Thứ Tư, 13 tháng 8, 2025

Tạp Ghi và Phiếm Luận : Chữ TƯỚNG (Đỗ Chiêu Đức)

Tạp Ghi và Phiếm Luận :
                      Chữ TƯỚNG  
          
                                                           

       Hai chữ TƯƠNG 相 là "với nhau" và TƯƠNG 將 là "Sắp, sẽ" theo phép Giả tá của "Chữ Nho... Dễ học" còn có thể đọc là TƯỚNG. Ta sẽ lần lượt tìm hiểu và phiếm về hai chữ TƯỚNG 相, 將 nầy nhé !

       TƯỚNG 相 là từ chỉ cái dáng vẻ, cái dung mạo bên ngoài của con người; nên ta có từ đầu tiên là TƯỚNG MẠO 相 貌. TƯỚNG là cái hình dáng mà ta trông thấy bằng mắt, nên các thầy Tướng Số lại bày ra các trò xem TƯỚNG của Tai, Mắt, Mũi, Miệng, gọi là NHĨ TƯỚNG 耳 相, NHỠN TƯỚNG 眼 相, TỊ TƯỚNG 鼻 相, KHẨU TƯỚNG 口 相 và gọi chung hình dáng của khuôn mặt là DIỆN TƯỚNG 面 相 hay là MẠO TƯỚNG 貌 相 như trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu:

        凡 人 不 可 貌 相,    
Phàm nhân bất khả MẠO TƯỚNG,
       海 水 不 可 斗 量。    
Hải thủy bất khả đấu lượng.
        Có nghĩa :
              - Phàm con người thì không thể trông vào diện mạo (để phân biệt người đó là người tốt hay người xấu được), cũng như...
              - Nước biển thì không thể dùng đấu để đong đo được.
        Lòng người thâm hiểm khó lường, không thể "Trông mặt mà bắt hình dong" được, cũng như nước biển mênh mông làm sao có thể dùng đấu dùng thùng để đong đo cho hết được. 
 
       TƯỚNG là Tướng Mạo 相 貌 nên thầy xem tướng mạo gọi là Thầy Tướng Số. Trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du gọi là Thầy TƯỚNG SĨ 相 士, khi Thúy Kiều tâm tình với Kim Trọng trong ngày đầu tiên hẹn ước:

                    Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
              Có người TƯỚNG SĨ đoán ngay một lời:
                   Anh hoa phát tiết ra ngoài,
               Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.

    ... và bản thân Thúy KIều cũng là một "Bà thầy Tướng Số" khi chỉ "liếc nhìn" Kim Trọng thôi thì đã đánh giá:
      Nàng rằng: “Trộm liếc DUNG QUANG,
  Chẳng sân Ngọc bội cũng phường Kim Môn.

       DUNG QUANG là Dung mạo 容 貌 và Quang Thái 光 彩, là cái vẻ sáng sủa bên ngoài của một con người. Thay vì nói Thúy Kiều thì phải nói là chính cụ Nguyễn Du mới là một thầy Tướng Sĩ đại tài. Ta hãy xem cụ chỉ chấm phá vài nét là con người nhân vật mà cụ định diễn tả hiện ra một cách rõ nét như ở trước mắt. Hình tượng ăn chơi của một gả đàn ông trung niên Mã Giám Sinh hiện ra dưới...
                      Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
                  Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao .
      
 Còn mụ Tú Bà thì...
                    Thoát trông nhờn nhợt màu da,
                    Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao !

       Đến tên Sở Khanh chuyên dùng ngoại hình thư sinh giả tạo để gạt gẫm các cô gái nhẹ dạ thì...
                    Một chàng vừa trạc thanh xuân,
                 Hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng.

        Kịp đến anh hùng Từ Hải thì...
                    Râu hùm hàm én mày ngài,
               Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
                    Đường đường một đấng anh hào,
               Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài !
               

                           Các nhân vật trong Truyện kiều

       TƯỚNG khi là Danh từ thì có nghĩa là TƯỚNG MẠO; còn khi là Động từ thì có nghĩa là "Xem Tướng" và không phải chỉ xem tướng cho người thôi, mà còn xem tướng cả cho ngựa nữa. Ta có thành ngữ BÁ LẠC TƯỚNG MÃ 伯 樂 相 馬 là "Ông Bá Lạc chuyên xem tướng cho ngựa" có xuất xứ như sau:
       Theo "Hàn Thi Ngọai Truyện" của Hàn Anh đời Hán 漢 代 韓 嬰《韓 詩 外 傳》: 
       Trong truyền thuyết dân gian, người chuyên chăn dắt và muôi dưỡng ngựa ở trên trời là Thiên tướng Bá Lạc 伯 樂. nên trong đời sống thường ngày, ai giỏi về xem tướng ngựa, biết được ngựa nào giỏi ngựạ nào dở thì đều được gọi là BÁ LẠC.
       Người được gọi là Bá Lạc đầu tiên tên là Tôn Dương 孫 陽, là người nước Sở thời Chiến Quốc. Ông được vua nước Sở phái đi các nước để tìm môt con Thiên lý mã, là ngựa tốt có thể ngày đi cả ngàn dặm đường. Ông đi qua rất nhiều nước, kể cả các nước Yên nước Triệu là nơi nổi tiếng với nhiều hiệp khách và ngựa tốt, đều không tìm thấy con thiên lý mã nào vừa ý cả. Một hôm, trên đường từ nước Tề trở về Sở, ông trông thấy một con ngựa ốm yếu đang ì ạch kéo một xe chở muối đi lên dốc một cách nặng nhọc. Theo thói quen quan tâm đến ngựa, Bá Lạc bước đến ngắm nhìn chú ngựa tội nghiệp nầy. Nào ngờ ngựa thấy ông bèn dựng đứng hai vó trước lên và hí to một tiếng như chào mừng. Nghe tiếng ngựa hí như tiếng chuông ngân và điệu bộ hùng dũng khi dựng hai vó lên, Bá Lạc nhận ra đây là một con thiên lý mã hiếm có chỉ vì không được chăm sóc đàng hoàng mà thôi. Ông bèn hỏi chủ nhân và ra giá cao để mua lại con ngựa gầy ốm nầy, rồi trực chỉ về thẳng nước Sở để giao lại ngựa cho Sở Vương. Nghe tiếng ngựa hí vang trước cổng, Sở Vương mừng rỡ chạy vội ra xem. Trông thấy chỉ là một chú ngựa gầy gò bình thường thì lại vô cùng thất vọng. Bá Lạc phải giải thích cho Sở Vương biết về tướng mạo và giọng hí của ngựa, đoạn ông tự nguyện phụ trách chăm sóc và nuôi dưỡng ngựa theo phương pháp riêng của mình. Chỉ hơn tháng sau là con ngựa đã trở nên cao lớn mạnh mẽ trông hùng dũng vô cùng. Sở Vương rất đẹp ý bèn thắng yên cương nhảy lên cưỡi thử. Con ngựa cất cao bốn vó phi như bay về phía trước. Sở Vương nghe hai bên tai gió nổi vù vù, cây cỏ hai bên đường như đang vùn vụt lùi về phía sau. Nhà vua vô cùng đẹp ý và con Thiên Lý Mã nầy về sau đã nhiều lần giúp Sở Vương bôn ba sa trường tranh phong cùng các chư hầu lập nên rất nhiều chiến công hiển hách.
      Trong bài "Tạp Thuyết" của Hàn Dũ, một trong Đường Tống Bát Đại Gia đời Đường 唐· 韓 愈《雜 說》có câu: "Trên đời có BÁ LẠC, nhiên hậu mới có Thiên Lý Mã. Thiên Lý Mã thì thường có được chứ Bá Lạc thì không thường có được đâu". Ý là: "Người tài thì có rất nhiều, nhưng cái người mà nhận biết được người tài thì chẳng có bao nhiêu!" 
                           

                 BÁ LẠC TƯỚNG MÃ 伯 樂 相 馬

       TƯỚNG 相 còn có nghĩa Lựa, Chọn. Đọc "Tam Quốc Chí" hay các Truyện Tàu do nhà xuất bản "Tín Đức Thư Xã" xuất bản bán đầy khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh khoảng thập niên 50-60 của Thế kỷ trước; ta hay gặp câu nói sau đây :"良 禽 相 木 而 棲, 賢 臣 擇 主 而 事 Lương cầm TƯỚNG mộc nhi thê, hiền thần trạch chủ nhi sự" có nghĩa: "Chim khôn CHỌN cây lành mà đậu, Tôi hiền tìm chúa thánh mà thờ".

      TƯỚNG 相 còn có nghĩa là Giúp đỡ, Phò trợ.
Trong《Tả Truyện.Tuyên Công Tam Niên 左 傳· 宣 公 三 年》có câu : CÁT NHÂN THIÊN TƯỚNG 吉 人 天 相. có nghĩa: Người hiền lành tốt bụng thì Trời sẽ phù hộ phò trợ cho người đó. Câu nói nầy thường dùng để khuyên những người gặp nạn hay bệnh tật hành hạ: "Cát nhân tự hữu Thiên Tướng, bạn rán tịnh dưỡng thì bệnh sẽ chóng qua khỏi thôi!"

      TƯỚNG PHU GIÁO TỬ 相 夫 教 子 là Phò trợ giúp đỡ cho chồng và nuôi dạy con cái. Có phải vì thế mà các bà vợ ngày xưa hay gọi các "Ông chồng" là TƯỚNG CÔNG  相 公 đó chăng. Tức là người mà mình phải luôn luôn phò trợ giúp đỡ.

                 

      Giúp đỡ phò trợ cho chồng thì gọi là TƯỚNG PHU 相 夫, còn giúp đỡ và phò trợ cho đất nước, quốc gia thì gọi là TƯỚNG QUỐC 相 國. Ngày xưa là hai người hai bên tả hữu giúp đỡ và phò trợ cho nhà vua, gọi là TẢ THỪA TƯỚNG 左 丞 相 và HỮU THỪA TƯỚNG 右 丞 相. Vậy Tả Thừa Tướng và Hữu Thừa Tướng ai có quyền hành lớn hơn ai ?
      Theo Chiến Quốc Sách, chức vụ THỪA TƯỚNG có từ năm thứ 2 đời Tần Vũ Vương . Lúc đầu là Sư Lý Tật 樗 里 疾 và Cam Mậu 甘 茂 làm Tả Hữu Thừa Tướng; Sau lại phong thêm chức TƯỚNG BANG 相 邦 cao hơn chức Thừa Tướng một chút, như TƯỚNG BANG Lã Bất Vi chẳng hạn. Nhưng khi Tần thống nhất đất nước rồi thì chỉ còn có Tả Hữu Thừa Tướng mà thôi. Trong đời Tần Hán thì Hữu Thừa Tướng cao hơn Tả Thừa Tướng, nhưng từ đời Ngụy Tấn về sau thì ngược lại. 
      Ngoài chức vụ Thừa Tướng ra, ta còn thường nghe chức TỂ TƯỚNG 宰 相. Thực ra, Tể Tướng không phải là CHỨC VỤ mà chỉ là một cách gọi những quan viên cao cấp đứng đầu trong triều đình (như các Bộ Trưởng hiện nay). Cho nên những quan lớn ngày xưa đều có thể gọi là TỂ TƯỚNG được cả. Như trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du đã gọi cha của Hoạn Thư là “TRỦNG TỂ” 冢 宰 có nghĩa là người đứng đầu trăm quan. Khi Khuyển Ưng bắt Thuý Kiều về giao nạp cho Hoạn Bà, nàng không biết là phủ đệ nhà ai, mà...
             Ngước trông toà rộng, dãy dài,
   “THIÊN QUAN TRỦNG TỂ”, có bài treo trên.
              Ban ngày, sáp thắp hai bên,
    Giữa giường thất bảo, ngồi trên một bà...

       Nhắc đến THỪA TƯỚNG thì mọi người nghĩ ngay đến Khổng Minh Gia Cát Lượng, mặc dù ông chỉ làm Thừa Tướng có hai đời vua nước Tây Thục mà thôi, nhưng có lẽ vì ngòi bút của La Quán Trung quá xuất sắc viết nên tác phẩm Tam Quốc Chí với kế hoạch "Tam phân thiên hạ" của ông, nên mọi người đời sau đều nhớ đến ông. Cả Thi Thánh Đỗ Phủ 杜 甫 cũng có bài ca ngợi THỤC TƯỚNG 蜀 相 rất hay như sau:
    
                 丞 相 祠 堂 何 處 尋。   
      THỪA TƯỚNG từ đường hà xứ tầm,
                 錦 官 城 外 柏 森 森。   
      Cẩm quan thành ngoại bách sâm sâm.
                 映 階 碧 草 自 春 色。   
     Ánh giai bích thảo tự xuân sắc,
                 隔 葉 黃 鸝 空 好 音。   
     Cách diệp hoàng li không hảo âm.
                 三 顧 頻 煩 天 下 計。   
    Tam cố tần phiền thiên hạ kế,
                 兩 朝 開 濟 老 臣 心。   
    Lưỡng triều khai tế lão thần tâm.
                 出 師 未 捷 身 先 死。   
    Xuất sư vị tiệp thân tiên tử,
                 長 使 英 雄 淚 滿 襟。  
    Trường sử anh hùng lệ mãn khâm !
        Có nghĩa :
           Từ đường THỪA TƯỚNG tìm đâu,
           Bên ngoài thành Cẩm rầu rầu cỏ cây.
           Sắc xuân thềm biếc mọc đầy,
          Oanh vàng khéo hót đâu đây vắng người. 
          Thảo Lư Tam Cố đâu rồi ?
          Hai triều hưng phế bề tôi hết lòng .
         Xuất sư hai lượt thân vong,
         Anh hùng lệ ướt cho lòng xót xa !
              


       Còn THỪA TƯỚNG đầu tiên nổi tiếng nhất của Việt Nam ta là ai ? Đó là...
       Thừa Tướng LỮ GIA 呂 嘉 (191–110 TCN), tên hiệu là Bảo Công 保 公, ông là Thừa Tướng của ba đời vua nhà Triệu nước Nam Việt, là người nắm chính trường nước Nam Việt những năm cuối và cuối cùng thất bại trước cuộc xâm lăng Nam Việt của nhà Hán. Ông mất ngày 25 tháng 3, các đời sau họ Lữ và họ Lã ở miền Bắc Việt Nam còn tổ chức làm giỗ Tổ vào ngày 25 tháng 3 âm lịch hằng năm.
      Tên của Lữ Gia cũng đã và đang được đặt cho một số đường phố tại Hà Nội, Thành phố Sài Gòn, một đường phố lớn ở trung tâm thành phố Nam Định và một con đường ở Đà Lạt, Lâm Đồng. Cư xá Lữ Gia Sài Gòn (Quận 11) Trước đây là Cư xá Sĩ Quan Quân Đội, hiện nay là một trong những cư xá lớn nhất và đông dân cư nhất tại TP.HCM, trường THCS Lữ Gia (Quận 11), Lữ Gia Plaza – nơi đặt trụ sở của phần lớn các công ty Internet lớn nhất tại Việt Nam. "Lữ Gia Plaza" (Quận 11) còn được xem như là "Silicon Valley thu nhỏ" của Việt Nam ta.

           

            Thừa Tướng LỮ GIA 呂嘉 (191–110 TCN)
 
       THỪA TƯỚNG là chức vụ dưới một người mà trên vạn người, vì quyền hành quá lớn nên còn được gọi là QUYỀN TƯỚNG 權 相; Nhất là những ông Thừa Tướng già từ đời trước còn giữ chức Thừa Tướng đến đời sau, nên được các "Vua con" mới lên ngôi gọi xưng tặng là TƯỚNG PHỤ 相 父 (kính trọng như Cha). Vì nắm trọn quyền hành nên Thừa Tướng cũng có tốt có xấu. Như :
       - Thừa Tướng tốt là Hiền Tướng 賢 相, Lương Tướng 良 相, Chính Tướng 正 相...
       - Thừa Tướng xấu là Gian Tướng 奸 相, Phản Tướng 反 相, Ác Tướng 惡 相...
         (Các từ trên cũng dùng để chỉ Tướng Mạo của con người nữa)

       Chức vụ tương đương với Thừa Tướng trong xã hội hiện nay là THỦ TƯỚNG. THỦ TƯỚNG là người đứng đầu nội các chính phủ của một nước. Vị Thủ Tướng đầu tiên của nước Việt Nam ta là Lệ Thần Trần Trọng Kim (1945). Ông là nhà Chính trị, nhà Văn hóa, nhà Sử học, Nho học... để đời với nhiều tác phẩm nổi tiếng như : Việt Nam Sử Lược, Việt Nam Văn phạm, Nho giáo...

           

                 Chính phủ Trần Trọng Kim 1945

       Sang qua chữ TƯỚNG 將 là Tướng Sĩ Tượng 將 仕 相 (đỏ) và Soái Sĩ Tượng 帥 士 象 (xanh). Ai biết đánh Tứ Sắc 四 色 (Bài bốn màu) và Cờ Tướng thì chắc chắn sẽ biết 7 mặt bài và quân cờ: TƯỚNG SĨ TƯỢNG, XE PHÁO NGỰA (車 炮 馬) và CHỐT (兵,卒). 
       TƯỚNG SOÁI 將 帥 là các Tướng lãnh được phong chức Nguyên soái, là người đứng đầu và chỉ huy quân đội. Còn TƯỚNG SĨ 將 士 nói chung là Tướng lãnh và Binh sĩ, là những người cùng nhau sát vai chiến đấu ngoài sa trường để cùng bảo vệ non sông đất nước, là những chàng trai hào hùng trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, là...
                  ... Những người chinh chiến bấy lâu,
                      Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây... 

       Trong phép đánh cờ và đánh trận, ta có một câu ngạn ngữ rất hay là :
       棋 逢 敵 手,   Kỳ phùng địch thủ,
       將 遇 良 才。   Tướng ngộ lương tài.
         Có nghĩa :
                    Cờ gặp phải tay địch thủ, còn...
                    Tướng thì gặp phải người tài giỏi. 
Ý chỉ...
       Kẻ nửa cân, người tám lạng; ngang tài ngang sức với nhau, không ai hơn ai kém cả !    

       Người đánh cờ được gọi là Kỳ Thủ; đánh cờ giỏi thì được gọi là Kỳ Vương . Còn Tướng đánh trận thì được gọi là TƯỚNG QUÂN 將 軍, tướng đánh trận giỏi thì gọi là MÃNH TƯỚNG 猛 將, DŨNG TƯỚNG 勇 將, HỔ TƯỚNG 虎 將, PHI TƯỚNG 飛 將... Phi Tướng là Tướng Quân giỏi xông xáo ngoài sa trường như mây bay gió cuốn, là danh xưng của DANH TƯỚNG 名 將 :
        LÝ QUẢNG (187-119 TCN) người đất Lũng Tây, võ tướng đời Tây Hán . Cả đời ông trấn thủ biên cương, đánh với Hung Nô trên 40 năm, trên dưới 70 trận, người Hung Nô sợ sự anh dũng của ông, nên xưng tụng là PHI TƯỚNG QUÂN 飛 將 軍. Trong bài tứ tuyệt "Xuất Tái" của Vương Xương Linh nổi tiếng với 2 câu cuối là:
                  但 使 龍 城 飛 將 在,    
       Đản sử Long thành PHI TƯỚNG tại,
                  不 教 胡 馬 度 陰 山.     
      Bất giáo Hồ mã độ Âm san !
        Có nghĩa :
               - Chỉ cần có Phi Tướng Quân trấn thủ tại Long thành, thì...
               - Không bao giờ ngựa của Rợ Hồ qua khỏi được núi Âm Sơn cả !

                     Long thành PHI TƯỚNG hãy còn,
                    Rợ Hồ chớ tưởng vượt miền Âm Sơn .
                    

                    PHI TƯỚNG QUÂN   LÝ QUẢNG 

       Tướng giỏi thời Tam Quốc còn có Quan Vân Trường (Quan Công) với tích: "Quan Công phò nhị tẩu" và "Qúa Ngũ Quan Trảm Lục Tướng" là "Phò tá hai chị dâu là vợ của Lưu Bị đi qua năm cửa ải và chém chết sáu tướng của Tào Tháo, khiến cho mọi người đều phải khâm phục.

       Trai thì gọi là Tướng Quân 將 軍, là Hùng Tướng 雄 將; Còn nữ mà giỏi đánh trận cũng được gọi là Nữ Tướng Quân 女 將 軍. Những NỮ TƯỚNG 女 將 nổi tiếng trong văn học Trung Hoa như Hoa Mộc Lan, Tôn Phu Nhân, Lương Hồng Ngọc... của Việt Nam ta như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân...đều là những Cân Quắc Anh Thư 巾 幗 英 雌.

       Ta có các thành ngữ chỉ về đường binh nghiệp của các ông TƯỚNG ngày xưa như : 
        - Điều binh Khiển Tướng 調 兵 遣 將 là Điều động các tướng đánh trận và binh lính. 
        - Tướng Dũng Binh Hùng 將 勇 兵 雄. Ta nói là Binh hùng Tướng mạnh.
        - Tinh Binh Cường Tướng 精 兵 強 將 là Lính thì tinh nhuệ, Tướng thì giỏi giang.
        - Đăng Đàn Bái Tướng 登 壇 拜 將. Lễ sắc phong cho các tướng soái sắp ra trận.
        - Trảm Tướng Đoạt Thành 斬 將 奪 城 là Chém tướng địch cướp thành trì .
        - Bái Tướng Phong Hầu 拜 將 封 侯. Khi thắng trận trở về được thăng quan tiến chức.
      Khi thua trận thì :
        - Tổn Binh Chiết Tướng 損 兵 折 將. Ta nói là Hao Binh Tổn Tướng 耗 兵 損 將.
        - Tàn Binh Bại Tướng 殘 兵 敗 將 Ta nói ngược lại là Tướng Bại Binh Tàn .
        - Binh Bại Tướng Vong 兵 敗 將 亡 là Lính thì thua, Tướng thì chết.

      Các ngạn ngữ về TƯỚNG mà ta thường nghe thấy nhất là :
        - Tướng Môn Vô Khuyển Tử 將 門 無 犬 子 có nghĩa: Trong cửa nhà tướng, không có con hèn như chó. Ý là : Con của nhà tướng thì cũng dũng mãnh như tướng vậy .
        - Cường Tướng Chi Hạ Vô Nhược Binh 強 將 之 下 無 弱 兵  có nghĩa : Dưới tay tướng mạnh không có binh yếu.  
        - Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô 一 將 功 成 萬 骨 枯 có nghĩa: Một tướng thành công nên danh thì có cả vạn nắm xương khô rồi. Ý nói: Một người khi đã nổi tiếng là danh tướng thì đã có hàng vạn binh sĩ phải hy sinh để tạo nên tiếng tăm cho ông ta rồi. "Cái vinh quang của một người được tạo nên bằng cái chết của cả vạn người". Không đánh nhiều trận, không có hàng vạn binh sĩ phải hy sinh trong các trận đánh đó, thì làm sao nổi danh là tướng giỏi cho được!

                      

                Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô

       Đó là ngày xưa, còn ngày nay đi lính mà muốn lên tới cấp Tướng là điều không tưởng, vì từ Binh nhì đến Thống Tướng phải trải qua gần 20 cấp. Chỉ riêng cấp Tướng thôi cũng đã có đến 5 bậc rồi: Chuẩn Tướng, Thiếu Tướng, Trung Tướng, Đại Tướng, và Thống Tướng. Riêng chế độ quân hàm của miền Bắc còn có thêm cấp Thượng Tướng nữa mới nhiêu khê đó chứ! Nói chung, bất cứ theo quy chế hệ thống của quân đội nào thì một sĩ quan muốn lên đến cấp tướng thì không phải là chuyện dễ dàng gì!
      Có một điều rất lý thú mà ít ai nghĩ đến, đó là học VĂN mà lên đến cấp Tướng là THỪA TƯỚNG 丞 相 hay THỦ TƯỚNG 首 相 (như hiện nay) thì sẽ có quyền lực cao hơn là học VÕ mà lên đến cấp Tướng là ĐẠI TƯỚNG 大 將 hay THỐNG TƯỚNG 統 將. Ông THỪA TƯỚNG (THỦ TƯỚNG) chỉ ở trong triều, ở trong văn phòng đưa ra quyết định (Hoà hay Chiến) thì ông ĐẠI TƯỚNG ngoài biên cương hay THỐNG TƯỚNG ở Bộ Tư Lệnh phải thi hành theo răm rắp mà thôi. Nên chi, các ông TƯỚNG 將 ngoài biên cương rất đố kỵ với các ông TƯỚNG 相 ở trong triều: Mình vất vả trãi gió dầm sương ngoài sa trường với cái sống chết cận kề mà phải chịu thua, phải nghe lời của những tên hủ Nho ăn ngon ngủ kỷ ở trong triều sao ?! Điều nầy đưa đến một thành ngữ TƯỚNG TƯỚNG BẤT HÒA 將 相 不 和. có nghĩa : Ông Tướng ngoài biên cương và ông Tướng ở trong triều luôn luôn bất hòa. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ《Sử Ký. Liêm Pha Lạn Tương Như liệt truyện 史 記· 廉 颇 藺 相 如 列 傳》như sau:
        LIÊM PHA 廉 颇 là Đại Tướng kiệt xuất của nước Triệu. Năm Triêu Huệ Văn Vương thứ 16, ông đã đem binh đánh bại nước Tề, chiếm được đất Tấn Dương, uy danh lừng lẫy khắp chư hầu. Ông được phong là Tả Thượng Khanh, tương đương như chức Tả Thừa Tướng vậy.
        LẠN TƯƠNG NHƯ 藺 相 如 là môn khách của Hoạn quan Mục Hiền đã giúp vua Triệu giữ vững được thể diện trước vua Tần ở Hội nghị Mẫn Trì và nhất là đã giúp "Hoàn Bích Quy Triệu 完 璧歸 趙" là đem ngọc bích nguyên vẹn về cho vua Triệu, nên được phong làm Hữu Thượng Khanh, tương đương như chức Hữu Thừa Tướng vậy.
        Liêm Pha rất bất mãn vì mình là đại tướng đã nhiều phen sống chết ở sa trường mà chức vụ lại thấp hơn gả thư sinh chỉ biết sử dụng có ba tất lưỡi, nên dọa rằng sẽ làm nhục Lạn Tương Như trước mặt đồng liêu. Lạn Tương Như nghe thế nên luôn tìm cách tránh mặt Liêm Pha. Một hôm khi kiệu của ông đang đi trên đường phố Hàm Đan, bỗng gặp phải xe ngựa của Liêm Pha từ đầu kia đi đến, ông bèn ra lệnh cho các Kiệu phu tránh vào trong hẽm, đợi xe ngựa của Liêm Pha qua khỏi rồi mới ra đường lớn về nhà. Các môn khách của ông rất bất mãn mà nói với ông rằng: "Chúng tôi theo phò tá ông là vì thấy ông là người dũng cảm và có đạo đức tốt, nay ông và Liêm Pha chức vụ tương đương nhau mà ông ta chỉ dọa một câu là ông đã sợ đến nỗi không dám đối diện, thế thì chúng tôi còn trông mong gì vào ông nữa. Xin cho cáo biệt". Lạn Tương Như ngăn lại hỏi rằng: "Liêm Pha với Tần Vương ai đáng sợ hơn ai?" Môn khách đáp: "Dĩ nhiên là Tần Vương đáng sợ hơn". Lạn Tương Như bèn nói rằng: "Tần Vương uy vũ là thế, nhưng trước mặt vua Tần và các quần thần tôi cũng đã dám quắt mắt lớn tiếng khiển trách và giữ vững ngọc bích mang về cho Triệu vương. Lạn Tương Như tôi mặc dù tài mọn, nhưng há lại sợ gì Liêm Pha tướng quân hay sao? Chẳng qua, tôi nghĩ rằng: Nước Tần sở dĩ úy kỵ nước Triệu ta là vì có tôi và Liêm Pha tướng quân, một văn một võ cùng nhau phò trợ, nếu nay văn võ bất hòa, xào xáo chống chọi lẫn nhau, không chung lòng giữ nước, há chẳng là dịp tốt cho nước Tần dòm ngó để xâm lấn hay sao?!" Các môn khách nghe thế đều bái phục cho sự biết nhường nhịn vì đại cuộc của Lạn Tương Như. 
      Tin đưa đến tai Liêm Pha. Liêm Pha bèn cởi áo đưa lưng ra, rồi vác một cái cây đầy gai góc trên lưng, nhờ người đưa đến quỳ trước cửa nhà Lạn Tương Như mà xin lỗi rằng: "Tôi là người thô lổ, xin Tướng quốc rộng lượng mà bỏ qua cho". Từ đó về sau, hai người thân thiết nhau như là một cặp sinh tử chi giao, và nước Tần nghe tin, càng không dám có ý đồ gì với nước Triệu nữa cả! 
         Và ta lại có một thành ngữ mới chỉ có 3 chữ mà thôi "TƯỚNG TƯỚNG HÒA 將 相 和" là "TƯỚNG QUỐC và TƯỚNG QUÂN; THỦ TƯỚNG và ĐẠI TƯỚNG hòa thuận nhau" Ý chỉ : Hai thành phần nồng cốt của một đoàn thể, một tổ chức biết hòa hợp nhau thì sẽ cho ra sức mạnh vô địch. 
         
            

          TƯỚNG TƯỚNG HÒA 將 相 和       
                       
       Cuối cùng, ta thường thấy trong văn học cổ gọi những người thành đạt trong quan trường là Công, Hầu, Khanh, Tướng. TƯỚNG ở đây chỉ cả Thừa Tướng và Tướng Quân. Nói chung là chỉ những người thành đạt, cao sang quyền quý. Trong Tăng Quảng Hiền Văn có một câu nói rất hay là :
                將 相 胸 前 堪 走 馬,   
     TƯỚNG TƯỚNG hung tiền kham tẩu mã,
                公 侯 肚 裡 好 撐 船。    
    Công hầu đổ lý hảo sanh thuyền !
     Có nghĩa :
        - Trước lồng ngực của TƯỚNG QUÂN và THỪA TƯỚNG có thể chạy ngựa được.
        - Trong bụng dạ của Công Hầu có thể chống thuyền đi được ở trong đó.
      Ý muốn nói :
          Những người thành đạt như Công, Hầu, Khanh, Tướng thì nên có bụng dạ rộng rãi: Lồng ngực (Hung 胸) rộng đến có thể cưởi ngựa chạy trong đó được; và bụng dạ (Đổ 肚) rộng đến có thể chống xuồng đi trong đó được. Tức là muốn khuyên đã thành đạt rồi thì nên có lòng khoan dung rộng rãi của một kẻ cả; Xí xóa tha thứ mọi lỗi lầm không cần thiết của những người chung quanh. Trong cuộc sống thường ngày cũng vậy, ta luôn luôn phải biết:

   責 人 之 心 責 己 Trách nhân chi tâm trách kỷ,
   恕 己 之 心 恕 人。    Thứ kỷ chi tâm thứ nhân.
       Có nghĩa :
              - Lấy cái lòng mình trách người ta để trách mình, và...
              - Lấy cái lòng mình tha thứ mình để tha thứ cho người khác !
      


       Mong rằng tất cả mọi người đều sống với lòng vị tha hỉ xả, mặc dù chúng ta chỉ là những người bình thường chớ không phải là Công, Hầu, Khanh, Tướng gì cả !
       Mong lắm thay !
                                                                                                                             杜 紹 德                                                                      Đỗ Chiêu Đức








Không có nhận xét nào: