Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025

Đời Thủy Thủ III (Vũ Thất)– Chương 6 CUỘC CHẠM SÚNG ĐẦU TIÊN



Đời Thủy Thủ III – Chương 6

CUỘC CHẠM SÚNG ĐẦU TIÊN

Võ Bằng tự pha ly cà phê rồi cầm lên đài chỉ huy. Trời đen đặc. Các nhân viên đương phiên chỉ là những bóng mờ trong ánh đèn đỏ lờ mờ từ vách. Không ai nhận ra Hạm Trưởng hiện diện cho đến khi anh lên tiếng:
– Tới đâu rồi?
Trung úy Tài quay lui:
– Thưa, còn 5 hải lý nữa mới tới Gành Dầu.
Võ Bằng tiến tới bàn hải đồ, bật đèn ánh sáng hạn chế. Anh rà ngón tay trên bản đồ. Vị trí vừa ngang qua Rạch Vẹm, địa hình khá lý tưởng để đổ hàng. Nếu chiếc tàu nghi ngờ theo đường này, nó sẽ ủi bãi lúc nửa đêm, đủ thời gian tiếp tế và rút ra trước rạng sáng.
“Phải ra tay khi nó ủi bãi”, anh thầm nghĩ. “Lúc ấy, nó khó xoay trở”. Nhưng đấy chỉ là phỏng đoán. HQ 266 không thể chần chừ, thả trôi ở đây. Chỉ thị đưa ra là đến tọa độ đã cho. Không đến, để tàu nghi ngờ chạy thoát, biết ăn nói làm sao! Mà đến, gặp nó, liệu một mình có thể thực hiện việc khám xét? Giá như HQ 729 còn phối hợp.
Như đọc được suy tư của Võ Bằng, Bộ Tư Lệnh Vùng thông báo: Duyên tốc đỉnh HQ 3837 đang trực chỉ Gành Dầu, đặt dưới quyền điều động của HQ 266. Dự trù tới tọa độ khoảng 1 tiếng.
Gió đổi chiều, mát mà ẩm ướt. Sóng cũng bắt đầu ập vào mũi tàu. Tầm nhìn thu hẹp. Radar báo cáo bị nhiễu xạ. Rồi mưa như trút nước. Võ Bằng than thầm: “Không lẽ Trời che chở cho kẻ xấu?”
Anh nhớ lời của Tư Lệnh Hải Quân: “Chiến hạm là thế giới cô lập giữa đại dương. Hạm Trưởng là người chịu toàn bộ trách nhiệm: sinh mạng thủy thủ và tài sản quốc gia. Thành công thì thăng tiến, thất bại thì có khi biển cả là mồ chôn tất cả.” Không! Không thể thất bại.
Một tia sét xé rách bầu trời. Tiếng sấm rền vang từ xa xăm. Võ Bằng châm điếu thuốc, rít sâu. Mùi khói thuốc, mùi khói tàu, mùi muối biển hòa trộn hăng hắc và khô gắt. Anh dụi thuốc vào gạt tàn gắn bên ghế.
Tiếng quan sát viên vang lên:
– Báo cáo. Có ánh sáng nhấp nháy tả hạm.
Võ Bằng đứng phắt dậy, chụp ống dòm, bước qua cánh trái. Anh đưa ống dòm lên mắt. Quả là có ánh sáng lập lòe như tín hiệu morse. Anh ra lệnh:
– Tay lái hết bên trái.
Anh cảm nhận được chiến hạm đang đổi hướng. Số độ trên la bàn giảm dần.
– Tay lái số không. Lái thẳng.
Thủy thủ Bảo đang giữ tay lái nói to:
– Lái thẳng. Hướng 190.
Mũi tàu hướng thẳng vào ánh đèn khả nghi.
Tiếng Võ Bằng:
– Radar báo cáo khoảng cách.
– Cách 1500 yard.* (gần 1400 mét)
– Chiều sâu?
– Chiều sâu 10 fathom.* (hơn 18 mét)
Gió rít và mưa tạt vào đài chỉ huy. Võ Bằng vừa mặc áo mưa vừa ra lệnh giảm dần tốc độ. Càng gần, hiện ra một chiếc ghe câu nhỏ. Anh ban các lệnh cần thiết để chiến hạm tiến sát ghe câu. Chiếc đèn măng-xông chao đảo theo sóng. Trên ghe, hai người đang thả lưới. Anh hỏi người giăng lưới:
– Bắt được nhiều cá không, các anh?
– Cũng khá rồi. Sáng mai về.
Không thấy gì khả nghi, Võ Bằng cho tiếp tục tiến về mục tiêu. Tiếng từ loa máy truyền tin PRC–46:
– Bắc Bình, đây Hồng Hải.
Sĩ quan đương phiên nhấc máy:
– Hồng Hải. Bắc Bình nghe.
– Tôi đang ngang qua Diên Hồng – Đồng Dao.* (Dương Đông)
– Đáp nhận. Hẹn gặp.
Võ Bằng cởi áo mưa, vào phòng radar. Màn hình rõ nét mũi Gành Dầu, đảo Koh Seh. Không thấy gì khả nghi. Lẽ ra ở vị trí này, radar đã ghi nhận tàu nghi ngờ. Hay nó đã bỏ đi? Không thể. Nó không thể đi qua HQ 266 mà không thấy. Nó đã đổi hướng? Hay đang ủi bãi. Đâu lẽ?
Khi Hạm Phó xuất hiện, Võ Bằng dặn dò rồi trở lên đài chỉ huy. HQ 3736 báo cáo còn một tiếng nữa mới tới. Anh ngồi vào ghế, nhắm mắt, định thần mong quên đi các mối lo. Nhưng trong đầu lại hiện ra nụ cười tinh quái của Hoàng Như Oanh. Anh cố xua đi mà hình ảnh như sóng chập chờn.
Anh nhớ đến cựu Hạm Trưởng Quang, đổi về làm Tham Mưu Phó Hành Quân Vùng 4 Sông Ngòi. Ông vẫn hay thổ lộ: “Làm Hạm Trưởng luôn là một vinh dự lớn.” Câu hỏi của Huỳnh Như Oanh hiện lên: “Nên chia vui hay chia buồn?”
Hạm Phó báo cáo:
– Đài chỉ huy. Radar ghi nhận đối vật hướng 11 giờ, cách 8 hải lý.
Võ Bằng ngồi bật dậy:
– Cho biết hướng di chuyển.
– Hướng về Rạch Gầm.
– Máy tiến 3. Tắt hết đèn hải hành.
Mưa vừa tạnh. Mây che ánh trăng. Gió lành lạnh. Bóng tối phủ kín. Không gian lặng lẽ rợn người. Võ Bằng lại nhớ Thiếu Tá Quang. Phải chi ông đang là Hạm Trưởng của tàu thì anh đâu phải lo lắng thế này. Chỉ mới ngày đầu trở lại biển mà anh đã thấy uể oải. Cái phiền là uể oải không nhằm lúc nhằm chỗ. Bắc đảo chẳng khác gì vùng tự do, tàu đánh cá cả ba nước Miên, Thái, Mã Lai xuất hiện đều đều. Đuổi mệt… không nghỉ!
– Đài chỉ huy. Tàu nghi ngờ cách 6 hải lý. Tốc độ 18 gút.* (hải lý /giờ)
Võ Bằng hạ giọng:
– Cho máy tiến 3. Lái hướng 300.
Anh đứng nghiêng người, tựa vào thành đài chỉ huy, ống dòm ghì sát mắt. Linh tính báo tàu nghi ngờ chở vũ khí, đạn dược, lương khô. Sáng nay, Phòng Nhì cho biết Phú Quốc có chừng một tiểu đoàn Việt Cộng. Bằng bất cứ giá nào chúng cũng phải xâm nhập tiếp tế.
– Đài chỉ huy. Cách 4 hải lý. Hướng 11 giờ. Tốc độ 16 gút.
Võ Bằng dán mắt vào ống dòm, chửi thầm: “Tổ cha nó! Cũng darken ship!”* (không đèn)
– Cách 3 hải lý. Hướng 10 giờ. Tốc độ 14 gút. Sâu 6 fathom.* (11 m)
– Cách 2 hải lý. Hướng 10 giờ. Tốc độ 14 gút.
Võ Bằng gằn giọng:
– Cho nhiệm sở tác chiến!
Tiếng còi rú vang dội. Tiếng chân dập dồn. Các ổ súng lao xao. Tiếng lạch cạch của đạn lên nòng. Vẫn giọng rắn rỏi của Hạm Trưởng:
– Các trưởng khẩu kiểm soát nhân viên đầy đủ áo giáp nón sắt.
Mọi người trên đài chỉ huy tự động răm rắp tuân hành. Võ Bằng bước đến bàn hải đồ, mở đèn, xem xét thủy đạo địa thế.
Cố vấn bước vào, hỏi khẽ:
– Hi Cap. Xin cho hỏi…
Võ Bằng cho Cố Vấn biết chiến hạm đang chận đầu một tàu nghi ngờ. Có thể có chạm súng, HQ 3736 sẽ đến trợ lực. Cố Vấn vội về phòng mặc áo giáp…
– Cách 900 feet. Hướng 9 giờ. Tốc độ 14 gút. Đối vật đổi hướng vào bờ.
– Lái hướng 180.
Mũi chiến hạm hướng về tàu nghi ngờ. Võ Bằng cố đoán ý định của địch. Với bờ biển nhiều san hô thế này, hoặc là nó đang liều đổ bộ hoặc đang quay đầu, bỏ chạy.
Anh ra lệnh:
– Giám lộ. Đánh đèn hỏi nó là ai? Đi đâu?
Ánh đèn chớp tắt phóng đi. Ba lần liên tiếp. Không một đáp trả. Rồi bất ngờ vô số tia chớp lóe lên từ tàu nghi ngờ. Một tràng đốm lửa vụt xé màn đêm, lao thẳng về hướng chiến hạm. Những tiếng lốp bốp từ thành đài chỉ huy. Có tiếng la ở khẩu đại liên 50 tả hạm. “Ối, tôi bị rồi!”. Võ Bằng la to:
– Trừ 76 ly, tất cả phản pháo. Toán cứu cấp. Có người bị thương mạn tả.
Khẩu 40 ly mũi, các khẩu đại và tiểu liên tuôn ra những làn đạn lửa đáp trả. Tàu nghi ngờ tiếp tục bắn. Hai làn đạn giao nhau như hoa đăng.
Tiếng của Hạm Phó:
– Nó quay ngược ra khơi. Cách 1200 feet. Hướng 11 giờ.
Hạm Trưởng cao giọng:
– Ngưng bắn. Tay lái hết bên phải. Lái hướng 340. Hỏi HQ 3736 đến đâu rồi?
– Hồng Hải, đây Bắc Bình. Đến đâu rồi?
– Ba hải lý nữa mới tới điểm hẹn.
– Tàu địch đang chạy ngược về Gành Dầu. Cẩn thận! Hỏa lực địch khá mạnh.
– Đáp nhận.
– Radar báo cáo. Cách 0,8 hải lý. Hướng 11 giờ. Vận tốc 16.
– Độ sâu?
– Sáu fathom!
Võ Bằng ra lệnh:
– Máy tiến full.
Tiếng Hạm Phó từ phòng radar:
– Đài chỉ huy. Đối vật cách 1 hải lý. Vận tốc 16.
Võ Bằng vươn người ra ngoài nhìn xuống mạn tả:
– Nhân viên bị thương ra sao?
– Trình Hạm Trưởng, đạn trúng đùi. Y tá đang băng bó.
Anh nhìn vào hải đồ:
– Lái hướng 310.
Tiếng hối hả từ phòng radar:
– Đài chỉ huy. Đối vật cách 2 hải lý. Tăng tốc 20 gút. Hướng 10 giờ!
Võ Bằng rít qua kẽ răng:
– Máy tiến Flank!* (Tốc độ tối đa)
Chiến hạm run lên bần bật. Hai chân Võ Bằng bám chặt sàn sắt, mắt ghì vào ống dòm. Trên làn sóng nhá nhem, vệt nước trắng xóa mờ dần. Anh tiếc cơ hội lỡ mất. Nếu tàu anh có tốc độ cao, dễ gì nó chạy thoát. Anh bấm bộ liên hợp:
– Hồng Hải, đây Bắc Bình! Đó là tàu Bắc Cộng. Nó khai hỏa và bỏ chạy. Cố gắng truy cản. Tác xạ tự do.
– Đã thấy nó trên radar. Cách 2 hải lý. Đang tăng tốc đón đầu.
– Trung úy Tài. Ra lệnh khẩu 76 ly sẵn sàng.
Võ Bằng nói vào loa dẫn đến phòng radar:
– Radar. Cho khoảng cách và hướng độ tàu địch.
Có lời đáp từ loa. Giọng Võ Bằng khô khan:
– 76 ly 2. Tác xạ 1 đạn soi sáng, tầm xa 3.000 mét, hướng 010.
Tiếng nổ chát chúa vang lên. Chiến hạm rùng mình. Mùi khói tạt vào đài chỉ huy khét nghẹt. Võ Bằng dán mắt vào ống dòm. Một đốm lửa bùng lên lộ dạng tàu địch.
– HQ 3736 báo cáo. Thấy tàu địch. Điều chỉnh qua phải.
Võ Bằng nói to:
– Radar. Cho khoảng cách, hướng độ đối vật.
Hạm Phó đáp ứng yêu cầu. Giọng Hạm Trưởng rắn rỏi:
– 76 ly 2. Tác xạ hai đạn nổ. Tầm xa 3500 mét. Hướng 015.
Hai tiếng nổ vọng về, mơ hồ.
– Bắc Bình. Đây Hồng Hải. Xin ngưng bắn. Tôi đang tiến chận đầu nó.
– Đáp nhận.
Tất cả yên lặng. Võ Bằng hy vọng HQ 3736 chận được và tàu anh sẽ tiến tới, phối hợp tóm gọn địch.
– Đài chỉ huy. Đối vật cách 4 hải lý. Vận tốc 28 gút.
Mười phút sau, duyên tốc đỉnh báo cáo:
– Bắc Bình. Đây Hồng Hải. Tàu địch đổi hướng về Sihanoukville. Không đuổi kịp. Xin cho chỉ thị.
Võ Bằng siết chặt tay ghế, mắt đăm đăm về hướng 1 giờ. Chúng chạy thoát thì thật đáng buồn. Nỗi thất vọng đưa Võ Bằng vào chút hy vọng. Tàu địch cách 4 hải lý vẫn còn trong tầm đạn. Anh hỏi phòng radar vị trí mới nhất rồi gằn giọng:
– 76 ly 2. Bắn 4 quả đạn nổ. Tầm xa 7 ngàn mét. Hướng 015.
Bốn tiếng nổ vang rền không xóa tan được nỗi thất vọng. Nhưng bất ngờ một tiếng nổ lớn vọng lại. Và một cụm lửa bùng cao theo nhiều tiếng nổ phụ. Không lẽ tàu địch trúng đạn?
Cố Vấn Mỹ đặt ống dòm rồi bắt tay Võ Bằng:
– Congratulations! You got it!
– Hồng Hải gọi Bắc Bình. Dường như tàu địch trúng đạn, bốc cháy. Xin cho đến kiểm soát.
Võ Bằng mỉm cười, bóp ống liên hợp:
– Hồng Hải. Đây Bắc Bình. Nó đã vào lãnh hải Miên. Tránh rắc rối. Tôi rất cần bạn. Đến tôi ngay, giúp đưa một nhân viên bị thương về An Thới.
– Đáp nhận hành.
Võ Bằng cho lệnh giảm máy tiến 3 rồi giao đài chỉ huy cho sĩ quan đương phiên. Anh hối hả xuống boong hỏi han nhân viên bị thương. Cố vấn đứng cạnh. Viên đạn xuyên qua đùi, đã được băng bó. Anh nắm tay Hạ Sĩ trọng pháo Lưu văn Nghĩa, giọng thân mật:
– Em yên tâm, vết thương không trầm trọng. Ít phút nữa duyên tốc đỉnh sẽ đưa em về bệnh xá. Em xứng đáng được Chiến Thương Bội Tinh.
Nói xong, Võ Bằng và Cố Vấn xuống phòng sĩ quan thảo công điện báo cáo diễn tiến tình hình cuộc chạm súng…

Vũ Thất

* Những đơn vị đo lường hoặc cụm từ được dùng trong ngành Hàng hải.

(Còn tiếp)






Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2025

Thành Ngữ Điển Tích : ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT (Đỗ Chiêu Đức)

 Thành Ngữ Điển Tích : 

                      ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT

                          
                            
      ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT : ÔNG TƠ là ÔNG già se TƠ ở dưới ánh trăng, chữ Nho gọi là NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月 下 老 人, gọi cho gọn lại là NGUYỆT LÃO 月 老, và "Bà xã" của Nguyệt Lão là BÀ NGUYỆT. Điển tích "ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT" có xuất xứ từ "Tục Huyền Quái Lục của Văn học gia Lý Phục Ngôn đời nhà Đường 唐 朝 文 學 家 李 復 言 所 著 的《續 玄 怪錄, nhưng đến đời nhà Tống vì kỵ húy của Tống Thánh Tông là Triệu HUYỀN Lãng 趙 玄 朗, nên "Tục Huyền Quái Lục" được đổi thành "TỤC U QUÁI LỤC 續 幽 怪 錄" với tích Định Hôn Điếm 定 婚 店 (Cái quán định đoạt hôn nhân), Xích Thằng Hệ Túc 赤 繩 繫 足 (dây đỏ buộc chân) hay NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN (Ông lão dưới trăng) như sau đây: 


 
      Vào năm Đường Nguyên Hòa thứ hai (807), đất Đỗ Lăng có thư sinh Vi Cố 韋 固, con nhà thế gia vọng tộc. Cha mẹ mất sơm, nên Cố đi du học bốn phương, vừa để học tập cầu tiến vừa để tìm kiếm hôn nhân. Khi đến Tống Thành, có người mai mối cho Vi Cố cưới con gái của quan tiền nhiệm huyện Thanh Hà là Tư Mã Phan làm vợ. Hẹn rằng sáng sớm hôm rằm sẽ gặp người mai mối ở trước cửa chùa Long Hưng Tự ở Nam Điếm để nói chuyện.
      Đến hẹn, Vi Cố vì nóng lòng với chuyện hôn nhân nên đêm đó không ngủ được. Trời chưa sáng mà đã lần mò đến trước cửa chùa. Bỗng chàng trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt ngồi trên bậc tam cấp trước cửa chùa đang giở xem một quyển sách. Hiếu kỳ chàng bèn đi tới ghé mắt nhìn vào, thì ngạc nhiên làm sao, trên sách là loại chữ rất đặc biệt không sao đọc được. Chàng bèn khẩn khoản hỏi thăm ông lão, thì được ông lão cho biết đó không phải là chữ của nhân gian, và bản thân ông cũng không phải là người của nhân gian nữa. Hiếu kỳ và thích thú, Vi Cố hỏi trong sách ghi chép những gì, thì ông lão cho biết đó là sách ghi chép tất cả những cuộc hôn nhân của trai gái trên đời nầy. Đoạn ông lấy ra một cuộn chỉ đỏ và giải thích rằng, khi ông đã buộc chỉ đỏ nầy vào chân của cặp trai gái nào rồi, thì dù cho có quan san cách trở hay thù oán lẫn nhau gì gì đi nữa, thì rốt cuộc cũng sẽ thành vợ thành chồng với nhau mà thôi. 




     Trong lúc đang tìm kiếm hôn nhân, Vi Cố bèn hỏi ông lão xem có biết mình chừng nào kết hôn và vị hôn thê của mình là ai không? Ông lão bèn lật sách ra xem rồi nói rằng: Vợ của Vi Cố năm nay mới có ba tuổi và phải mười bốn năm sau thì hai người mới kết hôn được. Đang lúc nóng lòng muốn cưới vợ, nghe ông lão nói thế, Vi Cố nản qúa bèn hỏi tới rằng: “Vậy chớ bây giờ vợ tôi đang ở đâu?” Ông lão đáp là: “Vợ của cậu đang ở tại đây, ở phía bắc của Nam Điếm nầy, đang do một người đàn bà bán cải trông nom. Cậu đừng nóng ruột, trời sáng thì sẽ gặp mặt thôi!”
  

                   
     Khi trời đã sáng hẵn rồi, mà người mai mối ước hẹn với Vi Cố cũng không thấy tới. Ông lão ngồi dưới trăng cũng cất sách vào bọc. Đoạn đứng dậy bảo Vi Cố đi theo ông ta vào chợ. Khi đến hàng cải, thấy có người đàn bà một mắt tay đang ẵm một đứa bé mũi dãi thò lò, đang mua cải. Ông lão bèn chỉ vào cô bé gái bảo: “Đây là vợ cậu đó!” Vi Cố nghe xong cả giận nói: “Nếu lời nói của ông không sai, thì tôi sẽ giết con bé nầy!” Ông lão cười bảo: “Đây là mạng số đã an bày, e rằng cậu sẽ không giết nổi cô ấy đâu!” Nói đoạn, ông lão quay lưng bỏ đi mất.


      Vi Cố là con nhà thế gia vọng tộc, cho là ông lão cố ý làm nhục mình, nên khi về đến nhà trọ, bèn đưa một con dao nhỏ cho một gia đồng, bảo ra chợ đâm chết con bé gái của người đàn bà một mắt. Trong thời buổi phong kiến, thì việc con nhà quyền thế, cậy quyền cậy thế để giết hại người nghèo cũng là chuyện thường tình, còn các đầy tớ do chủ nuôi thì cứ sai đâu đánh đó, nhắm mắt làm càng. Tuy nhiên, mạng người hệ trọng, giữa chợ giữa búa lại là lúc ban ngày ban mặt mà dám giết người giữa chợ thì cũng không phải là chuyện tầm thường. Nên khi ra đến chợ, tên gia đồng lừa thế đâm đứa bé một nhát rồi bỏ chạy trối chết. Khi về đến nhà trọ Vi C hỏi kết qủa thế nào. Tên gia đồng bảo là vì có người đàn bà che chở, nhưng vẫn đâm trúng một nhát vào đứa bé, còn sống chết ra sao thì chưa biết!
      Sau vụ om sòm ngoài chợ, Vi Cố cũng hối hận cho sự nóng giận bồng bột của mình, nên bỏ đi nơi khác. Những năm sau đó chàng tiếp tục tìm người hôn phối khắp nơi để cầu hôn, nhưng đều thất bại, cộng thêm mấy lần thi rớt, công danh không thành, hôn phối không xong, gia cảnh ngày một khốn khó. Cuối cùng, chàng đành phải dẹp lòng tự ái tự trọng để xin một chức phụ ấm của cha để lại: làm Tham Quân cho xứ Tương Châu. Lúc bấy giờ chàng đã ngoài ba mươi tuổi và vẫn còn độc thân trơ trọi có một mình.
      Thứ sử Tương Châu là Vương Thái thấy chàng tướng mạo đoan trang, lại có văn tài, giao cho chàng kiêm nhiệm luôn về tư pháp ty của địa phương, chàng đều hoàn thành thật xuất sắc. Thấy chàng đã ngoài ba mươi mà chưa thành gia lập thất, nên Vương bèn gả con gái út cho chàng làm vợ. Cầu hôn suốt mười mấy năm trời đều thất bại, bỗng dưng được vợ, lại là con gái cưng của thượng cấp, Vi Cố vui mừng quá đổi. 
              


          
      Đêm động phòng hoa chúc, thấy cô dâu Vương Thị chỉ khoảng mười bảy mười tám tuổi, xinh đẹp vô cùng, lại theo thời trang đính một hoa vàng ở giữa đôi mày trông càng xinh xắn kiểu dáng vô cùng. Vi Cố rất thỏa mãn và hạnh phúc với cô vợ trẻ đẹp này. Nhưng không biết vì sao đóa hoa vàng làm dáng ở giữa mày, cả khi đi ngủ đi tắm nàng cũng không chịu mở ra, khiến Vi Cố vô cùng thắc mắc. 
      Một hôm, khi vợ chồng đang trò chuyện thân mật với nhau, chàng mới thừa cơ hỏi rõ nguyên do. Nàng bèn cười mà đáp rằng: “Đó chẳng qua là tính thích làm đẹp của phái nữ, muốn giữ cho đẹp mà thôi!” Đoạn kể cho chàng nghe về lai lịch của mình. Thì ra, nàng không phải là con ruột của Vương Thứ Sử, chỉ là cháu gọi bằng chú mà thôi. Lúc nhỏ vì trên đường đi làm quan xa, cha nàng bị bệnh mất sớm, chẳng bao lâu mẹ cũng buồn rầu mà mất theo. Lúc đó nàng chỉ mới ba tuổi, phải sống nương nhờ vào bà vú nuôi, trồng cải ở mảnh đất sau nhà, nên mỗi ngày phải ra chợ bán cải cho bạn hàng. Một hôm không biết vì cớ gì có một kẻ côn đồ cầm dao định đâm nàng chết, may mà bà vú nhanh mắt tránh sang một bên, nên chỉ sướt qua giữa chân mày, vì thế mà nàng phải đính một đóa hoa vàng để che đi cái thẹo còn để lại. Sau đó chú nàng là Vương Thái tìm đến đem nàng về nuôi nấng và nhận làm con nuôi.



      Vi Cố nghe xong cả kinh, mồ hôi ra ướt cả mình, hỏi lại rằng: “Có phải bà vú của nàng là người đàn bà chỉ có một mắt hay không?” Vương Thị cũng rất ngạc nhiên mà hỏi lại rằng: “Sao chàng lại biết ?!” Đến nước nầy, Vi Cố bèn kể lại chuyện Nguyệt Lão là Ông gìa dưới trăng đã định sẵn hôn nhân của hai vợ chồng cho nàng nghe. Vương Thị cũng vô cùng cảm khái cho cuộc hôn nhân tiền định nầy, vì thế mà vợ chồng càng yêu thương khắn khít nhau hơn là những cặp vợ chồng thường khác.
      Vi Cố vì hưởng phụ ấm mà được chức quan nhỏ, nhưng nhờ gia đình bên vợ nâng đở, nên đường hoạn lộ cũng hanh thông. Sau nhờ con trai trưởng là Vi Cổn bình loạn có công, được phong làm Thái Thú Nhạn Môn Quan, lại được vua ban hàm Tướng Quân, mẹ là Vương Thị cũng được phong hàm Thái Nguyên Quận Thái Phu Nhân. Vì thế, mà câu chuyện Nguyệt Lão ở Nam Điếm của Tống thành ngày xưa được nhân gian truyền tụng và nhắc nhở. Huyện lệnh Tống Thành bèn đổi Nam Điếm thành Định Hôn Điếm 定 婚 店là nơi Định đoạt Hôn Nhân của người thế gian, đồng thời cũng cho xây miếu để thờ phượng Ông Già Dưới Trăng, gọi là Nguyệt Lão Miếu 月 老 廟.




       Trong văn học cổ Việt Nam, Nguyệt Hạ Lão Nhân được nhắc đến với các tên gọi : Ông Già Dưới Trăng, Ông Tơ, Nguyệt Sứ, Nguyệt Lão... Như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn như Hầu Nguyễn Gia Thiều nàng cung phi đã gọi một cách lẫy hờn và nghi ngờ rằng:
                     Tay NGUYỆT LÃO chẳng xe thì chớ,
                     Xe thế nầy có dở dang không ?

      Còn trong truyện thơ Nôm Khuyết danh "Từ Thức Gặp Tiên" thì gọi là Nguyệt Sứ với câu:
                         Lọ là NGUYỆT SỨ băng môi,
                     Phận này duyên ấy ắt thời trong tay.

      Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nữ Tú Tài" thì gọi là Ông Nguyệt :
                        Toại lòng hương lửa tưng bừng,
                Tạm quyền ÔNG NGUYỆT, Xích Thằng xe dây.
     
      Vì chuyên se tơ cho trai gái lấy nhau, nên ÔNG NGUYỆT còn được gọi là ÔNG TƠ, như khi Kim Trọng đến từ biệt Thúy Kiều để đi Liêu Dương hộ tang chú, thì Thúy Kiều cũng đã oán trách:
                        ÔNG TƠ ghét bỏ chi nhau,
                    Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.

      Hay khi bị Hồ Tôn Hiến ép gã cho Thổ quan, Thúy Kiều lại một lần nữa lên tiếng oán trách:
                        ÔNG TƠ sao khéo đa đoan,
                     Se tơ sao lại vơ quàng vơ xiên ?!
 
      Sợi TƠ mà Ông Tơ dùng để se là một sợi chỉ màu hồng, nên còn được gọi là CHỈ HỒNG. Như khi nghe Kim Trọng tỏ tình, Thúy Kiều đã trả lời một cách rất khéo léo và khôn ngoan rằng:
                        Dù khi lá thắm CHỈ HỒNG,
                   Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

      Chỉ Hồng còn được nói trại đi thành CHỈ THẮM, như trong Tây Sương Ký:
                        Nhân duyên sao khéo hẹn hò,
                    Rắp đem CHỈ THẮM se cho Trịnh Hằng.

      Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Chỉ Hồng không gọi là Chỉ Thắm mà còn được gọi là DÂY THẮM như:
                     Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
                     Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
                     Ai ngờ trời chẳng cho làm
                     Nở đem DÂY THẮM mà giam bông đào.

       Nhưng Dây Thắm, Chỉ Thắm hay Chỉ Hồng gì đều cùng một gốc chữ Nho là XÍCH THẰNG 赤 繩 (là sợi dây màu đỏ) mà ra cả, như lời Thúy Kiều đã nói với Kim Trọng trong lần đầu Kim Kiều hội ngộ:
                      Nàng rằng hồng diệp XÍCH THẰNG,
                      Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
                      Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
                      Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai ?!

    ... hay như lời Mã Giám Sinh đã thề và hứa với Vương Viên Ngoại khi sắp lên đường ở “Bề ngoài mười dặm trường đình “  là:
                          Cạn lời khách mới thưa rằng:
                  Buộc chân thôi cũng XÍCH THẰNG nhiệm trao.
                          Sau dù sinh sự thế nào,
                  Kìa gươm nhật nguyệt nọ dao qủy thần!

    ... hoặc như nàng cung nữ của trong Cung Oán đã than van oán trách:
                      Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế,    
                      Sợi XÍCH THẮNG chi để vướng chân
 
      Nói tóm lại, các Điển tích: Chỉ Hồng, Chỉ Thắm, Dây Thắm, Xích Thằng,  Nguyệt Lão hay Ông Tơ... đều do cùng một điển tích NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月 下 老 人 trong Tục U Quái Lục của Lý Phục Ngôn mà ra cả. Và vì có liên quan đến hôn nhân và nhân duyên của trai gái, nên mãi cho đến...           




    ... Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, hễ nơi nào có người Hoa là nơi đó đều có miếu thờ Nguyệt Lão cả, nếu không, thì cũng có bàn thờ Nguyệt Lão được thờ chung với các vị thần khác ở tất cả các miếu. Riêng ở Trung Hoa thì miếu thờ Nguyệt Lão có ở khắp nơi trong nước, nhưng nổi tiếng nhất là Nguyệt Lão Miếu ở Hàng Châu, không phải vì nó đẹp và linh thiêng hơn các nơi khác mà vì nó có nét cổ kính và nhất là đôi câu đối bất hủ ở hai bên cổng miếu không biết do danh sĩ nào đã làm ra:

             Nguyện thiên hạ hữu tình nhân chung thành liễu quyến thuộc,
              願    天   下  有   情   人   终     成    了   眷     屬,
             Thị tam sinh chú định sự mạc thác qúa lương duyên !
              是    三   生   註   定    事   莫   錯     過   良    緣。
Có nghĩa :
           Mong cho tất cả tình nhân trong thiên hạ, đều được nên gia thất,
           Là chuyện tiền định từ ba kiếp trước, đừng để lở mất duyên lành !

      Rất bình dân, rất nên thơ mà cũng rất thực tế, rất thiệt tình và hợp với tình người!                 
      Còn một chuyện rất mỉa mai đến buồn cười là: Nguyệt Lão ở Trung Hoa là Ông Gíà Dưới Trăng lẻ loi đơn độc có một mình. Mặc dù chuyên xe tơ kết tóc cho người đời nên duyên chồng vợ với nhau, nhưng sang qua Việt Nam, có thể dân ta thấy tội nghiệp cho ông suốt đời chỉ mai mối cho người khác còn mình thì vẫn lẻ loi, và theo quan niệm của người Việt Nam ta, có “Ông” thì phải có “Bà”, nên mới “cưới” cho ông một “Bà Nguyệt“ nữa, thành một cặp “Ông Tơ Bà Nguyệt”, và thành ngữ “ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT” chỉ có trong ngôn ngữ và văn chương Việt Nam ta mà thôi, chớ ở bên Trung Hoa thì “Ông Tơ” là Nguyệt Lão vẫn chỉ trơ trọi có một mình, không biết chuyện trai gái yêu đương là gì cả, nên mới bị nàng Cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều bỡn cợt:
                          Tay NGUYỆT LÃO KHỜ sao có một
                          Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
                          Cái đêm hôm ấy đêm gì?    
                          Bóng gương lồng bóng đồ mi trập trùng !
              

                                      Ông Tơ Bà Nguyệt

      Hẹn bài viết tới !

                                                            杜 紹 德
                                                          Đỗ Chiêu Đức











MƯA - Thơ Phượng Hồng và Thơ Họa

        

       MƯA  

Mưa rỉ rả suốt đêm

Lạnh lẽo vắt qua thềm

Sợi giăng mắc buồn thêm !

Mưa theo sóng lênh đênh

Bềnh bồng dạt xa bến

Khiến phận người nào yên !

Mưa đi khắp mọi miền

Gieo nỗi nhớ triền miên


Vật vờ thuyền với biển !

Mưa giả vờ không hiểu

Rót mãi đến liêu xiêu

Đoá hoa vừa hàm tiếu .

Mưa xoay vòng kỳ diệu

Hết sáng lại trưa chiều

Có khi cũng đáng yêu !

Mưa ơi chớ rơi nhiều

Nhẹ nhàng và nâng niu

Tình rồi sẽ hoà điệu !

PHƯỢNG HỒNG

 

Thơ Họa:

      MƯA

Mưa ngày rồi mưa đêm

Tịnh khẩu tọa bên thềm

Mưa nhốt bóng, sầu thêm

Thuyền trăng hoài lênh đênh

Cõi vô bờ chẳng bến

Lắng lòng để tự yên

Phong lãng giữa muôn miền

Bồng phiêu hồn cô miên


Hiện sinh thuyền có biển

Định tĩnh lòng thấu hiếu

Mưa gió buồm nghiêng xiêu

Bến cập bờ vi tiếu

Diễm tuyệt đời huyền diệu

Cầu vồng phối mây chiều

Bảy sắc vẽ tranh yêu

Sau mưa đẹp hơn nhiều

Mưa thả giọt lãng phiêu

Bổng trầm hồn nhạc điệu...

Lý Đức Quỳnh

    21/8/2025 


THUYỀN VÀ BIỂN

Miệt mài vỗ ngày đêm

Tiếng sóng dội bên thềm

Mỗi lúc tựa gần thêm

Dòng nước trôi nhẹ đênh

Đưa thuyền xa bờ bến

Chẳng phút nào ổn yên

Lang thang mọi chốn, miền

Sóng dập dồn liên miên.


Gắn bó thuyền và biển

Từ bao giờ, ai hiểu

Dưới ánh nắng nghiêng xiêu

Trong màn mưa liếu tiếu

Mơ màng thêm ảo diệu

Mỗi sáng và từng chiều

Tình vẫn mãi dấu yêu

Thuyền, biển đắm say nhiều

Ấp ủ biết bao điều

Nhạc tình luôn trỗi điệu.

   Sông Thu

( 22/08/2025 )

 

   BÃO TUYẾT

Bão tuyết rít sáng đêm

Phủ ngập cả sân thềm

Đông giá trở lạnh thêm

Băng trắng xóa lềnh đênh

Nào thấy đâu bờ bến

Lòng thổn thức không yên

Tin khẩn báo khắp miền

Thời tiết xấu, sầu miên.


Thuyền nhấp nhô giữa biển

Đời nổi trôi mới hiểu

Sóng xô đẩy nghiêng xiêu

Chồng chềnh trôi xa tiếu

Trong sương mù huyền diệu

Từ sáng đến hoàng chiều

Biển ôm ấp vuốt yêu

Nâng đỡ thuyền thật nhiều

Duyên nợ kết cưng niu

Bên nhau hoà đồng điệu.

     LAN.

(22/08/2025) 


    NHƯ THƠ

Bên đèn đêm… từng đêm

Nghe gió nhẹ ngang thềm

Dế khuya áo não thêm

Trăng nghiêng soi bóng đênh

Chập chờn thuyền rời bến…

Tạp niệm quậy tâm yên

Mang thức rong khắp miền

Thiền niệm Phật mật miên


Tâm an lòng như biển

Sóng lặng chợt thông hiểu

Chánh niệm hết liêu xiêu

Sân khấu đời vi tiếu

Buông xả tâm kỳ diệu

Như trời xanh gió chiều

Tìm lại niềm tin yêu

Xoá tan oán hận nhiều

Thảnh thơi bước du phiêu

Như thơ tròn vần điệu

Kiều Mộng Hà

  Aug.22.2025

 

     MƯA BUỒN

Mưa ròng rã ngày đêm,

Mưa lênh láng bậc thềm,

Mưa lạnh mặc áo thêm.

Mưa tủi phận lênh đênh,


Mưa giữ thuyền đợi bến,

Mưa hoài bụng chẳng yên.

Mưa giăng khắp mọi miền,

Mưa dầm dề triền miên,


Mưa không nhìn thấy biển.

Mưa vô tình chẳng hiểu,

Mưa sập mái tranh xiêu.

Mưa rảnh ngồi đàm tiếu,


Mưa tiếng rơi kỳ diệu.

Mưa lòng bộn trăm chiều,

Mưa mong ngóng người yêu.

Mưa hay lệ rơi nhiều?


Mưa thèm được nâng niu,

Mưa đàn gay gắt điệu.

Đỗ Quang Vinh

    22-8-2025 


BIỂN  THUYỀN  ĐÊM

Hiu hắt quạnh trời đêm

Vàng rơi lác đác thềm.

Dế khóc chạnh hồn thêm

Lục bình mãi lênh đênh.


Ai chờ ai dưới bến ?

Lui tới dạ không yên

Trăng thu trải khắp miền

Đường khách nỗi sầu miên!


Chiếc lá thuyền đêm biển

Trùng dương lần đầu hiểu.

Gió giựt cột buồm xiêu

Lạnh lùng trăng cợt tiếu.


Gió lặng đêm huyền diệu !

Nhớ ơi bữa cơm chiều.

Bồi hồi mắt người yêu

Ràn rụa lệ mưa nhiều.


Môi lạnh chờ nâng niu

Nhạc mưa tê tái điệu !

 Mailoc

08-2-25

 

GIỌT MƯA ĐÊM

Mưa rã rít thâu đêm

Khiến nỗi buồn dâng thêm

Lềnh bềnh trên sóng nước

Chẳng chỗ nào được yên

                  S

Trôi qua khắp ngã miền

Nỗi gập ghềnh liên miên

Chẳng nơi nào đỗ bến

Rồi cứ vậy lênh đênh

               S

Sáng ngày ra tới biển

Trời bao la nào hiểu

Giọt mưa vẫn ngã xiêu

Ngỡ như là chuyện tiếu

               S

Giọt mưa nghe mát dịu

Như nắng nhạt ban chiều

Sóng nhẹ vỗ lời yêu

Nghe lãng mạn hơn nhiều

               S

Với bao vần yểu điệu

Đáng để hồn nâng niu

Songquang

 20250824 












Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

Sang Ngang - Vu Sơn

 

                                               

  Sang Ngang

Lệ đẫm vai rồi... ừ thôi em nín đi…
Tình ta dang dở than khóc chẳng ích gì…
Mai em sang ngang làm cô dâu xứ lạ…
Còn đêm nay nữa níu kéo để mà chi!

Thôi về đi em... đêm sắp tàn trên bến…
Mai bước theo chồng tình thuở đó xin quên…
Thư xanh xưa gởi hãy đốt nhòa kỷ niệm…
Hai lối đường đời ngoảnh mặt cũng là nên!

Vu Sơn










BÊN SÔNG LẠNH - Thơ Trịnh Cơ và Thơ Họa

       

  BÊN SÔNG LẠNH

Đông đã tàn mà vẫn lạnh căm

Mưa rơi, tuyết đổ, gió ì ầm

Một vài cơn lốc làm rung chuyển

Mấy đám rừng thông nghe xốn xang

Mưa vẫn mưa hoài mưa chẳng dứt

Gió còn gió mãi gió không tan

Đây miền Tây Bắc trời chưa sáng

Trên bến sông chờ chuyến quá giang.

 TRỊNH CƠ

(Seattle, WA.)


Thơ Họa:

     XUÂN XA XỨ

Trời thì dan díu gió buồn căm

Cứ mỗi vần thơ một tiếng ầm

Tây Bắc tuyết vàng xua lửa cạn

Đông nam sương trắng kéo mù xan

Xuân chưa thật đến giàn hoa tủi

Tết vẫn còn vương xác pháo tan

Sông núi lưu vong thường ấm lạnh

Làm sao đại hải gọi trường giang ...

Hawthorne. Feb  19  -  2018

CAO MỴ NHÂN

 

     MỜI ĐỐI ẨM

Kìa ai trên bến lạnh căm căm

Sương khói tàn đông dạt sóng ầm

Mùa trở ngàn thông xuân vẫn thẹn

Thuyền neo khoảng trúc gió còn xan

Chưa quên nợ nước lòng sôi sục

Mãi nhớ quê nhà dạ nát tan?

Ngày Tết rượu lưng,đàn biếng gảy

Xin mời đối ẩm chuyến trường giang

NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG

 

NỖI BUỒN NGƯỜI ĐI

Những mong nắng sẻ với mưa xan

Đợi mãi... chân trời cuối bến giang

Ôm mối si mê, hờn hội ngộ

Dấu niềm luyến ái, hận ly tan

Người thương hờ hững, lòng tê cóng

Nỗi nhớ ngậm ngùi, dạ giá căm

Sáng sớm bên sông sương rỏ giọt

Dạt dào tiếng sóng vỗ vang ầm!

Thanh Hoà

 

      VÔ THƯỜNG

Quê trời trở tiết rét căm căm

Lạnh buổi giêng hai vắng sấm ầm

Trơ trọi đường xuân thôi lả lướt

Im lìm ngõ tết bớt xênh xang

Đã nhìn giã biệt là sum họp

Thì thấy tương phùng cũng hợp tan

Lặng lẽ bốn mùa luôn chuyển động

Bềnh bồng như nước cuộn trường giang

Như Thị

 

   NGÀY ĐÔNG CŨ

Những ngày Đông cũ rét mùa căm

Biển sóng trào xô tiếng vọng ầm

Góc nhỏ mượn đàn câu tích tịch

Cung chiều gởi gió khúc xề xang

Sầu quanh sầu quẩn sầu không ngớt

Nhớ mãi nhớ hoài nhớ chẳng tan

Nhớ thuở xuân hồng vừa phối ngẫu

Duyên thành bọt nước giữa hà giang

Lý Đức Quỳnh

   21/2/2018

 

      ĐÔNG VỀ

Đông về trời trở lạnh căm căm,

Bỏ biển từ lâu nhớ sóng ầm.

Ngày ấm nhìn chim ca "tú huýt",

Đêm buồn nghe điệu hát xề xang.

Trông vời cố quốc, nước sông cạn

Ngóng tới  quê xưa, vườn ruộng  tan

Chẳng biết bao giờ dân đỡ khổ,

Có còn cách trở chuyện đò giang ?

Chánh Minh

 

      LÃO GIẢ YÊN TRI

Xuân về mừng tủi chẳng hờn căm

Con trẻ ham chơi pháo nổ ầm

Sướng thắng bóng tròn vào trận kết

Vui mừng đàn hát nốt xừ xang.

Tích tuồng kép mới thay đào cũ,

Vân cẩu tranh  đời thoáng hợp tan.

Lão giả yên tri tình lắng đọng.

Ngư Ông thuyền đậu bến trường giang.

Uyên Quang 


      TỰ AN

Đông hàn lạnh lẽo giá căm căm

Ấm áp nhà vui tiếng trẻ ầm

Sung túc đặng gìn nền hạnh đạo

Bần hàn không mất vẻ xênh xang

Sớm đáp ân cầu ân thấm lại

Thôi đòi oán trả oán lòa tan

Phúc vốn tự lai khi mở dạ

Bõ thời ngụp lặn chốn đầu giang.

     21-8-2025

Nguyễn Huy Khôi 


NƠI CÕI VÔ THƯỜNG

Gió gào, mưa lũ lạnh căm căm

Sóng vỗ miên man tiếng ập ầm

Đồng ruộng ngập tràn… trông lác đác

Cửa nhà thiệt hại… ngó xàng xàng

Thương tâm thương xót thương nào dứt

Sầu não sầu đau sầu chả tan

Nguyện Phật cầu Trời cho bão lặng

Biển yên gió tạnh suốt hà giang

Songquang

 20250821

 

     CẢI LƯƠNG

Vào Thu mưa lạnh trời căm căm

Hòa lẫn bên tai sấm đánh ầm

Làm đứt dây đàn lên xế cống*

Laị dìm điệu nhạc xuống hò xang

Đào thương vai đóng làm hoa nát

Kép độc dụng hình đến ngọc tan

Tuồng hát cải lương giờ mất tích

Ghe bầu bỏ gánh người rời giang.**

2025-08-22

  Võ Ngô

*Hò xự xang xê cống liu, những nốt nhạc của đàn vọng cổ

** Ghe chở đoàn hát dạo đi khắp miền Tây sông nước. 


NHƯỜNG NGHE ĐÔNG CHUYỂN

Thu chửa phai tàn cảm giá căm

Bấc se thấm thía sóng xô ầm

Mây ùn nẻo thẳm luân vần phủ

Khói khõa non trùng tản mác tan

Vẳng tiếng cầm buông dồn tới tấp

Vang lời thú vọng ới xềnh xang

Nhường đông trùm cõi tô màu úa

Nhuộm tía chân trời lẫn bến giang …

Mai Vân-VTT

    22/8/25 


TỬU SẦU KHUÂY GIẢI

Lạnh lẽo hàn Đông giá rét căm

Đàn rung gió nể gió thôi ầm

Cung ngân léo lắt hồn lưu thủy

Khúc dạo lênh loang điệu xế xang

Lý Đỗ... nương vần khơi thú hứng

Lưu Linh... mượn chén giải sầu tan

Xôn xao... lánh hẳn miền huyên náo,,,

Hồ thỉ tang bồng khuấy sóng giang!

     23-8-2025

Nguyễn Huy Khôi

 

CẢNH KHỔ NHÂN GIAN

Đông sang tuyết kéo lạnh căm căm,

Bão táp mưa tuôn mái sập ầm!

Nhà lúc lắc quay tôn tốc ngã,

Rừng xơ cây gảy gốc xềnh xang.

Sóng cao tung khắp chưa vơi dứt,

Gió cuộn chui cuồn cuộn chẳng tan.

Ngồi ngắm mây cao che dáng Cuội,

Tim tràn lệ khổ bến sông giang.

HỒ NGUYỄN

 (21-8-2025)

 

NHỚ SÓNG TIỀN GIANG

 Mây mù băng giá lạnh căm căm

Ngọn tuyết hàng phong gió đổ ầm

Trời xám âm u sầu cách biệt

Tiếng lòng thầm lặng khúc xềnh xang

Còn buồn còn nhớ còn đâu đợi  

Tiếc ngẩn tiếc ngơ tiếc chẳng tan

Đông Bắc hoài thương dòng nước chảy

Thuyền đưa hôm đó sóng Tiền Giang.

Lê Mỹ Hoàn

    8/2025 


     THUYỀN TRÔI 

Mưa gió tơi bời lạnh buốt căm

Đâu đây sấm sét vẫn ầm ầm

Lời thơ chan chứa tình thương mến

Dụng ý thâm trầm dạ xót xang

Thuyền vẫn lênh đênh chưa bến đổ

Mây còn vơ vẩn lúc chiều tan ?

Tiết thời mưa nắng luôn thay đổi

Hồn phách phiêu bồng chốn Bắc giang …!

THIÊN LÝ