Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2025

BÀI GIỚI THIỆU VÀ PHÊ BÌNH TÁC PHẨM “CHỮ HÁN, TIẾNG HÁN VIỆT VÀ SỰ VẬN DỤNG TIẾNG HÁN VIỆT TRONG TIẾNG VIỆT.” Tác giả THÁI GIA KỲ (Phần cuối) - Nguyễn Đức Cung

 BÀI GIỚI THIỆU VÀ PHÊ BÌNH TÁC PHẨM “CHỮ HÁN, TIẾNG HÁN VIỆT VÀ SỰ VẬN DỤNG TIẾNG HÁN VIỆT TRONG TIẾNG VIỆT.” (Phần cuối)

(Tác giả THÁI GIA KỲ)

                                                                                                                                                                     Nguyễn Đức Cung


III.- HÁN TỰ & ẢNH HƯỞNG TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA.

        Quả thật cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ giúp tôi trở lại với một số tác giả trước ông, những bậc thầy trong ngành ngữ học Việt Nam tiền bối như các cụ Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Trọng Thuật (tức Đồ Nam Tử), Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn, Linh mục Léopold Cadière giai đoạn đầu thế kỷ 20, rồi đến các vị như Linh mục Lê Văn Lý, Giáo sư Trương Văn Chình, học giả Lê Ngọc Trụ, Giáo sư Nguyễn Bạt Tụy, Giáo sư Trần Văn Toàn ở Miền Nam trước đây vốn là những người đã có công trong việc biên khảo và xây dựng ngành ngữ học Việt Nam. Ở Miền Bắc có Đào Duy Anh, Nguyễn Tài Cẩn, Lê Văn Quán… Tại hải ngoại có rất ít người viết về lịch sử ngôn ngữ Việt Nam, tuy vậy một số tác phẩm cũng được biết đến như của Vũ Thế Ngọc, Duyên Hạc Lê Thái Ất và nay có tác phẩm của Thái Gia Kỳ, cũng có thể có vài tác giả nữa mà tôi chưa hân hạnh đọc tới.

        Tuy không đi sâu vào việc nghiên cứu, phân tích ngữ pháp tiếng Việt như sách của Giáo sư Lê Ngọc Trụ (cuốn Chánh tả Việt ngữ) hay của Linh mục Lê Văn Lý (cuốn Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam), sách của Giáo sư Nguyễn Bạt Tụy, sách của Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn có tính cách chuyên môn bác học, nhưng đối với độc giả bình thường, cuốn sách của tác giả Thái Gia Kỳ đem lại nhiều hiểu biết bổ ích chẳng hạn sự du nhập của chữ Hán vào các quốc gia Đông Á như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam cùng sự tiếp thu loại văn tự này và ảnh hưởng của nó, thông qua tôn giáo, phổ cập trong quần chúng tạo nên lịch sử của từng quốc gia. Sự phát minh ra chữ viết gọi là Hangul (quốc ngữ Triều Tiên) của Thế Tông Đại đế      (Sejong the Great) cũng là một kỳ tích mà người dân Triều Tiên luôn luôn hãnh diện. Vấn đề phiên thiết của chữ Hán, hệ thống Wade-Giles hay Pingyin   (phiên âm) hệ thống ‘lục thư’ cung cấp những hiểu biết cụ thể cho người đọc.

        Trong cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ, tác giả đã dành rất nhiều trang để nói về sự liên hệ giữa tiếng nói Trường An (tỉnh Thiểm Tây) với tiếng Hán Việt (trang 45, 46) và thêm rất nhiều trang sách từ trang số 79 trở đi. Ông Thái Gia Kỳ có nhắc đến quan điểm của một số tác giả đi trước như Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Hữu Phước, nhưng thật ra quan điểm tiếng Hán Việt xuất phát từ tiếng Trường An cũng đã là quan điểm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu đã đưa ra trước đây rất lâu và cũng còn là vấn đề cần nhiều sự phản biện, góp ý.

        31.- Chữ Hán và vai trò “văn dĩ tải đạo” trong thế giới hiện đại.

        Ở trang 30, tác giả Thái Gia Kỳ viết: “Nho giáo chủ trương nhập thế, chủ trương con người sống trong xã hội phải biết trung hiếu lễ nghĩa trí tín, sống để phục vụ gia đình, xã hội và trên hết là quốc gia. Chủ trương đó lại vừa đáp ứng được sự mong muốn của các vua chúa phong kiến muốn dùng nó làm nền tảng, công cụ cai trị dân.”

        Đây là lý do mà các chế độ chính trị ngày nay ở TQ và VN muốn dùng lại Khổng giáo như là công cụ ổn định tình hình xã hội theo các mô thức thể chế mà nhà cầm quyền mong muốn với những lợi thế về chữ viết, tư tưởng, văn hóa v.v…

        Từ năm 1935, trong bộ sách The Story of Civilization, sử gia Will Durant cho rằng chữ Hán “kết hợp được tất cả cư dân của đất nước Trung Quốc thành một khối sử dụng chung một loại chữ viết; mỗi khu vực đều có một phương ngữ riêng, cùng một chữ nhưng mỗi tỉnh lại đọc theo một cách. Thật là một cái lợi cả trong thời gian lẫn không gian; bởi vì văn ngôn về cơ bản không thay đổi, trong khi ngôn ngữ nói đã chia thành cả trăm phương ngữ, cho nên cổ văn Trung Quốc viết cách nay trên hai ngàn năm, thì ngày nay người Trung Quốc có học nào cũng đọc hiểu được, mặc dầu không biết người xưa phát âm các chữ đó ra sao, hoặc phát biểu các ý tưởng – mà các ký hiệu đó làm biểu tượng – như thế nào.” (Will Durant, bản dịch Hoàng Ngọc Chiến, tr. 946).

        Trong cuốn “Chữ Hán, tiếng Hán Việt và sự vận dụng tiếng Hán Việt trong tiếng Việt”, tác giả Thái Gia Kỳ giới thiệu lần lượt một số nhà biên khảo Trung Quốc như Lý Quốc Kỳ, Nhậm Kế Dũ, hoặc người nước khác như bà Amanda Snellinger, Viễn Sơn Mậu… cống hiến những hiểu biết về tôn giáo, ngôn ngữ đưa lại một sắc thái mới. Dĩ nhiên giới thiệu một vài tác giả Trung Hoa viết về sự kết cấu của chữ Hán với độc giả Việt Nam cũng là một điều hay nhưng thiết tưởng cũng nên nhắc đến các tác giả Việt Nam gồm nhiều học giả, nhà nghiên cứu sử học, văn học tên tuổi có viết đến nhiều ít về nguồn gốc Hán tự hay nền văn chương bác học Việt Nam cũng là một hình thức “bày hàng” làm tăng thêm giá trị và vẻ bề thế của cuốn sách. Có vài nơi, tác giả TGK chưa lưu ý đến phương pháp sử học khi dẫn chứng một tư liệu, chẳng hạn, nên ghi tên nhà xuất bản, năm xuất bản,trang dẫn tư liệu v.v… giúp cho độc giả tiện kiểm chứng nơi mình đang viết, đã đọc.

        Cuốn sách của TGK tuy chỉ có 313 trang nhưng đề cập đến rất nhiều vấn đề không dễ cập nhật hoặc giải quyết khi tiếp cận với chân lý lịch sử. Điều này nói lên thiện chí và khả năng của tác giả.

        Qua cuốn sách này, độc giả có dịp thấy rõ vai trò quan trọng của chữ Hán trong việc tạo dựng một phần lớn nền văn minh cho nhân loại nói chung và Đông Á nói riêng. Tác giả phải lược qua sự hình thành của chữ Hán trong nhiều giai đoạn lịch sử mà ở phần trên chúng tôi đã có góp ý. Khi tác giả nêu ra những đề mục như chữ Hán với Tam giáo (Nho, Phật, Lão) ở Trung Quốc, chủ ý của TGK là muốn nêu lên đời sống tinh thần của dân tộc Trung Hoa nói chung trong đó có chính quyền và người dân mà Hán tự được dùng như một công cụ hữu hiệu để chuyển tải nội dung.

        Trong phần nói về chữ Hán ở Triều Tiên và Nhật Bản, tác giả chỉ đề cập tới Phật giáo ở hai nước này mà không lưu ý đến Lão giáo nằm trong hệ thống Tam giáo rất có ảnh hưởng ở hai quốc gia này. Một thí dụ là quốc kỳ của Hàn Quốc (Nam Triều Tiên) gồm hình vẽ Thái cực ở giữa và bốn góc là bốn quẻ dịch lấy trong Kinh Dịch vốn được các đạo gia thời cổ dùng làm sách bói toán. (Jill DuBois, sách đã dẫn, tr. 74).

        Cảm nhận đầu tiên khi chợt thoáng lướt qua nhan đề cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ là cảm nhận khô khan khi tác phẩm dẫn người đọc đi vào một lãnh vực kỳ khu, rắc rối đó là phạm trù ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ chữ Hán. Với vai trò là “văn dĩ tải đạo” (văn chương dùng để chuyên tải việc đạo đức) chữ Hán ngày xưa dùng để nói về luân lý, đạo đức tức nghệ thuật sống để làm người cho nên cũng dễ đọc, dễ dạy và cũng dễ tiếp thu tuy nhiên đó là đối với những người quyết dùng chữ Hán làm con đường tiến thân qua khoa cử. Trong tác phẩm Chính đề Việt Nam, ông Ngô Đình Nhu (Tùng Phong) đã viết rằng: “Hoa ngữ là một sinh ngữ biểu ý, mỗi một chữ ghi một ý niệm. Vì thế cho nên, một người Tàu muốn xử dụng được Hoa ngữ một cách trung bình phải nằm lòng một số tối thiểu là từ ba ngàn đến bốn ngàn chữ. Sự cố gắng về lý trí, vượt mức thông thường đó, đã tạo ra một sự tôn sùng nhà nho, trong xã hội Trung Hoa và xã hội Việt Nam khi xưa. Hoa ngữ hoàn toàn bất lực khi phải đóng vai trò dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng cho văn hóa” (Nhà xb. Hùng Vương, Los Angeles, mùa thu 1988, tr. 154). Trong cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ, tác giả cũng đã nêu ra các lý do vì sao “Nho giáo lại được trọng vọng” nào là chủ trương nhập thế con người phải trung hiếu lễ nghĩa, dạy con người biết sống lương thiện, lấy Nho giáo làm căn bản giáo dục… (trang  30) mà quên mất một lý do rất thực tế mà ông Ngô Đình Nhu đã nêu ra, đó là “phải nằm lòng một số tối thiểu là từ ba đến bốn ngàn chữ. Sự cố gắng về lý trí, vượt mức thông thường đó.” Người bình dân ít chữ, không được học hay không thể học được, vì chữ Hán quá khó, nên dành cho người học được Hán tự (nhà Nho) một niềm trọng vọng, thực tế là như vậy. Đây cũng là quan điểm của một chính khách gần sáu thập niên về trước, ngày nay so với sự tiến bộ của khoa học trong kỹ thuật máy vi tính có thể lỗi thời nhưng qua cuốn sách của tác giả Thái Gia Kỳ, cũng chứng tỏ vẫn có những con người chịu khó cặm cụi với nghiên cứu, với sách vở để trình bày những điều mình mong muốn, cũng là một hình thức “văn dĩ tải đạo” vậy là “đạo” đã trở thành kích thích tố thúc đẩy họ bước theo con đường khó khăn, gai góc này. Nhưng “đạo” trong cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ là đạo gì và một vấn đề đặt ra chung cho mọi người Việt Nam là thử hỏi “đạo” của chính quyền TQ hôm nay là “đạo” gì?

        Trong tác phẩm Văn Minh Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Huyên có viết: “Mục đích của Nho giáo là trị dân tốt. Đấy là cái đức của vua, cái ảnh hưởng vua nhận được từ “thiên mệnh” làm cho dân tốt hay xấu. Khổng Tử nói rằng: “Vua đến gần dân mà nghiêm trang, thì dân sẽ kính cẩn, vua hiếu thảo và thương người, thì dân sẽ trung thành, vua nâng đỡ người tốt và dạy dỗ kẻ kém cỏi, thì dân sẽ gắng sức.” Sự thanh bình chỉ có trong xã hội nếu mỗi người lúc nào cũng làm tròn vai trò mình được giao, và các trách nhiệm của mình phải gánh vác, “vua phải ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. (Nguyễn Văn Huyên, Sách đã dẫn, tr. 287).

        Qua cuốn sách có tên Viết Vu Vơ, ở phần Đọc Đứng Vững Ngàn Năm của Ngô Nhân Dụng, nhà văn Nguyễn Hưng Quốc có tóm lược quan điểm của Ngô Nhân Dụng về Trung Quốc như sau: “   Ông nhấn mạnh: Trước thế kỷ 20, Trung Quốc không phải là một dân tộc-quốc gia (nation-state) và người Trung Quốc cũng không có ý thức về dân tộc. Chữ “quốc”, trong chữ Hán, được dùng để chỉ một triều đại. Có thể nói, người Trung Quốc tự bản chất và ngay từ khởi thủy, một mặt, đã có tinh thần “quốc tế chủ nghĩa” không nhằm xây dựng quốc gia chỉ trên nền tảng sắc tộc; mặt khác, đã mang máu đế quốc, muốn xây dựng đất nước trên nền tảng tư tưởng “bình thiên hạ”. Tư tưởng dựa trên “thiên hạ” ấy có ba hệ quả: Một, không bị ngăn cản bởi những sự phân biệt chủng tộc và sắc tộc, văn minh Trung Hoa dễ bành trướng; hai, người Trung Hoa tương đối dễ chấp nhận sự thống trị của các dân tộc khác (ví dụ, người Mông Cổ hoặc người Mãn Thanh) (ít nhất “dễ” hơn so với người Việt Nam); và ba, khi chiếm và đô hộ Trung Hoa, dưới quan điểm “thiên hạ vi công” (thiên hạ là của chung) như thế, giới thống trị từ nước khác đến rất dễ mất cảnh giác về bản sắc văn hóa gốc của mình; hậu quả là, qua nhiều thế hệ hoặc nhiều thế kỷ, dần dần bị tan hòa vào nền văn hóa của người Hán, nghĩa là bị Hán hóa, và cuối cùng, mất luôn cả nước (đó là số phận của cả người Mông Cổ lẫn người Mãn Thanh). (Nguyễn Hưng Quốc, Viết Vu Vơ, (Miscellaneous Writings), Người Việt xb. California, 2014, tr. 250).

        Ở đoạn kế đó, Nguyễn Hưng Quốc nhắc đến sự phân hạng của Ngô Nhân Dụng về ba loại đế quốc: loại dựa trên vũ lực, loại trên tôn giáo và loại dựa trên văn hóa và cho rằng không loại nào “lâu dài và chắc chắn cho bằng kiểu bành trướng và thống trị dựa trên văn hóa với những định chế chính trị và xã hội riêng.” (tr. 251).

        “Đạo” như định nghĩa của nhiều người vừa là đạo lý, luân thường vừa là con đường, có khi được đề cao cũng có khi bị phản đối và con đường có khi thẳng, lúc quanh co, khi lên đồi lúc xuống lũng, cũng như Khổng học vậy.

        Trong tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh” (The clash of civilizations), Samuel P. Huntington ghi lại những sự thực oái oăm về nền văn minh Nho giáo như sau: “Đầu thế kỷ XX, trí thức Trung Quốc xác định Khổng giáo là nguồn gốc của lạc hậu. Cuối thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo chính trị Trung Quốc, cùng các nhà khoa học xã hội phương Tây hân hoan chào đón Khổng giáo là nguồn gốc của tiến bộ. Trong những năm 1980, chính phủ Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh quan tâm đến Nho giáo là “xu thế chính” của văn hóa Trung Hoa. Khổng giáo cũng trở thành động lực nhiệt thành của ông Lý Quang Diệu, người nhìn nhận Khổng giáo là nguồn gốc cho thành công của Singapore, và tự biến mình thành kẻ truyền giáo cho đạo Khổng ra khắp thế giới. Vào những năm 1990, chính phủ Đài Loan tuyên bố là “người thừa kế tư tưởng Khổng giáo” và Tổng Thống Lý Đăng Huy xác định dân chủ hóa ở Đài Loan bắt nguồn từ “di sản văn hóa” Trung Hoa có từ thời Cao Dao (thế kỷ XXI trước Công nguyên), Khổng Tử (thế kỷ V trước Công nguyên) và Mạnh Tử (thế kỷ III trước Công nguyên). Cho dù họ muốn biện minh cho chủ nghĩa độc đoán hay dân chủ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều tìm thấy tính chính đáng trong nền văn hóa Trung Hoa chứ không phải những khái niệm du nhập từ phương Tây.” (Nhóm dịch: Nguyễn Phương Sửu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Phương Nam, Lưu Ánh Tuyết, Nhà xb. Hồng Đức, 2016, trang 163)

        Tuy nhiên cũng đã có khi thời cuộc xoay vần nhắc chúng ta nhớ lại quan điểm văn hóa của đa số nhà văn Trung Quốc, dưới ngòi bút của Nguyễn Hiến Lê trong hơn nửa thế kỷ trước, như sau: “Hiện nay văn nhân Trung Quốc đương ly dị với văn học cổ truyền, bỏ hết những đặc sắc của họ để theo kịp phương Tây, mô phỏng cho đúng phương Tây.” (Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung Quốc, cuốn 3, Nhà xb. NHL, 1954, trang 215). Âm thanh của những cuộc xuống đường của Hồng Vệ Binh giữa thập niên 60 thế kỷ trước, dưới quyền vị chủ soái Mao Trạch Đông còn như vọng lại khắp thế giới trên những biểu ngữ đề các đại tự “ phê Lâm, phê Khổng”     nói lên chủ trương hạ bệ Lâm Bưu (Lin Piao), đả phá Khổng học của Mao lúc bấy giờ, đề cao tư tưởng Mao trong các tập Mao tuyển trong mục đích chính là loại bỏ đối thủ chính trị và nắm giữ quyền lực.

        Ngày nay sự thành lập các học viện Khổng Tử, sáng kiến được thực hiện từ năm 2004, trên khắp thế giới nhằm mục đích giúp cho các thế hệ cầm quyền ở Trung Quốc bành trướng chủ nghĩa Đại Hán và mới đây sự hô hào của Tập Cận Bình về chiến lược “Con đường tơ lụa trên biển” hay lộ trình “Một vành đai, một con đường” (Nhất lộ, nhất đới) mà Phó Tổng Thống Mike Pence gọi là “Vành đai trói buộc và con đường một chiều” cũng nói lên số phận thăng trầm của một học thuyết mà Khổng học là đại diện.

        Trong một cuốn sách chính luận một thời gây sôi nổi ở hải ngoại có tên Tổ Quốc Ăn Năn, (lấy bốn chữ này từ cuốn “Người Hoa tại Việt Nam” của Nguyễn Văn Huy, in tại Paris năm 1993, trang 223) ra đời từ đầu thiên niên kỷ thứ ba, tác giả Nguyễn Gia Kiểng đã dành nhiều trang sách để tấn công vào nền văn hóa Khổng giáo từ trang 265 đến trang 307 với nhiều tiêu đề như “Thua kém và nguyên nhân”, “Khổng Giáo và Khổng Tử”, “Sự nghiệp và nhân cách Khổng Tử”, “Đạo lý thánh hiền”, “Việt Nho”, và từ trang 309 đến 371 với các tiêu đề “Mặt thật của ai”, “Giết hại công thần’, “Ưu đạo bất ưu bần”, “Tổ quốc của kẻ sĩ”, “Một chân dung tráng lệ của kẻ sĩ”, “Chuyện cổ tích”. Những điều ông NGK đề cập tới có một vài chỗ đúng nhưng cũng có rất nhiều chỗ quá cực đoan, sai lầm cần phản biện lại, tuy nhiên đó cũng là một cuốn sách có can đảm đặt lại một số vấn đề và đọc nó để có dịp đối chiếu với tác phẩm của ông Thái Gia Kỳ, và cũng là cơ hội nhìn về Trung Quốc qua nền văn hóa chữ Hán của họ.

        Trong cuốn sách “Death by ChinaConfronting the Dragon – A Global Call to Action,(Chết bởi Trung Quốc) hai tác giả Peter Navarro và Greg Autry nhận thấy tất cả mọi hiểm độc của chế độ Cộng Sản tại Trung Quốc nên đã kêu gọi toàn thể nhân loại cảnh giác. Hai tác giả này đã coi Trung Quốc là “kẻ thù” ngay trong cuốn sách của họ với những dòng chữ công khai như sau: “Tất cả chúng ta đều phải sử dụng đa ngôn ngữ trong thế giới ngày nay, nhưng chúng ta sẽ rất thiển cận nếu trong thế kỷ 21 mới mẻ này, nhiều trường Trung học các cấp vẫn tiếp tục bắt học sinh chọn ngoại ngữ Pháp và Đức mà không mở lớp học tiếng Quan Thoại. Trong thực tế, tiếng Quan Thoại nên được dạy bắt đầu ở bậc tiểu học. Đây là một trường hợp trong đó chúng ta đã gặp kẻ thù và đó chính là hệ thống trường học.” (Nhà xb. Pearson, 2011, bản dịch Trần Diệu Chân, Việt News, 2012, tr. 320).

        Trong cuốn Người Hoa tại Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy viết: “Bản thể Trung Hoa được gắn liền với truyền thống Nho giáo. Nho giáo là nền tảng căn bản giáo dục Trung Hoa, theo đó mỗi người đều có một bổn phận phải thi hành: con phải sống theo đúng đạo làm con, cha mẹ phải sống đúng cương vị làm cha làm mẹ, gia trưởng phải xử sự đúng theo vai trò gia trưởng, bang chúng cư xử đúng cương vị bang chúng… Thêm vào đó, triết lý Nho giáo luôn đề cao những gương Hiếu, Đễ, Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, triết lý này được truyền tụng từ đời này sang đời nọ đã trở thành một đặc tính: truyền thống bảo vệ văn hóa Trung Hóa.” (Paris, 1993, trang 172).

        Nhìn chung lại, chính trị mang tính cách nhất thời (sự lên xuống của một triều đại), nhưng văn hóa là muôn thuở (đạo hiếu, lòng trung thành chung thủy, tình liên đới bạn bè, tình gia tộc v.v…) cho dù có muốn như họ Mao, quyền hành như đảng CSTQ cũng không thể tiêu diệt được.

        32.- Tiếng Hán Việt và nỗ lực xây dựng tinh thần độc lập “giữ thơm quê mẹ”.      

        Cuốn sách của tác giả Thái Gia Kỳ đã có một ưu điểm trỗi vượt các sách viết trước đây như cuốn “Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt” của Vũ Thế Ngọc, cuốn “Ngôn ngữ Việt Nam” của Lê Thái Ất, hay cuốn “Chính tả Việt ngữ” của Lê Ngọc Trụ trong phần tìm hiểu về địa danh Trường An và tiếng Trường An mà ông cho là nơi xuất phát của tiếng Hán Việt và ông đã dành nhiều trang nói về vấn đề Trường An. Nhà thơ Đỗ Phủ đã viết một bài thi về Trường An cốt để diễn tả sự thay đổi của kinh đô Trường An sau một đợt đổi thay một triều đại, rất giống với trường hợp của Sài Gòn sau ngày 30-4-1975, nghĩa là tình trạng thay ngôi đổi chủ của vùng đế đô này. Bài thi như sau:

                         Văn đạo Trường An tự dịch kỳ

                         Bách niên thế sự bất thăng bi

                         Vương hầu đệ trạch giai tân chủ,

                         Văn vũ y quan dị tích thì.

                         Trực bắc quan san kim cổ chấn,

 西                        Chinh tây xa mã vũ thư trì.

                         Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,

                         Cố quốc bình cư hữu sở ti.

 

                              Thu hứng

                       Nghe nói Trường-An tựa ván cờ,

                       Trăm năm thế sự đáng buồn chưa?

                       Vương-hầu nha-thự người thay mới,

                       Văn-võ y quan kiểu khác xưa.

                       Phía bắc quan hà chiêng trống dậy,

                       Bình tây xe ngựa hịch lông đưa.

                       Cá rồng lặng lẽ sông thu lạnh,

                       Nước cũ lòng ta luống ngẩn ngơ.

                                      (Vô-danh dịch)

 

        Trong cuốn sách của mình, ông Thái Gia Kỳ đã vượt qua các tác giả trước đây khi nỗ lực đặt ra cho mình nhiều công tác phải nghiên cứu đối với tiếng Hán Việt như định nghĩa, do lai của nó, vai trò chính trị văn hóa của cố đô Trường An qua các triều đại của Trung Quốc nhất là đi sâu vào nghiên cứu về tiếng Trường An với nhiều chuyến đi điền dã công phu để thực hiện được hàng trăm bảng so sánh phát âm giữa tiếng Việt với tiếng Tàu, tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên hoặc tiếng Hán Việt với tiếng Trường An, tiếng Quan Thoại và tiếng Quảng Đông, tìm ra những tương đồng trong cách diễn đạt tư tưởng và trong tiếng nói hằng ngày giữa chữ Hán, tiếng Hán Việt và tiếng Việt (từ tr. 78 đến tr. 115). Thật là một cố gắng rất đáng thán phục của một người có khả năng về ngoại ngữ. Ngoài ra ông cũng trình bày thêm cho độc giả biết lối “phiên thiết” vốn là yếu tố quan trọng giữ được sự thống nhất trong cách phát âm chữ Hán. Tuy vậy, phần quan trọng nhất có lẽ là chương II nói về tương quan trong phát âm giữa tiếng Hán Việt và các phương ngôn chính Trung Quốc mà theo tôi tác giả đã để nhiều công nhất trong việc lập thành khoảng 60 bảng so sánh chia làm bốn cột chữ Hán/Hán Việt, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tràng An.

        Trong cuốn sách đã được nhắc tới ở trên, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy có viết: “Cũng chính vì không muốn bị đồng hóa với bản thể Trung Hoa mà các quốc gia thuộc văn minh Trung Hoa đã sáng chế ra chữ viết riêng mặc dù vẫn lấy Hán tự làm căn bảnNhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam là những quốc gia thuộc ảnh hưởng của văn minh văn hóa Trung Hoa nhưng không muốn sử dụng chữ viết Trung Hoa.” (Paris, 1993, tr. 169).

        Trong tác phẩm Văn Minh Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên đã nhận định về tiếng Hán Việt như sau: “Kết quả sự tiếp xúc lâu dài của tiếng Trung Hoa và tiếng Việt là tạo ra một ngôn ngữ văn học mới, khác với tiếng Việt nhưng cũng không phải hoàn toàn là ngôn ngữ viết cổ điển của Trung Hoa, mà ta gọi là ngôn ngữ Hán-Việt. Chưa thể xác định được những tính cách chủ yếu của thứ ngôn ngữ này. Dù sao, các nhà nho nước ta cũng để lại những tác phẩm bằng chữ Hán-Việt có cảm hứng, có thi vị thanh tao và sự việc phong phú hơn hẳn các tác phẩm bằng tiếng Việt. Có những tập thơ hoặc văn vần, những hồi ký, biên niên, sách pháp điển, sách lễ nghĩa, văn bia… Ông Lê Thước viết rằng, hầu như chỉ riêng các tác phẩm đó cũng đã là tất cả gia tài trí tuệ của người Việt.” ( Nguyễn Văn Huyên, Sách đã dẫn, trang 284).

        Với cuốn Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Lê Thành Khôi đã viết như sau: “ Như trong các thời kỳ trước, văn chương bằng chữ Hán bao gồm các biên niên sử các triều đại, các tiểu luận, các truyện kể và các công trình thi ca. Ngoài ra, người ta còn thấy xuất hiện những loại hình mới: sự phê phán lịch sử, trình thuật và cả những công trình kỹ thuật (y học)… các công trình nghiên cứu của các tác giả tư nhân…các công trình giải thích Kinh Dịch, Kinh Thư… Trong một số câu chuyện, tình yêu được đạt lên trên hết thậm chí trở thành một lý thuyết sống.” (Lê Thành Khôi, Sđd, tr. 344).

        33.- Chữ Quốc ngữ, những dặm dài đã qua và con đường trước mặt.

        Bốn thế kỷ trước đây, loại chữ dùng mẫu tự La tinh để viết tiếng Việt được gọi là chữ Quốc-ngữ do sáng kiến và công lao bền bỉ của các nhà truyền giáo người Pháp, Bồ Đào Nha mà danh dự được nhắc đến đầu tiên là Linh mục Alexandre de Rhodes, LM Francesco di Pina, LM Buzomi, LM Christopho Borri v.v…  Trong cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ, chúng ta đã thấy tác giả chịu khó viết về các giai đoạn phát triển của chữ Quốc ngữ, các phong trào vận động của chữ Quốc ngữ… trong đó có đề cập đến Hội Truyền bá chữ Quốc Ngữ. Sách viết: “Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ là một hội hô hào, cổ vũ, vận động nhân dân toàn quốc học chữ Quốc ngữ. Thành lập năm 1938, với hội trưởng là ôngNguyễn Văn Tố, cùng với sự tham gia của các trí thức yêu nước như Vũ Đình Hòe và sự tham gia, chủ đạo “đằng sau bức màn” của các đảng viên Cộng sản Việt Nam như Đặng Thái Mai, Bùi Kỷ v.v…” (tr. 252). Thật ra câu này chỉ đúng một nửa. Trong thời gian 1937-38 có nhiều nhóm trí thức Việt Nam thuộc nhiều thành phần trong đó có Đại Việt, Việt Quốc, Duy Dân, Dân Xã v.v… đã cố xin phép lập ra một hội tư để giải quyết nạn mù chữ nhưng không được chính quyền Đông Dương cho phép. Cuối cùng nhờ vận động với các yếu nhân trong Mặt Trận Bình Dân tại Pháp mà họ có được giấy phép hoạt động dành cho một hội có tên Hội Truyền Bá Học Quốc Ngữ mà hội trưởng là cụ Nguyễn Văn Tố (1889-1947) là người giỏi tiếng Pháp và là nhân viên của Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, chủ nhiệm tạp chí Tri Tân. Cụ Nguyễn Văn Tố được người Pháp tin tưởng và cụ Trần Trọng Kim cũng được người Pháp hy vọng có uy tín để giữ cho phong trào không đi tới những việc làm cực đoan. Hội có trụ sở ở một trường tư thục do Võ Nguyên Giáp dạy (Trường Thăng Long) và Võ Nguyên Giáp mà Giáp lúc bấy giờ là con đỡ đầu của Louis Marty, chánh mật thám Pháp, làm phó thủ quỹ cùng một nhóm 15 người khác trong đó có tên như Đặng Thái Mai, Tôn Thất Bình, Trần Văn Giáp… Hội tổ chức các lớp học đầu tiên từ Tháng Chín 1938 có khoảng 400 người ghi danh tuổi từ 6 đến trên 30.. Tháng Giêng 1939  tại Hà Nội có khoảng 1,300 người ghi danh, lan tràn ra Hải Phòng, lên Việt Trì rồi bành trướng vào Huế với sự tiếp tay của Tôn Quang Phiệt lúc bấy giờ đang điều hành Trường Thuận Hóa ở Huế. Người Pháp lúc bấy giờ cũng thấy khuynh hướng Cộng Sản trong một vài người lãnh đại Hội này nên đã loại trừ bớt sau Tháng Chín 1939. Khi Pháp bị Đức chiếm đóng trong Thế Chiến 2, chính quyền Pháp tại Đông Dương vẫn cho Hội Truyền Bá Học Quốc Ngữ hoạt động mục đích là để người Việt Nam chú trọng vào nền văn hóa quốc gia vốn cũng phù hợp với các quyền lợi chính trị của người Pháp và cũng để tách rời khỏi vòng ảnh hưởng của chủ nghĩa Thịnh Vượng Đại Đông Á của người Nhật. Tháng Bảy 1944, một đại hội của Hội Truyền Bá Học Quốc Ngữ được tổ chức tại Hà Nội với khoảng 700 thành viên tham dự đại diện cho các cơ sở toàn quốc. Mười hai tháng sau đó, Hội công bố tổng kết có 1,971 giáo viên tình nguyện và có 59, 827 học sinh theo học, có khoảng 175,000 cuốn vần Quốc-ngữ được in ra và phát cho người đi học. (David Marr, Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945, University of California Press, 1981, tr. 180-181). Những con số ấy tuy chỉ là những con số khiêm tốn nhưng cũng nói lên quyết tâm học chữ Quốc ngữ của người dân Việt Nam.

        Ở đoạn dưới ông Thái Gia Kỳ viết: “Đây là hội tiền thân của Phong trào Bình dân Giáo dục, mà sau này hoạt động rất mạnh trong vùng kháng chiến chống Pháp. Những người bên “Quốc gia” hay những người sống ở vùng “Pháp thuộc”và sau này là Việt Nam Cộng Hòa, ít biết đến phong trào Bình dân Học vụ này. Thực sự thì trong thời gian kháng chiến chống Pháp, phong trào Bình dân học vụ đã đóng góp thành tích to lớn trong sự nghiệp xóa nạn mù chữ cho nhân dân Việt Nam, không những cho nhân dân các vùng đồng bằng mà cho cả các dân tộc miền núi ở miền Bắc và miền Trung” (trang 253).

        Thật ra, người ta dù ở đâu cũng biết hay nghe nói đến phong trào Bình dân Học vụ do Hồ Chí Minh quyết định thành lập (Nha Bình dân học vụ) với hai sắc lệnh 19/ SL và 20/SL kí ngày 8/9/1945 ở Hà Nội, lúc bấy giờ 95% dân VN còn mù chữ. Cuối năm 1946, Bộ Quốc gia Giáo dục  báo cáo có 74, 975 lớp  và 95,665 giáo viên. Năm 1948, 6 triệu người thoát nạn mù chữ; năm 1952 con số đó lên 10 triệu người. (Tài liệu lấy trên mạng). Tuy nhiên những con số trên đây cũng không có gì chắc chắn, bởi lẽ những khó khăn do cuộc chiến tranh Việt-Pháp gây ra từ ngày 19/12/1946 cho đến khi kết thúc với hiệp định Genève năm 1954 nên cho dù những lớp học Bình dân Giáo dục có xúc tiến trong các khu vực Việt Minh kiểm soát như tường thuật của ông Thái Gia Kỳ cũng là để biết như là một chuyện “dật sự” cho vui thôi. Trong những vùng do người Pháp kiểm soát, tại các thành phố, việc học hành vẫn cứ được tổ chức từ năm 1947 đến 1954 theo chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn cho học sinh tiểu học, trung học và tú tài (I và II), và các trường Đại Học vẫn tiếp tục mở ở Hà Nội và Sài Gòn, không bị gián đoạn khi có giải pháp Bảo Đại rồi cứ thế phát triển thời Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, phong phú và đa diện chứ không ở các vùng VM kiểm soát gọi là “vùng giải phóng” thiếu thầy, thiếu trường và thiếu mọi tiện nghi khác.

        Trong phần ở trước, tôi có trích cuốn hồi ký của Đức Giám Mục Phao-lô Lê Đắc Trọng nói về sự tôn kính “chữ thánh hiền”, nhưng đối với các ông thầy đồ là những người dạy chữ Nho thì sao ? Xin đọc một đoạn hồi ký cũng của tác giả này viết như sau: “Chữ Nho thì được kính là thế, song người dạy chữ Nho thì không phải lúc nào cũng được kính trọng đâu… Song có lúc người ta cũng khinh dể thầy đồ. Tại sao? Vì có những thầy đồ tham lam, hà tiện, câu nệ, thiên về việc kiếm tiền hơn là dạy chữ. Người tỉnh Nghệ An làm thầy đồ đi dạy rải rác các vùng, các tỉnh rất nhiều, nên đã có tên “thầy đồ Nghệ”. Rồi khi chữ quốc ngữ ra đời, người nhà Nho khinh dể chữ quốc ngữ quá bình dân, tầm thường, thấp hèn, nên chỉ thích hợp với đám dân thường, không thâm thúy như chữ Nho dành cho bậc thượng lưu, trí thức. Người thích chữ quốc ngữ lại coi nhà Nho là lạc hậu, câu nệ, cố chấp, nhiều lúc khinh dể những người thông Nho và coi là hủ Nho. Không biết có phải vì thế mà dân gian đặt ra bài hát đầy vẻ khinh dể thầy đồ. Lời hát này được lấp vào điệu nhạc uy nghi hùng tráng của bài quốc ca nước Pháp, bài Mác-xây-e (Marsellaise): Allons, enfants de la patrie, le jour de gloire est arrivé.

        Thầy đồ ngày xưa quen nuôi móng tay dài quần trễ tai hồng, Lọ lem mực son. Đầu thì lúc lắc tựa như lên đồng được mấy trẻ ghẻ lở quá hủi phong quát lấy điếu mang bình phóng bưng cơi trầu. Nhai đi nhai lại mấy chữ: nhân chi sơ người chưng trước……Móng tay đầy ghét, gãi lưng. Bật toành toạch…” (trang 17).

        Cũng như sau ngày 19-8-1945, sau khi Việt Minh cướp chính quyền tại Hà Nội, dân gian đem bài Tiến quân ca tức quốc ca của CS đổi lời thành ra : “Đoàn quân tàu ô đi, sao mà gớm thế, đem ghẻ hờm sang lây cả người Việt Nam…”

        Ở trang 255, ông Thái Gia Kỳ gán cho nội Trần Trọng Kim là một nội các bù nhìn, cũng giống như chính phủ Uông Tinh Vệ (1940-1945) ở Đông Bắc Trung Quốc khi Nhật ủng hộ thành lập Mãn Châu Quốc.

        Thật ra gán ghép và so sánh vậy là không đúng bởi vì mặc dù cũng là do Nhật Bản lập nên nhưng Uông Tinh Vệ vốn là người phản bội lại Tưởng Giới Thạch mà đào thoát sang phía quân xâm lược Nhật Bản, tình nguyện làm tay sai cho Nhật Bản để muốn cạnh tranh tính hợp pháp với chính phủ của Tưởng Giới Thạch, trong khi chính phủ Trần Trọng Kim đứng ra là để bù lấp một khoảng trống chính trị (political vacuum) sau khi Nhật Bản lật đổ chính quyền Pháp sau sự kiện ngày 9 tháng 3 năm 1945. Cụ không phản bội ai mà cũng chẳng cạnh tranh với ai khi ra tham chính giúp nước theo lời mời của vua Bảo Đại. Chính trong cuốn hồi ký Một cơn gió bụi, cụ Trần viết: “Sau thấy có người, hoặc vì tuyên truyền, hoặc vì không biết rõ thực nói: Chánh Phủ Trần Trọng Kim là một chánh phủ bù nhìn, ý nói là chúng tôi ra làm việc để bọn Nhật sai khiến. Tôi dám cả tiếng bác lời nói đó.” (Nhà xb. Vĩnh-Sơn, 1969, tr. 95).

        Cụ Trần còn kể thêm: “Lúc đầu người Nhật có ý muốn đòi khi chính phủ Việt Nam có làm việc gì quan hệ, phải hỏi trước Tối Cao Cố Vấn có thuận mới được làm. Tôi bác đi, viện lẽ việc nội trị là việc chúng tôi, lẽ nào lại phải xin phép rồi mới được làm. Người Nhật đã đứng vào địa vị cố vấn, khi nào có việc hệ trọng, chúng tôi sẽ cho biết là đủ. Lúc ấy cũng được ông Yokohama là người thạo việc ngoại giao và am hiểu tình thế, nên mọi việc đều được êm ái và ổn thỏa.” (Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, trang 96).

        Những tác giả Việt Nam ở hải ngoại như Vũ Ngự Chiêu, Lê Xuân Khoa cũng đánh giá rất cẩn trọng về nội các của cụ Trần Trọng Kim, thậm chí còn phản bác lại luận điệu gán ghép tính cách bù nhìn cho cả Hoàng đế Bảo Đại nữa (Phạm Cao Dương, Đế Quốc Việt Nam, Nhà xb. Truyền Thống Việt, 2017, tr. 130).

        Ở trang 247, sau phần viết về “sự đóng góp của Phạm Quỳnh” đáng lẽ tác giả Thái Gia Kỳ phải viết thêm vào đó công trạng của nhóm Đông Dương Tạp Chí do các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục là những thành viên cốt cán đã viết đều đặn từ đầu đến cuối.

        Về Nguyễn Văn Vĩnh, nhà văn Vũ ngọc Phan cho rằng ông này vẫn là người giữ giải quán quân trong số những sách chữ Pháp dịch ra quốc văn đến nay. Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine, dịch “Truyện trẻ con của Perrault”, hài kịch của Molière, nhất là bộ truyện Mai-nương Lệ-cốt (Manon Lescaut của Abbé Prévost) mà ông Vũ Ngọc Phan cho là “thật không dịch hay hơn được.” Truyện “Ba người ngự lâm pháo thủ” (24 quyển), hai bộ Miếng da lừa và Những kẻ khốn nạn cũng là những danh tác văn dịch khiến tên tuổi Nguyễn Văn Vĩnh còn lại đến ngày nay.

        Sau Nguyễn Văn Vĩnh phải kể đến Phan Kế Bính là người chuyên giữ mục “Hán văn” trong Đông Dương Tạp Chí chuyên dịch các tư tưởng các văn hào, các triết gia ở Tàu trong các cuốn sách Chiến quốc cổ văn, Liệt Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử , và những chuyện rút ở Tình sử, Kim cổ kỳ quan, Tiền Hán Thư v. v… Người ta thường nhắc đến Phan Kế Bính với tập Việt Hán văn khảo, bản Tam Quốc Chí diễn nghĩa, tác giả quyển Việt Nam phong tục, biên dịch hai quyển sách rất giá trị là Hưng Đạo đại vương và Nam Hải dị nhân. Vũ Ngọc Phan khen Phan Kế Bính “là nhà văn xuất sắc nhất, và về lượng, ngoài Nguyễn Văn Vĩnh ra, ông là người viết nhiều hơn cả. Ông là người thận trọng cây bút, nên văn ông rất đều.” (Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập một, Nhà xb. Khoa học Xã hội, 1989, tr. 57).

        Tiếp đến là Nguyễn Đỗ Mục nổi tiếng với phong cách dịch truyện Tàu ra quốc văn, qua những tác phẩm như Song Phượng kỳ duyên, Tái sinh duyên, dịch tiểu thuyết Sans famille của Hector Malot từ tiếng Tầu ra quốc văn, Tây sương ký, Đông Châu liệt quốc. Ông cũng là người biên tập một quyển sách có giá trị là quyển Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải, và dịch bộ Khổng Tử gia ngữ, Khổng Tử tập ngữ… Cả ba đều tạo tiếng thơm chung cho nhóm Đông Dương Tạp Chí.

 

        IV.- NHƯ PHẦN KẾT TỪ.

        Sau hết, khi bàn về tiếng Việt, tác giả Thái Gia Kỳ đã quên một chủ đề khá quan trọng đó là khả năng chuyển ngữ của tiếng Việt ở đại học mà chúng tôi xin nhắc trong phần kết từ này. Tinh thần của đại học là tinh thần tự trị và sự dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở đại học nói lên tính khai phóng của một nền giáo dục trong phạm trù quốc gia mang tính văn hóa giáo dục và kỹ trị.

        Trong lãnh vực văn hóa giáo dục chúng ta đọc lại những lời của Francisque Vial viết năm 1939 than phiền về việc dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ trong các trường Đông Dương rằng: “Chúng ta hãy thú nhận rằng chúng ta chưa làm được gì hết hay chỉ mới làm được tí chút thôi trong việc thiết lập một nền học vấn hữu hiệu cho Đông Dương, bao lâu chuyển ngữ của nền học vấn đó chưa phải là tiếng mẹ đẻ (của người Đông Dương). Chúng ta thử tưởng tượng xem nền học vấn chính quốc chúng ta sẽ ra thế nào, nếu người ta đem dùng tiếng Nga chẳng hạn để dạy cho trẻ em Pháp. Thế mà tiếng Nga còn ít khác tiếng Pháp hơn nhiều khi so sự khác nhau giữa tiếng Pháp và tiếng Việt hay tiếng Mên. Hỏi bao giờ đến cái thời kỳ trong đó chương trình Trung Học Đông Dương sẽ gồm những môn có tính chất Viễn đông với chuyển ngữ là ngôn ngữ Đông Dương, và tiếng Pháp chỉ còn giữ một địa vị giống như địa vị của tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, trong chương trình giáo dục chính quốc chúng ta… Một khi đã dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ, các bài sẽ dạy bằng Việt ngữ, các bài nghiên cứu sẽ bằng Việt ngữ, nhờ đó, chẳng những nền quốc học được dồi dào thêm, mà văn hóa còn có thể phổ biến mau chóng, rộng rãi hơn, vì số người có thể đọc được và dùng làm món ăn tinh thần sẽ đông đảo hơn.” (Nguyễn Phương, Phương Pháp Sử Học, Phòng Nghiên Cứu Sử, Viện Đại Học Huế, 1964, tr. 210).

        Trong lãnh vực chính trị, chúng ta đọc thấy quan điểm của Ngô Đình Nhu (tức Tùng Phong) trong cuốn Chính đề Việt Nam về vấn đề chuyển ngữ như sau: “Công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương đặt ra nhiều nhu cầu, trong đó, vấn đề chuyển ngữ là một điểm rất quan trọng. Vấn đề này đã được mang ra làm đề tài thảo luận trong rất nhiều cơ hội. Chủ trương dùng ngoại ngữ cũng được nhiều người tán thành như chủ trương dùng Việt ngữ. Lấy sinh ngữ nào để làm chuyển ngữ, trong các ngành giáo dục chính danh và giáo dục quần chúng? Những người chủ trương nên lấy ngoại ngữ lập luận rằng, nếu muốn Tây phương hóa thì phải Tây phương hóa cho đến nơi và phải rút cho hết cái tinh túy của Tây phương. Như vậy chỉ có ngoại ngữ mới giúp chúng ta đạt mục đích đó: Việt ngữ không đủ phong phú trong danh từ, và không đủ khả năng diễn tả các lý luận khúc chiết và các tư tưởng trừu tượng siêu thoát. Nhưng những người chủ trương như vậy quên rằng, một công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương như trên chỉ có thể thực hiện được cho một thiểu số của cộng đồng, và đã như vậy thì, như chúng ta đã biết, sẽ không giải quyết được được vấn đề của cộng đồng. Những người chủ trương lấy Việt ngữ làm chuyển ngữ, lại lập luận rằng quần chúng là trọng. Nếu công cuộc Tây phương hóa không phổ biến đến được đại chúng, thì công cuộc đó kể như đã thất bại. Và như chúng ta đã thấy, lập luận của họ là đúng. Đã như thế thì chỉ có Việt ngữ mới giúp cho chúng ta đạt mục đích trên. Nhưng, những người chủ trương như vậy lại quên rằng, tất cả các kho tàng kiến thức, liên hệ đến kỹ thuật Tây phương, mà sự thâu thập đối với chúng ta đã là một vấn đề thiết yếu và mất còn, tất cả các kho tàng đó, đều nằm trong ngoại ngữ. Nếu chúng ta không dùng ngoại ngữ một cách rộng rãi và đến một mức độ tinh vi, thì vấn đề thâu thập kỹ thuật không làm sao thực hiện được.” (Ngô Đình Nhu, Sách đã dẫn, tr. 148).

        Cũng trong phần kết này, ở trang 184,  sau khi đưa ra 60 bảng so sánh công phu đó, tác giả Thái Gia Kỳ viết những dòng in đậm: “Bây giờ còn có mức độ giống nhau như vậy, huống hồ chi là một ngàn, hai ngàn năm trước, làm sao chúng không “thực sự” giống nhau được? Đó chính là lý do mà cha ông ta nói là “Tiếng Hán Việt có lẽ xuất phát từ Trường An vậy”.

        Chính tác phẩm của ông Thái Gia Kỳ, nhất là những câu trích đây đã giúp tô đậm thêm giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam mà chúng tôi đã được thụ giáo tại Trường Đại Học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm Viện Đại Học Huế, cách đây 57 năm.

        Trong tác phẩm có tên Việt Nam thời khai sinh, Linh mục Nguyễn Phương, Giáo sư Sử học thuộc Viện Đại Học Huế từ 1957 đến 1975, đã chủ trương rằng người Việt Nam là con cháu của người Trung Hoa di cư sang cổ Việt từ thời Triệu Đà, khác với các luận thuyết cho rằng người VN là con cháu của người Lạc Việt, hay như Bình Nguyên Lộc dựa trên giả thuyết của Linh mục Souvignet chủ trương người Việt từ đảo Mã Lai lên. Bằng các chứng minh dựa trên khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học, Linh mục sử gia Nguyễn Phương chủ trương rằng đất nước Việt Nam từ trước đã có nhiều giống người đến sinh cư, từ người sơ thủy đến người sơ khai (cách nay hàng trăm nghìn năm), rồi đến các giống Anh-đô-nê-diêng, Mê-la-nê-diêng, Mông cổ… Trung Hoa, Chàm v.v… từng nhấn mạnh rằng người Lạc Việt là chủ nhân văn hóa Đông Sơn hoàn toàn không có liên hệ gì đến người VN cả. Cuốn sách của tác giả Thái Gia Kỳ hôm nay đã cho chúng tôi một suy nghĩ khi nhớ đến giả thuyết của sử gia Nguyễn Phương về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Sau khi nhắc đến những tương đồng về nhân chủng giữa người Trung Hoa và Việt còn có nhiều tương đồng khác không kém phần quan trọng như tương đồng về phong tục, về tập quán, về tôn giáo, tác giả Nguyễn Phương viết:

          Ngôn ngữ cũng là một khía cạnh cần phải nhắc đến, và đây nữa, sự tương đồng cũng rất rõ rệt. Hầu như có thể nói được rằng tiếng Việt Nam ngày nay, sau mười thế kỷ độc lập, vẫn còn là chính tiếng Tàu nhưng đọc lên một cách hơi khác với các cách đọc của những tiếng địa phương ở Trung Quốc. Cố nhiên, trong Việt ngữ, đôi khi có xen vào một số những tiếng không phải gốc Tàu, như tiếng Mọi, tiếng Chàm, nhưng hiện tượng đó không thể nói lên gì khác, ngoài sự người Việt Nam trên đường bành trướng, đã có gặp người Mọi, người Chàm, cũng một cách như họ đã gặp người Pháp trong thế kỷ vừa qua, và họ đã thâu nhận một số tiếng Pháp vào trong kho ngôn ngữ của họ.

        Người ta có thể nói chữ nôm là thứ chữ riêng của người Việt Nam. Thực ra, chữ nôm chỉ làm chứng một cách hùng hồn hơn rằng tiếng Việt rất lệ thuộc tiếng Tàu, bởi vì tiếng dùng và nghĩa tiếng đã giống của người Trung Hoa, mà còn phải dùng những yếu tố của văn tự Trung Hoa để phiên diễn cách đọc hơi riêng của mình. Đàng khác, chữ nôm đâu có phải có trước khi người Tàu đến, mà chỉ mới xuất hiện mấy trăm năm sau khi người Việt Nam đã có một nền chính trị riêng. Cho nên, người ta rất có thể nói được rằng cách đọc riêng, thường được kể là đặc tính của Việt ngữ đó, mới xuất hiện sau khi quốc gia đã sống đời sống biệt lập, còn về trước, những người (sau nầy sẽ thành người Việt Nam) ở cổ Việt, cũng nói một tiếng như người Trung Quốc. Và người ta phải nói thế, một khi đã làm chứng được rằng người Việt Nam ngày nay là người Trung Quốc di cư sang đây trong thời Bắc thuộc.” (Phòng Nghiên cứu Sử, Viện Đại Học Huế, 1965, tr. 230).

        Tóm lại, cuộc hành trình của ngôn ngữ Việt Nam từ chữ Hán đến tiếng Hán Việt, chữ Nôm và tiếng Việt rồi chữ Quốc ngữ vốn là những chặng đường gian nan, vất vả vượt qua thời gian hơn hai nghìn năm do công trình xây đắp, tu bổ, điểm xuyết của cả một dân tộc trong đó có sự tham gia góp công của nhiều vị thừa sai và học giả ngoại quốc vốn lấy dân tộc, đất nước ta làm quê hương, xứ sở để “sống gửi nạc, thác gửi xương”. Chúng ta trân quý tiếng tiếng Hán Việt, chữ Việt, chữ Quốc ngữ trong tinh thần “uống nước nhớ nguồn” với ý thức bảo lưu và làm trong sáng gia tài ngôn ngữ để truyền lại cho con cháu về sau. Đây cũng là bài học đầu đời với tiếng mẹ ru và cũng là câu hát, tùy theo từng tôn giáo, tiễn đưa ta về chốn an giấc ngàn thu.

 

                                                   NGUYỄN ĐỨC CUNG, 

                                                     Philadelphia 01-5-2019.


Không có nhận xét nào: