.” (Tôi từ chối mọi đồng phục. Chúng luôn quá chật hay quá rộng đối với tôi. Hãy để tôi trần truồng với tấm thân chết khô mà đã từ rất sớm, ngừng lớn lên.) là một hiện tượng.
Ít lâu sau, tôi đọc bản Việt ngữ Thiên Sứ in trong tạp chí Tác Phẩm Mới vào năm 86 khi Nguyễn Đình Thi còn làm tổng biên tập. Bản gốc này, với tôi, mới thật sự là một kinh ngạc. Tác giả hành văn như một kiếm thủ, am tường đao pháp và múa đao trên sân Tinh Võ. Không phải trước tác bằng cách viết lên trang giấy, nhưng là đâm, cứa và cắt bằng chữ trong một không gian được cân, đo, đong, đếm từng hạt bụi. Là Phạm Thị Hoài. Áp Tết Mậu Tuất, là dịp hiểu thêm nhà văn có cú pháp lưỡi lam này.
(Trần Vũ thực hiện)
Tiểu sử: Phạm Thị Hoài tên thật: Phạm Thị Hoài Nam. Sinh năm 1960 tại Hải Dương. Ngụ cư tại Berlin, Germany
Tác phẩm: Thiên sứ, Mê lộ, Từ Man Nương đến AK (truyện ngắn và tiểu luận), Marie Sến, Chuyện Lão Tượng Phật Di Lặc và Nàng Nậm.
Tác phẩm biên soạn: Trần Dần: Ghi 1954-1960.
“Thơ con cóc”: Một bài thơ hay
Thay đổi một cách cảm bao giờ cũng khó khăn hơn là thay đổi một cách nghĩ, do đó, nói chung, những sự thay đổi trong thơ bao giờ cũng chậm chạp và nhiều trăn trở hơn các lãnh vực nghệ thuật hoặc các thể tài văn học khác.
Từ thập niên 20, văn xuôi đã chuyển mình trong khi thơ cứ ì ạch mãi trong lối mòn. Đầu thập niên 30, tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn ra đời được hoan nghênh tức khắc, nhưng cùng lúc, phong trào Thơ Mới xuất hiện kéo theo bao nhiêu là tiếng la ó, phản đối, phần lớn từ những người làm thơ hoặc tự nhận là yêu thơ. Cuối thập niên 50, ở miền Nam, chúng ta làm thân dễ dàng với câu văn xuôi của Mai Thảo song đến tận cuối thập niên 70 và không chừng đến cả hiện nay nữa, rất nhiều người trong chúng ta vẫn ngỡ ngàng trước những câu thơ của Thanh Tâm Tuyền.
Sau năm 1975, ở hải ngoại, chúng ta đón nhận sự táo bạo trong truyện ngắn của Trần Vũ một cách đầy thiện cảm.. Sau năm 1986, ở trong nước, truyện dài và truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn, thay đổi khá nhiều với những thể nghiệm thông minh và tài hoa của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, riêng thơ, trừ một số ngoại lệ cực kỳ hiếm hoi, vẫn tiếp tục ầu ơ như cũ. Dường như, trong thơ, sau khi lột bỏ chiếc áo tứ thân, cho đến tận bây giờ, đa số trong chúng ta vẫn mặc hoài chiếc áo dài Le Mur, cái mốt của thời Thơ Mới. Thơ, do đó, lại biến thành một thứ viện bảo tàng chất chứa các di chỉ một thời xưa cũ, cái thời.
Nói như Thường Quán, trong bài ‘Xưa thơ’:
Xưa thơ niềm bình dị nắng trời cổ lục
Màu gió xanh câu hát níu câu hò
Chảy mãi suối nguồn núi sông uốn khúc
Nước đưa người qua bến nắng thơm tho...
...Chỗ trú của thơ là nơi nào trong tóc bỏ đuôi gà kia thầm lặng
Nắng thả rơi lên một lá trúc đào.
Buồn.
(Nguyễn Hưng Quốc)
Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 1
“Quốc tịch” dân Sở: Đại thần/thuộc hạ của Châu Thành Vương đều là người chủng Hoa Hạ. Hai người Sở nổi tiếng, thi sĩ Khuất Nguyên, tác giả Ly Tao, và Hạng Võ, mà người Việt giới bình dân đều rành nhờ… tuồng cải lương Hồ Quảng Hạng Võ biệt Ngu Cơ. Tây Sở Bá Vương Hạng Võ người chủng Hoa Hạ, Ngu Cơ chủng Việt, chi Âu. Không riêng gì Sở, dân “man di” miệt Nam Dương Tử đa số là Yueh/Việt. Nên khi hai nước Trịnh, nước Vệ có chiến tranh, quân dân hai bên leo lên mặt thành nói chuyện thả dàn, không cần thông dịch viên. Sử không thèm ghi xem bọn dân đen nói chuyện chi. Mời nhau ăn một miếng trầu, rủ rê xuống ruộng dâu, đánh trống đồng hay hát bài “Việt Nhân Ca” .
Chi tiết trên chứng tỏ đánh nhau là chuyện của lãnh chúa Hoa Hạ, còn dân Việt tỉnh bơ ví dầu nói chuyện trời trăng. Điều này rất quan trọng nhưng độc giả lướt qua vù vù như cưỡi máy bay, yên chí mình đang đọc truyện về dân Tàu. In hệt hồi Tần Thuỷ Hoàng sai Triệu Đà, người Hoa thứ thiệt, đi “bình định” vùng Lĩnh Nam. Khi nhà Tần yếu, Triệu Đà xưng làm vua Nam Việt, nhưng dân vẫn cứ là giống Việt “man di”.
Tiếng nước Sở ngày nay đã bị Hoa hóa nhưng giọng nói của dân Hồ Bắc, Hồ Nam vẫn còn giữ thổ âm của tiếng Sở ngày xưa. Người Hoa gọi đó là giọng Hồ Quảng (nơi phát xuất… cải lương Hồ Quảng). Hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây gọi là tỉnh Việt. Tiếng Quảng Đông còn gọi là Việt ngữ. Kịch nghệ ở Quảng Đông là Việt kịch. Thức ăn của Quảng Đông là Việt thái (tsai).
Xin để ý: dân tộc Việt Nam là một thành phần trong khối Yueh/Việt. Nhưng không bao giờ là toàn khối chủng Yueh/Việt cả. Vì vậy những thành tích/khám phá có dính líu đến “người Việt” về phương diện nhân chủng/khảo cổ/văn hoá/… đào bới được ở khắp vùng châu Á không luôn luôn có nghĩa thuộc về người Việt Nam ở Việt Nam. Ngay cả nền văn hoá Hoà Bình thuộc thời đồ đá mới tuy tìm thấy ở tỉnh Hoà Bình, nhưng giới khoa học rất thận trọng, họ không coi nền văn hoá này là của người Việt Nam vì thời đó chưa có nước Việt Nam và người Việt Nam.
Ai là chủ nhân thực sự văn hóa Hoà Bình, vẫn là một câu hỏi.
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Bài thơ Con Cóc qua nhận định
nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc
Mặc Lâm: Thưa anh nếu tôi nhớ không lầm thì có ý kiến cho rằng chẳng những bài thơ Con Cóc được xem là dở mà nó còn điển hình của cái dở nữa, người ta thường lấy nó ra để đồng hóa với những bài thơ dở, anh nghĩ sao về điều này?
Nguyễn Hưng Quốc: Về phương diện lý luận mà nói chuyện gì trở thành điển hình thì không thể dở được ngay khi nó điển hình về cái dở thì cũng là sự thành công, kiểu như Nam Cao mô tả Thị Nở cũng là một sự thành công về nghệ thuật.
Nếu bài thơ Con Cóc là một bài thơ hay thật thì quan hệ giữa nó và ý nghĩa bài thơ như thế nào? tôi muốn nói tới nhà phê bình. Đâu là giới hạn của nhà phê bình, cách diễn dịch như vậy có hiệu quả gì... nó liên quan tới việc viết và việc đọc. Nó liên quan đến văn học là lịch sử của điều viết hay những điều được đọc v..
(Mặc Lâm, phóng viên đài RFA)
Chương trình Văn Học Nghệ Thuật kỳ này Mặc Lâm xin giới thiệu nhà phê bình lý luận văn học Nguyễn Hưng Quốc và tác phẩm Thơ v…v và v…v trong đó đặc biệt nói về bài thơ "Con Cóc" mà ông chứng minh là một bài thơ không dở như mọi người thường nghĩ từ trước đến nay. Nguyễn Hưng Quốc tên thật Nguyễn Ngọc Tuấn, nguyên quán Quảng Nam. Vượt biên đến Pháp năm 1985.
Ông hiện dạy Ngôn Ngữ, Văn Học, Văn Hoá và Chiến Tranh Việt Nam tại trường đại học Victoria, Úc; nguyên chủ bút tạp chí Việt; một trong những người chủ trương Trung tâm văn học nghệ thuật liên mạng Tiền Vệ.
Ông là tác giả của nhiều tác phẩm biên khảo có giá trị về văn học Việt Nam trong đó được nhiều người biết đến nhất là tác phẩm Văn Học Việt Nam Từ Điểm Nhìn Hậu H(i)ện Đại (2000) - (Mặc Lâm, phóng viên đài RFA)
Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 2
Chiến tranh: Sử Tàu không ghi chép đời sống của dân bản địa. Bộ Đông Châu Liệt Quốc toàn tả lãnh tụ xưng hùng xưng bá. Chỉ biết từ đời Xuân Thu Chiến Quốc 722 TCN đến khi Sở bị Tần diệt năm 223TCN là một thời kỳ hỗn loạn. Dân ở phía Nam sông Dương Tử chịu cảnh binh đao, tàn sát, cướp bóc… hông biết bao nhiêu mà kể. Chính biến, đảo chánh, giành ngôi, phế lập, âm mưu, cướp bóc, lãnh chúa… biên giới các “nước” thay đổi. Có nước bị giải thể. Hàng ngàn nước bị chia cắt, sát nhập lúc vào nước này, lúc vào nước kia. Khi Tần Thuỷ Hoàng, “gồm thâu lục quốc” (Hàn, Nguỵ, Sở, Triệu, Tề, Yên) một cuộc chiến khủng khiếp kéo dài 9 năm biến giải đất mênh mông từ trung nguyên xuống nam Dương tử thành một lò sát sinh khổng lồ.
Gia đình lãnh chúa bị tận diệt đã đành, dân chúng lớp bị giết hàng khối, lớp chạy tan tác trước sức đồng hoá của chủng Hoa Hạ, của chiến tranh, hạn hán, mất mùa... Miền đất chưa bị vó ngựa chủng Hoa rớ tới, chính là vùng mênh mông phía Nam và Tây nước Sở. Bây giờ là vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu, đồng bằng sông Hồng… Lúc đó chưa miền nào có tên như bây giờ. Muốn đi tới miền này phải vượt qua dãy Đại Ngũ Lĩnh hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, hoàn toàn không hợp với người Hoa Hạ chỉ quen chinh chiến và sống vùng sa mạc. Trong Đường về Trùng Khánh, tác giả Hàn Tố Âm (Han Suyin) tả Quế Châu như một vùng rừng núi hoang vu gần như không có ai tới, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, chỉ có một số người miền núi sinh sống.
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt
Cái quần còn là nghi vấn, mặc dầu ta có tiếng quần.
Tất cả những động tác sinh lý về Đệ-tam-khoái và Đệ-tứ- khoái đều là tiếng ta. Về điểm nầy, có một hiện tượng ngộ nghĩnh lắm. Chúng tôi nói rằng phương ngữ (dialecte) của các vùng ở Trung Hoa đều biến mất hết, chỉ còn phương âm (prononciation provinciale) mà thôi, nhưng những chuyện bí mật sinh lý thì các địa phương còn dùng danh từ "man di" của họ hồi cổ thời. Triết-giang, Phước-kiến, Quảng-đông và Việt Nam, mỗi xứ mỗi giữ đúng tiếng cổ chỉ những việc đó. Người Trung Hoa đời Hán rất liêm khiết và đạo đức. Họ bắt các "man di" học đủ thứ, nhưng không dám đá động tới những cái đó, nên thổ ngữ các vùng mới còn sống sót cho tới ngày nay.
(Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)
Vì sao nhiều người mang họ Nguyễn
Vào thời Nam Bắc triều (420 – 589) Trung Hoa thiên hạ đại loạn. Vì để lánh nạn mưu sinh, một bộ phận gia tộc họ Nguyễn sống tại An Huy, Chiết Giang, Hồ Bắc… di cư sang Việt Nam. Bộ phận người này sinh sống ở Việt Nam, qua thời gian đã đồng hoá cùng dân bản địa để tạo nên thêm một số đáng kể người Việt có họ Nguyễn. Sau đó vào thời Ngũ Đại, dần dần lại có nhiều người họ Nguyễn di dân về phía Nam, để có thêm một số người họ Nguyễn bản địa ở Việt Nam.
Sự phát triển của dòng họ lớn nhất Việt Nam cũng gắn liền quan hệ với triều đại Lý, Trần. Năm 1232, nhà Lý suy vong, Trần Thủ Độ đã bắt con cháu của dòng họ Lý chuyển sang họ Nguyễn.
Trần Thủ Ðộ lấy lý do tổ nhà Trần tên Lý, đã bắt tất cả những người họ Lý là họ dòng vua vừa bị hoán vị còn trốn lẩn trong dân gian phải đổi thành họ Nguyễn. Tuy nhiên ý đồ thật sự của Trần Thủ Độ là khai tử dòng vua Lý để không còn ai nhớ đến họ Lý nữa. Còn lý do vì sao khi đó ông lại lựa chọn họ Nguyễn để thay họ Lý, cho tới nay vẫn chưa được lý giải rõ, cũng có thể đó là lựa chọn một cách ngẫu nhiên.
(Kiên Định /ĐKN)
Tiếng Tàu chữ Việt
Kê dậu: hai chữ Hán Việt này là chữ đồng âm và đồng nghĩa, đều chỉ con trống. Theo giáp cốt văn và kim văn, “kê” là chữ thuộc loại tượng hình tự. Tự hình của chữ này rất giống hình một con gà trống, trên có mào. Chữ… đọc là dậu: người ta thường nói: "Tôi tuổi Dậu", để nói rằng năm sinh của người đó thuộc năm gà, vì thế, đôi khi đưa đến sự lầm lẫn cho rằng dậu… có nghĩa là gà.
Thật ra, chữ dậu là chữ thuộc loại độc thể tự. Tự hình, là hình vẽ một cái bình đựng đầy rượu, nên nghĩa gốc của dậu. Ngày xưa là rượu, nên chữ tửu 酒 mới đầu viết là dậu. Về sau, theo cách giả tá, dậu mới biểu thị danh xưng của chi thứ mười trong mười hai địa chi: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất hợi.
(Phạm Xuân Hy)
Tản mạn về tiếng Việt
Về chữ ốm này chúng tôi xin mở một dấu ngoặc đơn để dài dòng một chút. Ốm theo tiếng miền Bắc có nghĩa là bị bệnh. Như ốm nghén (đàn bà có thai), ốm tương tư.
Tương tư là nhớ nhau vì yêu mà không được gần nhau, như Ngâu lang Chức nữ hai bên bờ sông Ngân Hà, mùa mưa ngâu là dịp họ nhớ nhau, và khóc như mưa....
Hay như chàng với thiếp một người ở đầu sông Tương và một người ở cuối sông Tương, cả hai cùng uống nước sông Tương. Cho nên nhớ nhau, nghĩ tới nhau mà buồn mà mong, mà chờ hết hơi. Nhớ da diết đến phát ốm, phát bệnh. Bệnh nặng đến nỗi có bài đồng dao (Ba Cô Đội Gạo Lên Chùa....) hát rằng “ốm lăn ốm lóc”.... làm cho tóc rụng hết.
Nhưng theo tiếng miền Nam thì chữ ốm lại có nghĩa là gầy, gầy ốm. Còn miền Bắc không nói gầy ốm mà nói gầy còm. Từ đó có chữ còm cõi, tương đương với ốm nhom trong Nam.
(Minh Võ)
Khoa trương trong ca dao của người Việt
Dùng con số khoa trương có nhiều trường hợp phi lo-gic, “hẹn chín lần mà quên mười lần” thì quả là quá vô lí, nhưng vẫn được người Việt chấp nhận, chẳng hạn:
Người sao một hẹn thì nên
Người sao chín hẹn thì quên cả mười
Nói chung, những số lớn thường biểu đạt khoa trương phóng to, số nhỏ biểu đạt khoa trương thu nhỏ. Ví dụ :
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
Xe ngựa
Năm 1862, Pháp bắt đầu chương trình mở mang, xây dựng thành phố Sài Gòn. Con đường được trải đá cho xe ngựa chạy là đường Catinat.
Năm 1876, Trương Vĩnh Ký từ miền Nam ra thăm miền Bắc. Ông kể lại Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi:
- Qua ngày 18 tháng chạp đề huề xuống tàu. Sớm mai giờ thứ 9 rưỡi nhổ neo. Vợ con đi đưa, ngồi xe ngựa đi rảo trên bờ cho đến tàu quày trở rồi riu ríu chạy xuống đồn Cá Trê, mới về. Xế giờ thứ hai ra cửa Cần Giờ, chỉ mũi chạy ra Mũi Né.
Người Pháp đã đưa các kiểu xe ngựa của Âu châu vào miền Nam. Dân ta bắt chước làm ra xe thổ mộ, xe kiếng chở người.
Năm 1885 Hà Nội có xe khách công cộng do ngựa kéo.
Cho tới năm 1886, Hà Nội chỉ có hai chiếc xe ngựa bốn bánh của tư nhân: một chiếc kiểu Malabar de Colombo của hội Truyền Giáo dành cho giám mục Puginier; chiếc thứ hai kiểu Victoria của Henri Rivière. Rivière đã đi xe này ra trận Cầu Giấy và bị quân Cờ Đen chém chết ngày 19 tháng 3 năm 1883.
Nhân dịp quốc khánh Pháp,14 tháng 7 năm 1890, chính quyền thực dân làm lễ dựng tượng Paul Bert. Ngày hôm ấy, đường phố Hà Nội nhộn nhịp xe ngựa, xe kéo.
(Nguyễn Dư)
Thành ngữ xuất xứ từ thơ cổ và điển cố
Cưỡi ngựa xem hoa
Thành ngữ (走 马 观 花) [tẩu mã quan hoa] (Cưỡi ngựa xem hoa). Đây là một thành ngữ tiếng Tàu. Chuyện rằng:
Có một cô nàng nọ đã đến tuổi cặp kê mà vẫn chưa có ai. Lý do là môi của cô có khuyết điểm, bị… hở hàm ếch. Và ở vùng khác, cũng có một anh chàng kia, tuổi đã lớn mà chưa có người nâng khăn sửa túi vì anh bị… tật ở chân.
Cả hai đều nhờ đến mai mối, mong tìm được người thương. Bà mai mà hai người này nhờ lại là một người, bởi vậy câu chuyện mới tiếp tục và làm cho hai người xa lạ kia tiến gần lại với nhau. Bà xếp đặt cho hai người một cuộc hẹn. Đó là vào hội chợ hoa.
Chợ hoa lần ấy, người ta thấy một chàng thư sinh cưỡi chú tuấn mã thong dong vào vườn hoa. Laị còn thấy một cô gái thật đẹp nép nửa mặt vào trong cánh quạt, đang e lệ khẽ nâng từng cánh tầm xuân. Sau đó hai người hình như là quen nhau, dù hơi xấu hổ khi biết được khuyết điểm của nhau.
Câu "cưỡi ngựa xem hoa" ra đời từ đó.
Người Việt mượn câu này và dịch ra tiếng Việt với ý nghĩa là:
Nói đến cách làm việc của ai đó chỉ lướt qua đại khái hay cho có chứ không muốn tìm hiểu sâu và chi tiết vào nó
(Nguyễn Ngọc Kiên)
Góp nhặt cát đá
Mộng
Gá thân mộng
Dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi
Cười vỡ mộng
Ghi lời mộng
Nhắn khách mộng
Biết được mộng
Tình cơn mộng.
Cua cáy phiếm lược - con chù ụ
Món lạ Trà Vinh
Chắc như… cua gạch khi tới miền đồng bằng sông Cửu Long, hẳn bạn sẽ biết đến những món ăn ngon từ con ba khía. Thổ địa Trà Vinh sẽ giới thiệu tới bạn với cái nhìn của “thổ dân” Sài Gòn “lỳ một lam”… làm một ly thì có vẻ giống ba khía nhưng cái tên độc đáo và vị ngon khác hẳn. Đó là con chù ụ, chỉ có ở Trà Vinh.
Chù ụ, đặc biệt ở Trà Vinh Chù ụ có càng màu đỏ
Chù ụ thuộc họ nhà cua, thân hình cục mịch và chậm chạp hơn con ba khía. Nếu không rành, bạn có thể nhầm lẫn giữa con ba khía và con chù ụ. Chù ụ thường sinh sống ở các bãi bồi nước lợ, rừng ven biển và có nhiều nhất là các huyện duyên hải tỉnh Trà Vinh. Trên mai chù ụ có những vết hằn sần sùi như hoa văn, hình dáng mập mạp của chù ụ khiến người ta liên tưởng đến gương mặt đang giận dỗi,…chù ụ đáng yêu của các cô gái chân quê.
Có lẽ vì vậy mà người ta đã đặt tên là chù ụ.
(nguồn: người Trà Vinh)
Đọc truyện & Xem phim “Bác sĩ Zhivago”
Năm 1957 bản thảo truyện được tuồn ra ngoài Liên Xô và Nhà xuất ba/n Feltrinelli in ra sách bằng tiếng Nga tại Ý. Một năm sau đó có ấn bản tiếng Ý và tiếng Anh. Cuối cùng, mãi đến 1988, “Bác sĩ Zhivago” mới được cho in và xuất bản tại Liên bang Xô Viết.
Cũng đã có rất nhiều bản dịch tiếng Việt, trong số đó phải kể đến những cuốn:
- “Bác sĩ Zhivago”, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Nhà xuất bản Hoàng Hạc (Sài Gòn, 1959);
- “Bác sĩ Zivago”, Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa xuất bản (Sài Gòn, 1969);
- “Vĩnh biệt tình em”, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Tổ hợp Gió (Sài Gòn, 1974);
- “Bác sĩ Zivago”, Văn Tự và Mậu Hải dịch, xuất bản ở hải ngoại.
“Bác sĩ Zhivago”, bản tiếng Ý, năm 1958
Phần đầu truyện giới thiệu nhân vật chính, cậu bé 10 tuổi Yuri Zhivago, đi đám tang của mẹ năm 1903. Zhivago thuộc dòng dõi một nhà tư bản giàu sụ nhưng ông bố “lang bạt kỳ hồ” lại thuộc loại nghiện rượu (cá tính của người Nga) nên dần dần bước đến bờ vực phá sản. Yuri sống trong sự bảo bọc của người chú, một linh mục đã tự xin hoàn thục, tên Nikolai. Yuri có tư chất thông minh, học y khoa để ra bác sĩ. Ông cũng là con người có máu văn nghệ, thường làm thơ, viết văn và cuối cùng lấy Tonya làm vợ, họ có một đứa con.
(Nguyễn Ngọc Chính)
Xe điện Hà Nội
Thằng Tây nghĩ nó cũng tài
Chế ra đèn điện thắp hoài năm canh.
Thằng Tây nghĩ nó cũng sành
Chế ra tàu điện chạy quanh phố phường.
(ca dao vùng Bưởi – Tô Hòai)
Thập niên 30, Sài Gòn lai rai
(quảng cáo bia trên báo xưa)
Thú uống rượu trong Chợ Lớn, giữa người Hoa với nhau hay giữa người Hoa với người Việt, hoặc khách từ xa tới, được thực hiện trong bữa ăn ở mức độ khai vị. Nhà báo Pháp Jean-michel de Kermadec trong cuốn sách “Aspect Chinois de Cholon et Saigon” (Góc cạnh Trung Hoa của Chợ Lớn và Sài Gòn) viết về thú thưởng thức này trong Chợ Lớn với cái nhìn tinh tế: “Từ rất lâu, người Hoa hiểu rõ nguyên tắc của y khoa hiện đại rằng không tốt khi vừa ăn vừa uống, và rằng nếu đã nhấm nháp suốt ngày một lượng lớn trà thì thức uống quốc hồn quốc túy này sẽ không xuất hiện trong bữa ăn nữa. Thức uống duy nhất xuất hiện trong các bữa yến tiệc là rượu Tàu, được hâm nóng và uống bằng tách nhỏ. Tập tục duy nhất mau chóng trở nên không thể chịu đựng được đối với người Châu Âu là thói quen thách thức và khiêu khích uống, hoặc kan-pei (uống cạn một hơi), đó là chưa kể đến trò chơi đố ngón tay ầm ỹ trong đó các đối thủ cố đoán chữ số kết hợp bởi các ngón tay của hai đối thủ bất thình lình và đồng thời xòe bàn tay ra. Bên thua bị phạt không thương tiếc một ly rượu. Rượu Tàu, theo nguyên tắc, luôn luôn phải được uống nóng, và là thứ rượu được làm bằng ngũ cốc.
(Phạm Công Luận)
Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn
Qua khỏi cầu Bông là vào quận Nhất khu Đakao.
Đa Kao còn gọi là Đất Hộ, thuộc quận nhất Sàigòn, Đakao có rất nhiều trường tư thục nổi tiếng như Huỳnh Khương Ninh (Đường Huỳnh Khương Ninh) giờ vẫn còn. Huỳnh thị Ngà (đường Trần Nhật Duật), Les Lauriers sau đổi tên Tân Thịnh (đường Đinh Công Tráng), Văn Hiến, Việt Nam Học Đường (đường Đặng Tất), trên đường Phạm Đăng Hưng ngày xưa có trường chuyên dạy Anh Ngữ Trần Gia Độ.
Xuống dốc cầu Bông trước khi đến Trần Quang Khải có tiệm thịt quay, heo, gà vịt vẫn còn mở đến ngày nay. Quẹo phải vào đường Trần Quang Khải, phía bên trái có đình thờ với hình ông cọp trên tường và cây da bên trong sân, đối diện xéo một chút là bót TQK và đường hẽm đi vô xóm Vạn Chài, phía ngoài đầu hẻm có trường tư thục Văn Hiến (hiệu trường là Phan Ngô). Kế đó là rạp Văn Hoa và tiệm cà phê Văn Hoa kế bên.
Trần Quang Khải quẹo vào Nguyễn huy Tự là chợ Dakao, gần chợ có con đường nhỏ Trương Hán Siêu nơi đây có đền thờ của cụ Phan Chu Trinh, đi thẳng Phan Chu Trinh băng qua Đinh Tiên Hoàng thì gặp bánh cuốn Tây Hồ, thực sự không có gì đặc biệt nhưng gía bình dân, nơi đây có bán dầu cà cuống.
Nối dài Nguyễn Huy Tự là Phạm Đăng Hưng trên đường này có một chùa cổ, chùa Đakao hay là chùa Ngọc hoàng
Chùa Đakao -Ngọc Hoàng
Nguyễn Huy Tự quẹo trái sẽ vào đường Bùi Hữu Nghĩa qua cầu Sắt về Bà Chiểu. Quẹo phải sẽ gặp đường Nguyển văn Giai băng qua Đinh Tiên Hoàng, gần cuối Nguyển văn Giai là trường Huỳnh Khương Ninh cuối Nguyển Văn Giai là Phan Liêm, chạy dọc theo nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi (bây gìờ là công viên Lê Văn Tám)
Đoạn Đinh Tiên Hoàng giới hạn bởi Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) và Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) có nhà ăn Pháp rất nổi tiếng như Chez Albert, La Cigale và hai quán café nổi tiếng Hân và Duyên Anh
(Y Nguyên - Mai Trần)
Lọt mắt xanh
Mắt xanh là thanh nhãn, trái với mắt xanh là mắt trắng, bạch nhãn. Thanh nhãn là thái độ coi trọng, kính nể. Bạch nhãn là con mắt khinh khi.
Nguyễn Tịch người đời Tấn có cặp mắt hai màu. Khi gặp người mà ông nể trọng thì mắt ông có màu… xanh. Khi gặp người mà ông không trọng, khinh bỉ, mắt ông đổi sang màu… trắng.
Lọt mắt xanh được sự nể trọng, được biệt đãi hơn người khác.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Còn hai con mắt khóc người một con
Thơ cụ Bùi Giáng, nghĩa là còn lại hai con mắt, lấy một con để
khóc người. Không phải… khóc người một con. Người một con trông mòn con mắt thì còn đâu mắt mà ngó với lại khóc.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Ngôi sao Hàn Thuyên
Tóm lại, Nguyễn Đức Quỳnh vui không chịu được. Ông chưa nói, bọn "vô đường lối" chúng tôi đã sửa soạn tán thưởng. Ông nói xong, chúng tôi cười rộ từng hồi. Còn nhớ một ngày, phiên họp kéo dài tới đêm khuya. Trời Thanh Hoá im sững không một ngụm gió. Dưới ánh lửa lập loè làm tăng thêm sức nóng nung nấu của phòng họp đông chật, lưng vai mọi người đã ướt đẫm mồ hôi. Bỗng, nhân vật Hàn Thuyên từ trên bục cao dõng dạc nói xuống, thật lớn: "Cởi hết quần áo ra ngồi họp. Đồng ý cả không nào?" Chúng tôi phá lên cười và đồng ý tức khắc. Mọi cái áo được cởi phăng ra. Dưới ánh lửa chập chờn, cảnh tượng họp tếu nghịch, tức cười, đến cực điểm. Với những bộ xương cứu chúa trình diễn khoái thích khắp trên những hàng ghế.
Những chùm hoa gạo vẫn nở đỏ trên mái đình Quần Tín. Nhưng bên dưới đã vắng lặng. Mấy ngày họp mặt chấm dứt. Từng người trở về dưới từng bóng núi, từng góc rừng mình. Sau đó, tôi không thấy Nguyễn Đức Quỳnh đâu nữa. Ít lâu sau, một đêm ngủ ở chân cầu Hàm Rồng, tôi được một người bạn nói nhỏ cho hay Nguyễn Đức Quỳnh sau nhiều lần vào Hà Nội trở ra, lại vào. Vào hẳn. Bởi những nguyên nhân nào, sự bỏ đi đó? Không bao giờ tôi được biết. Qúy mến ông, tôi cũng không muốn đặt ra những giả thuyết.
Một lần, tò mò, tôi hỏi : "Có một huyền thoại về Nguyễn Đức Quỳnh. Về những chuyến ra vào Hà Nội. Anh làm thế nào đi lại an toàn qua vòng đai trắng nhiều lần vậy được." Ông tủm tỉm cười. Rồi ấn ngón tay xuống một chỗ trên lòng tay kia mở rộng, giọng đùa nghịch: "Mỗi chuyến đi, tôi tới bên này sông Đáy, ngủ lại ở vùng Phủ Lý một đêm. Đêm đó là đêm quyết định. Hễ thấy cái chỗ này của lòng tay dật dật, là điềm tốt, đi được. Thế là tảng sáng tôi qua sông."
Chẳng hiểu đùa hay thật, có hay không.
(Mai Thảo)
10 câu nói của Tào Tháo
Tào Tháo sinh năm 155 và mất năm 220, tự là Mạnh Đức. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt cơ sở vững chắc cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc và trở thành đối trọng lớn nhất với nhà Thục (do Lưu Bị đứng đầu) và nhà Ngô (do Tôn Quyền đứng đầu). Trong lịch sử gần 2000 năm qua, hình tượng về Tào Tháo vẫn là một chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử Trung Quốc, hầu hết đều bị ảnh hưởng tiêu cực do tác phẩm "Tam Quốc diễn nghĩa". Tuy người đời thường lấy tên ông để mô tả cho sự dối trá, vô liêm sỉ, bất nhân, bất nghĩa nhưng không thể phủ nhận tài năng của con người này. Và những câu nói của ông dù đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử vẫn được lưu truyền và để lại rất nhiều bài học cho hậu thế sau này.
(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)
Nói chuyện cùng nhà văn Trần Thị NgH. - 1
Sau thời gian dài im lặng, hơn 10 năm gần đây chị trở lại với văn học, vẫn với phong cách viết rất đặc biệt của mình: sinh động, trào lộng nhưng vẫn chuyên chở những vấn đề xã hội. Minh Thùy có dịp phỏng vấn nhà văn Trần Thị NgH., mời quí vị theo dõi:
***
Minh Thùy: Chào chị Trần Thị NgH., cái tên này có vẻ khá bí hiểm với bạn đọc, vì sao chị có cái bút hiệu không giống ai như vậy, chị có thể cho biết tên thật không?
Trần Thị NgH.: Tên thật là Trần Thị Nguyệt Hồng. Thứ nhất, tôi chọn như vậy vì lấy từ chữ ký, ngắn gọn dễ chịu; thứ hai, cái tên hơi sến nên tôi không thích lắm; thứ ba do… hèn, lúc mới thập thò ở cửa viết lách, không dám xuất đầu lộ diện sợ bị má rầy.
(Minh Thùy phỏng vấn)
Gỏi đu đủ bò khô
Tôi bị gỏi đu đủ bò khô nắm cẳng, cho tới bây giờ. Đĩa đu đủ bò khô đầu tiên tôi ăn là ở cổng trường Dũng Lạc, bên hông Nhà Thờ Lớn Hà Nội, khoảng đầu thập niên 1950.
Ngày đó trước cửa trường có nhiều hàng quà vặt, điểm đặc biệt là hầu hết người bán là đàn ông. Ông nào cũng có tên không phải do cha mẹ các ông ấy đặt. Bánh mì giò chả có ông Lý Toét, ông Đại Quấy bán cái chi chi tôi quên béng mất. Nhưng ông được tôi mến mộ nhất, ngày nào cũng dúi cho ông ấy ít tiền là ông bán món đu đủ bò khô thì lại không có tên. Tay ông cầm cái kéo cắt thịt bò dập tanh tách không ngừng, như một cách rao hàng. Khi có khách, hai tay đó cầm hai chai, một nước tương đen đen, một dấm trắng có pha chút ớt hồng hồng xịt lia lịa xuống chiếc đĩa nhôm đu đủ bò khô có vương chút rau thơm rau răm xanh xanh trên mặt. Chỉ nhìn hai cánh tay khua khua đã thấy nước bọt túa ra đầy miệng.
(Song Thao)
Trần Đức Thảo và chầu hát ả đào giữa cánh đồng
Trần Đức Thảo tiến sĩ triết học, khi còn ở bên Pháp, danh tiếng đã một thời ngang ngửa với J.Paul Sartre. Vậy mà, khi về Việt Nam, đã bị Hồ Chí Minh loại ra bên lề xã hội. Gần 40 năm gian khổ, sống dở chết dở, ông đã phải đi chăn bò để kiếm sống và sau cùng đã phải nhường cả người vợ yêu qúy cho một người bạn vì không có khả năng nuôi dưỡng (bs Nguyễn Khắc Viện). Ông không bị chết đói nhưng đã trở thành nửa điên nửa khùng như chúng ta đều biết.
Tuy nhiên trong những năm dài khốn khổ dù sao ông cũng giữ lại được một kỷ niệm khó quên về một thú vui lén lút mà ông kể lại như sau. Xin qúy độc giả đọc tiếp.
(NK)
Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917. Năm 1943 tốt nghiệp Thạc sĩ Triết học. Năm 1951 ông về nước. Những năm 1958-65 khi ông bị cấm giảng dạy, bị ‘’đi chăn bò ở Tuyên Quang’’ vì vướng vào vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Ông mất ngày 24.4.1993 tại Paris.
***
Phụ đính
40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều nguồn)
Minh Đức Hoài Trinh
(1930-2017)
Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, sinh ngày 15 Tháng Mười, 1930 tại Huế.
Năm 1964 bà đi du học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris.
Năm 1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF.
Năm 1972 bà được cử tường thuật cuộc hòa đàm Paris.
1973 Bà sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái.
Tháng 4 1975, bà trở lại Paris, bà là người cùng với các văn nghệ sĩ đang sống ở Pháp như ký giả Trần Tam Tiệp, nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan, nhà văn Trần Thanh Hiệp thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhận là hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979.
Bà từ trần ngày 9-6-2017 tại Nam California, hưởng thọ, 87 tuổi.
Tác phẩm đã xuất bản :
Lang Thang (1960), Thư Sinh (1962), Bơ Vơ (1964), Hắn (1964), Mơ (1964), Thiên Nga (1965), Hai Gốc Cây (1966), Sám Hối (1967), Tử Địa (1973), Trà Thất (1974), Bài Thơ Cho Ai (1974), Dòng Mưa Trích Lịch (Thanh Long Bruxelles, 1976), Bài Thơ Cho Quê Hương (Nguyễn Quang Paris 1976), This Side The Other Side (Occidental Press USA 1980), Bên Ni Bên Tê (truyện dài, Nguyễn Quang USA, 1985), Niệm Thư 1 (tái bản 1987)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét