Thứ Hai, 4 tháng 8, 2025

Chữ Nghĩa Làng Văn - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

            Chữ Nghĩa Làng Văn

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng 


“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phi Ngọc Hùng.


***


Chữ nghĩa thời xưa


Chiếu = lời vua ban cho thần dân. 
Biểu = bài văn của thần dân dâng lên vua để bầy tỏ điều gì. 
Sớ = tờ điều trần dâng lên vua.


Chữ là nghĩa 

Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối

(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao, thành ngữ)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ 

Không có cuộc tình nào khó

Chỉ sợ mình không liều

Đạp xe và quốc bộ

Quyết chí ắt được yêu


Khoa trương trong ca dao của người Việt


Em mà không lấy được anh

Thì em tự vẫn gốc chanh nhà chàng

Hay

Rửa bát ngủ gật cầu ao
Ngủ trưa chồng gọi kêu tao nhức đầu


Qua các ví dụ trên, các tác giả đã sử dụng “tự vẫn” và “ngủ gật” là những động từ để biểu thị khoa trương. Tuy nhiên, những động từ này đơn thuần không có nghĩa khoa trương, mà chúng chỉ có nghĩa khoa trương khi được đặt trong ngữ cảnh ở chi tiết: “tự vẫn ở gốc chanh” và ngủ gật ở cầu ao.

(Nguyễn Ngọc Kiên)


Góp nhặt cát đá

100 năm trước ta còn chưa gặp

100 năm sau biết gặp nhau không

Cuộc đời sắc sắc không không

Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau


Tản mạn về tiếng Việt 

Cười

cười tươi, cười tươi như hoa, cười hề hề, cười hô hố, cười mím chi, cười nụ, mỉm cười, cười vang, cười rộ, cười toe tóet, cười tình, cười làm duyên, cười trừ, cười xả lả, , cười chua chát, cười nhẫn nhục, cười tít mắt, cười cầu tài, cười đểu, cười mỉa mai, cười chế diễu (Cười người chớ có cười lâu, Cười người hôm trước, hôm sau người cười), cười mếu máo, cười gằn, cười nhếch mép, cười khềnh khệch, cười như nắc nẻ, cười sặc sụa, cười sằng sặc, cười khúc khích, cười như pháo rang


Nói lái trong văn học với Bùi Giáng

Bài "Trong bàn chân đi" của Bùi Giáng đầy dẫy những chỗ nói lái nhưng thật khó mà hiểu được :
Có mấy ngón
Năm ngón
Mười ngón
Món người
Non ngắm
Nắm ngon


Việt Nam Sử Lược

Quan điểm của những người theo chủ nghĩa Mác xít không có thiện cảm với Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Nhà văn Đào Xuân Quí tập kết ra miền Bắc ghi lại việc học môn lịch sử  thời còn bé tại Trường Tiểu học Pháp- Việt Ninh Hòa :

 

“…Còn sử Việt thì học rất sơ sài, chủ yếu là dựa vào quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, bị xuyên tạc đi rất nhiều” 


Với quan điểm “bị xuyên tạc” cho nên Việt Nam Sử Lược không được xuất bản ở miền Bắc, nên việc muốn tiếp cận Việt Nam Sử Lược rất khó khăn.

Theo lời ông Mai Khắc Ứng kể vào thời điểm cuối năm 1962: “Thầy Đặng Huy Vận đã lôi dưới đáy rương ra cho tôi mượn cuốn sách mà thầy Vượng khuyên tôi tìm đọc. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thời đó là sách cấm. Phòng đọc hạn chế của Thư viên Quốc gia ở số 31 đường Trường Thi cũng không ló ra” . 


(Nguyễn Văn Nghệ)


Bùi Giáng vẽ tranh

Đọc xong bài báo vừa dẫn, bản thân tôi lấy làm phân vân. Phải chăng tại nước ta hiện có khoảng 10 - 15 tranh bút chì, bút sắt của người sáng tạo Lá hoa cồn? Và tranh màu của Bùi Giáng thì chỉ còn Chân dung lở dở là tác phẩm duy nhất ở Việt Nam ư? 


Bởi trước đó, ngay tại Sài Gòn, tận mắt tôi đã được xem hàng loạt tranh nguyên bản của Bùi Giáng, cả tranh đen trắng (bút chì, bút bi, bút mực, v.v.) lẫn tranh màu. Và ngay trước khi viết những dòng này vào dịp cận Tết Nhâm Ngọ 2002, đích thân tôi thử kiểm tra lại, đủ để khẳng quyết: riêng tính tranh màu của Bùi Giáng thì tại Việt Nam hiện còn không chỉ một bức. 

Bùi Giáng vẽ gì? Nhiều nhất ắt là bao hồng nhan mà ông thường xuyên réo gọi từ thôn nữ nhu mì đến cô em mọi nhỏ cho tới Thúy Kiều, Thúy Vân, Marilyn Monroe, Brigitte Bardot, và cả... nữ hoàng Cléopâtre. Bùi tiên sinh cũng ký họa những nhân vật mà ông gặp, ông quen, hoặc ông thương, ông nhớ: nào ca sĩ Hà Thanh, nào thiền sư Trí Hải, nào Kim Cương nương tử, v.v. 

Ngộ nghĩnh và độc đáo là các bức tự họa, chẳng hạn bức Tự họa mà chơi vẽ vời cho tốt đẹp!! 



                                                            

Em về giũ áo mù sa

Trút quần phong nhụy cho tà huy bay

Bùi Giáng tự họa

                                               

(Phanxipăng)


Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam

Nhưng cái đĩa bàn đựng chén trà sau những lần di chuyển, lại phơi bầy những mảnh vụn ngổn ngang. Trong khi vợ tôi loay hoay vá lại những mảnh vỡ, tôi tò mò ngắm nhìn những họa hình trong lòng đĩa và trên thành chén, mấy cái chữ Tầu ở trôn đĩa và chén có vẻ giống nhau, và bảy chữ Hán in trên một cái chén quân lạc điệu chắc hẳn là một câu thơ, tôi chợt tự hỏi không biết cái xuất xứ của các vật nhỏ nhắn, xinh đẹp và cổ xưa này. 


Nhân có một người bạn trẻ thông thạo chữ Hán, tôi vội vã gói cái ấm đất và bộ chén trà đến nhờ anh đọc dùm. Anh cho tôi biết đôi điều về cái chất đất sét đặc biệt có trộn cát ở huyện Nghi Hưng vùng Giang Tô, nơi đã sản xuất những ấm trà Thế Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần. Tôi độ chừng những cổ vật này cũng đã có số tuổi trên dưới hai thế kỷ, đã được nâng niu nhẹ nhàng của dòng họ Nguyễn Tuân, và một ngày nào đã xa, cụ tú Hải Văn Nguyễn An Lan đã ngồi uống trà, khề khà kể những chuyện vang bóng một thời cho người con cả tài hoa, đã mang trong người dòng máu giang hồ như một chứng tích của gia đình, Nguyễn Tuân.


Nguyễn Tuân, một người cầu kỳ và khinh bạc, Thạch Lam, một người trầm lặng và khó tính, tôi vẫn không hiểu hoàn cảnh nào đã đưa hai người văn sĩ của hai dòng bút pháp khác biệt đến với nhau. Giữa tháng sáu năm 1940, Thạch Lam viết bài phê bình cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân trên báo Ngày Nay, ắt hẳn cái giao tình giữa hai người không phải chỉ đếm bằng những lần gặp gỡ.  


Rồi ba mốt năm sau, năm 1973, Nguyễn Tuân đề tặng Thạch Lam bài tùy bút Giò Lụa của mình và một tháng sau viết về Cốm, phải chăng sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, ông chợt động lòng nhớ đến người bạn xưa của Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường. Cái ấm đất và bộ chén trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam, cuối cùng, như hai người tri kỷ, chính là chứng cớ lặng lẽ cho một tình bạn âm thầm mãi mãi giữ kín ở trong lòng.

(Nguyễn Tường Giang)


Thạch Lam mất sớm vì bệnh lao, để lại ba con. Người con đầu là gái tên Dung sau lấy trung tướng Ngô Quang Trưởng. Người con trai thứ nhất là Nguyễn Tường Đằng học Luật. Người con trai út là nhà thơ bác sĩ Nguyễn Tường Giang. *


(Nguyễn Tường Giang – tranh Đinh Cường)


Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

“xa: kiêu xa. → không viết: sa”. (GS.Nguyễn Văn Khang)

Viết “sa” không sai. Vì ngoài “kiêu xa 驕 奢 nghĩa quen thói kiêu xa.”, còn có “kiêu sa đẹp một cách sang trọng, đẹp kiêu sa.”.

(Hòang Tuấn Công)


Những trăn trở tháng Tư - 1

Nguyễn Thị Thanh Bình: Nếu chỉ một lần cần quay lại cuốn phim Hà Nội vứt bỏ Hiệp Định Đình Chiến Paris, để mang danh nghĩa Giải Phóng Miền Nam, giữa đôi mắt “quan sát” ráo hoảnh của Liên Hiệp Quốc, liệu bạn còn nhớ cảm giác hụt hẫng mất mát, khi cả nhà cùng mở đài phát thanh nghe tin T.T Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng kéo cờ trắng buông súng? Cảm giác sững sờ tê điếng ấy nếu có thử hỏi có giông giống cảm giác lặng người bên vỉa hè MN Sài Gòn chan hòa nắng đẹp của nhà văn Dương Thu Hương, vì chợt nhận ra chiếc mặt nạ tuyên truyền dối trá của cách mạng giải phóng?

 

Thật tình hình ảnh vẫn còn ghi đậm trong tâm trí của bạn về Ngày 30/4 là gì? Bạn có chứng kiến cảnh những người lính VNCH cởi quân phục vất đầy đường, hay đại khái những âu lo tang thương khi “đàn bò vào thành phố” như câu nhạc bất ngờ của Trịnh Công Sơn? Nếu bạn cũng “bất ngờ” thuộc diện “Bên Thắng Cuộc” thì ngày 30/4/1975 bạn có nhớ mình đang làm gì, và khung cảnh, không khí cũng như cảm giác tưng bừng hoa lá như thế nào ở Miền Bắc lúc đó. Đặc biệt khi nghe báo tin trên đài cuộc chiến đấu thần thánh chống Mỹ đã cáo chung và Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng Miền Nam từ đây anh em một nhà?


(Nguyễn thị Thanh Bình phỏng vấn Hòang Hưng)


Hoàng Hưng sinh năm 1942 tại Hưng Yên. Tên khai sinh Hoàng Thụy Hưng. Dạy học rồi làm báo. Chuyển vào Sài Gòn sống từ 1977. Bị bắt và tập trung cải tạo (từ tháng 8/1982 đế hết tháng 10/1985) vì cầm tập bản thảo Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm và cất giữ những phác thảo thơ của mình trong nhật ký.

 

Trở lại nghề báo năm 1987, về hưu năm 2003, viết bài và biên tập các trang mạng talawas.org, đồng sáng lập Ban Vận động Văn đoàn Độc lập VN và trang mạng vanviet.info Hiện sống tại Sài Gòn, Vũng Tàu


Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả

“xuất: khinh xuất. → không viết: suất”. (GS.Nguyễn Văn Khang)

Viết “suất” mới đúng, “khinh” 輕 = xem nhẹ; “suất” 率 = không thận trọng. Hán ngữ đại từ điển: “khinh suất: nói năng hành động tuỳ tiện; không thận trọng, không nghiêm túc”

(Hòang Tuấn Công)


Những trăn trở tháng Tư - 2

Hòang Hưng: Hầu như năm nào, dịp 30/4 tôi cũng nhớ lại giây phút kỳ lạ, khó tin ấy! Có lẽ chỉ có thể lý giải: trong thẳm sâu lòng người Hà Nội lúc ấy đều chán ngán hết mức cuộc chiến kéo dài quá lâu, đồng thời cũng mông lung một sự tiếc rẻ nào đó cho Sài Gòn – một hình ảnh gần gũi với Hà Nội trước ngày “giải phóng” 1954??. Nghĩa là, một cách vô thức, nhiều người thầm cảm giống như tôi thầm nghĩ một cách ý thức!


Tại sao tôi coi Sài Gòn là “chút hy vọng cuối cùng của tự do”? Nói thẳng, tôi không hề tin là miền Nam có thể “Bắc tiến, giải phóng miền Bắc”  Nhưng có lẽ… tôi nghĩ đến một cách mơ hồ, tình trạng 2 miền, một khi chấm dứt chiến tranh theo Hội nghị Paris, cứ “thi đua hoà bình”, giống như Nam-Bắc Triều, Tây-Đông Đức, thì đến lúc nào đó, sẽ rõ rành rành “ai thắng ai” trên “mặt trận xây dựng kinh tế xã hội”! Tất nhiên đó chỉ là ảo tưởng, khi một bên quyết “xẻ dọc Trường Sơn” và vẫn có tiếp trùng trùng súng đạn của “phe ta”, bên kia thì nát bươm vì kẻ địch chui sâu vào trong nội địa và… trong nội bộ, cả vì tự xâu xé, lại bị “phe ta” good-bye!


(Nguyễn thị Thanh Bình phỏng vấn Hòang Hưng)


Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả

xuất: thống xuất. → không viết: suất”. (GS.Nguyễn Văn Khang)

Viết “suất” mới đúng. Vì “suất” 率 có nghĩa là dẫn đầu, chỉ huy

(Hòang Tuấn Công)



Chữ nghĩa đường văn ngõ chữ


Trần Vũ: Trên Talawas, Phạm Thị Hoài từng tin ngôn ngữ cần cọ sát cho vỡ ra các vấn đề. “Dẫn nhập” trên, chính là vì sau này Hoài ít viết hư cấu mà tập trung vào thể tiểu luận với những đề tài gai góc chính trị, giáo dục, văn hóa… Một Phạm Thị Hoài đã không cần “đi thực tế”, không cần “nghiệm thu trên thực địa” mà vẫn có thể phân tích các vấn đề của quê hương sau hai thập niên vắng mặt, với cảm quan và bằng mỹ quan của một nơi khác.


Phạm Thị Hoài: Ở Đức cuối thế kỷ 19 có một nhà văn tên là Karl May, sống ở vùng quê hẻo lánh, chỉ xê dịch trong phạm vi đường kính 300 km thuộc địa phận bang Saxony ngày nay. Ông ấy chỉ biết tiếng Đức, một thứ tiếng Đức tầm thường, và cũng không học hành, nghiên cứu gì nhiều. Cứ ngồi nhà viết hàng ngàn trang tiểu thuyết du ký, đầu tiên chỉ ngập ngừng qua Sa mạc Sahara, Xích Hải, Thổ Nhĩ Kỳ, Kurdistan, Iran, Iraq, các nước vùng Balkan, sau trót lọt vọt sang tận Bắc Mỹ, và trở thành một trong những nhà văn Đức được đọc và dịch nhiều nhất trên thế giới, tác phẩm phát hành đến hàng trăm triệu bản. 


Thanh thiếu niên Đức bây giờ đa số không biết Karl Marx là ai, nhưng Karl May thì chắc chắn biết. Tôi chưa bao giờ đọc nổi một trang của ông ấy, nhưng một trong những tác gia Đức mà tôi quan tâm là Arno Schmidt lại nghiên cứu nhà du hành tại chỗ này rất kỹ, tuy không phải để khen ngợi. Thế giới da đỏ made in Saxony rất Kitsch đó cho thấy là tác giả của nó không cần phải đầu cài lông mông quấn khố gì cả. 


Mà đó là thời bản đồ còn vẽ tay.



Chữ nghĩa làng văn

Có mối liên hệ giữa nàng Tiểu Thanh lấy lẽ họ Phùng ở Tây Hồ và Hồ Xuân Hương lấy lẽ Cai Tổng Cóc. Rồi câu đầu: Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư. Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh Ký với câu: Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa, trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn của Hồ Xuân Hương. Thì ra năm 1804 Nguyễn Du làm tri phủ Thường Tín, vợ mất, tìm về Cổ Nguyệt Đường, mong gặp Hồ Xuân Hương để nối lại duyên xưa, thì Hồ Xuân Hương đang làm lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà. Nên Nguyễn Du đứng bên song cửa Cổ Nguyệt Đường viết bài Độc Tiểu Thanh Ký gửi Hồ Xuân Hương.


Giáo Sư Võ Thu Tịnh ở Paris, tác giả nhiều sách giáo khoa miền Nam. Giáo Sư Võ Thu Tịnh tra Tự Điển Thiều Chửu và các tự điển khác: Tố là tơ trắng, là người phẩm hạnh cao quý. Vậy thì câu: Bách tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như, chỉ có nghĩa: Ba trăm năm lẽ nữa, thiên hạ ai người khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh.


Vì vậy Tố Như phải chăng không phải là bút hiệt của Nguyễn Du?



Ai là người dịch Chinh phụ ngâm

Bà Đoàn Thị Điểm không dịch Chinh phụ ngâm ra chữ Nôm?

Mặc dù tên bà Đoàn Thị Điểm nay được dùng đặt cho nhiều con đường, nhiều trường học trên cả nước với ý nghĩa để tưởng nhớ một nữ sĩ, người đã viết tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng nhưng oái oăm thay... có lẽ bà Đoàn Thị Điểm không phải là người viết bản Nôm Chinh Phụ Ngâm như người ta vẫn tưởng.


Sách Tang Thương Ngẫu Lục của Nguyễn Án và Phạm Đình Hổ viết vào đời Gia Long, tức là sau sách Đăng Khoa lục sưu giảng đến nửa thế kỉ. Sách có truyện “Bà vợ thứ ông Nguyễn Kiều” kể như sau: “Bà vợ thứ ông Hạo Hiên Nguyễn Kiều là Đoàn Thị Điểm, người đất Giang Bắc, nguyên là em gái ông Tỉnh Nguyên Đoàn Luân. Bà nổi tiếng là người văn học...”.

Truyện kể đến đây lại lặp lại giai thoại hai câu đối của anh em bà Điểm, y như Trần Tiến đã kể trong Đăng Khoa Lục Sưu Giảng, chỉ có khác ở chỗ là có thêm chi tiết mới: “Ông Đặng Trần Côn mến tiếng, đưa bài thơ đến để xin được vào thăm. Bà cười mà rằng: Cậu học trò mới học ấy, bõ gì nói chuyện. Ông Đặng tức giận trở về, cố chí mài giũa sự học. Sau trở nên bậc danh sĩ.

Vậy là cả hai truyện trên đều không hề nói là bà Đoàn Thị Điểm đã diễn nôm Chinh Phụ ngâm khúc. Hai truyện có nhiều chỗ giống nhau, nhất là giai thoại đối đáp giữa hai cặp anh em có tên giống nhau (Luân – Điểm).





(1) Đăng Khoa lục sưu giảng         (2) Tang Thương ngẫu lục

(Thư viện Quốc gia. Bản chụp của nomfoundation)


Quả là chuyện li kì: sách Đăng Khoa Lục Sưu Giảng của Trần Tiến một thượng thư đời Lê, chép chuyện bà Nguyễn Thị Điểm là em ông Nguyễn Trác Luân như sau:

Nguyễn Trác Luân người làng Bình Lao, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Năm 22 tuổi đỗ Hoàng Giáp khoa Quý Hợi, niên hiệu Bảo Thái (triều vua Dụ Tôn nhà Hậu Lê). Ông là một danh sĩ thời bấy giờ. Em gái ông là bà Nguyễn Thị Điểm thông minh chẳng kém gì ông, rất giỏi nghề làm văn, khi ông chưa đỗ, có một hôm ông rửa chân dưới ao, thấy em gái đang soi gương đánh phấn, ông đọc luôn một câu rằng “Chiếu kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm”. Bà Điểm có viết cuốn Truyền kỳ tân lục...

(Nguyễn Cẩm Xuyên)


(1) Đăng Khoa Lục Sưu Giảng của Trần Tiến viềt Nguyễn Thị Điểm.

(2) Tang Thương Ngẫu Lục của Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ với Đòan Thị Thị Điểm.



Vì sao nhiều người mang họ Nguyễn

Việc đổi họ trở thành một thông lệ của người Việt thời cổ đại. Cứ mỗi khi một triều đại mới được thay thế thì một số những người mang họ của triều đại trước phải sửa thành họ Nguyễn. Trong lịch sử Việt Nam, đã từng có nhiều sự kiện như vậy khiến số người mang họ Nguyễn đã nhiều lại càng nhiều hơn. 

- Khi Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, ông đã giết hại rất nhiều con cháu họ Trần. Vì thế, sau khi nhà Hồ sụp đổ, con cháu của họ Hồ vì sợ trả thù nên họ đổi sang họ Nguyễn. 

- Năm 1592, nhà Mạc suy tàn, con cháu của dòng họ Mạc cũng lại đổi họ sang Nguyễn. - Khi triều đại nhà Nguyễn nắm quyền năm 1802, một số con cháu họ Trịnh cũng vì sợ trả thù nên lần lượt đổi hết họ sang Nguyễn. 


Đên triều đại nhà Nguyễn, vì số người mang họ Nguyễn từ Đàng ngòai (theo Nguyễn Hòang) vào Đàng trong không nhiều nên những người mang họ Nguyễn được hưởng nhiều đặc lợi. Vì thế các tội nhân (hay tù binh của chú Trịnh) cũng theo đó đổi họ sang Nguyễn nhằm tránh bị bắt tội, để hưởng thêm ân sủng. Đồng thời các chúa Nguyễn cải họ người Miên, người Chàm sang họ Việt, trong đó có họ Nguyễn.


Vào thời cổ đại, dân chúng ở tầng lớp thấp bình dân thường không mang họ. Vào thế kỷ 19, khi Việt Nam trở thành thuộc địa của người Pháp, lần đầu tiên người Pháp có cuộc kiểm kê dân số khắp Việt Nam. Trong quá trình thống kê họ gặp phải một vấn đề phiền phức đó là: Rất nhiều người dân ở tầng lớp thấp bình dân đều không có họ. Người Pháp liền nghĩ ra một cách, triều Nguyễn chẳng phải là triều đại cuối cùng của người Việt sao, vậy những người không có họ đó để họ đều mang họ Nguyễn. Dòng họ này, bởi thế lại được mở rộng chưa từng có thêm một lần nữa. 

(Kiên Định /ĐKN)


Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt 

Tất cả những động tác sinh lý về Đệ-tam-khoái và Đệ-tứ- khoái đều là tiếng ta. Về điểm nầy, có một hiện tượng ngộ nghĩnh lắm. 

Chúng tôi nói rằng phương ngữ (dialecte) của các vùng ở Trung Hoa đều biến mất hết, chỉ còn phương âm (prononciation provinciale) mà thôi, nhưng những chuyện bí mật sinh lý thì các địa phương còn dùng danh từ "man di" của họ hồi cổ thời. Triết-giang, Phước-kiến, Quảng-đông, và Việt Nam, mỗi xứ mỗi giữ đúng tiếng cổ chỉ những việc đó. Người Trung Hoa đời Hán bắt các "man di" học đủ thứ, nhưng không dám đá động tới những cái đó, nên thổ ngữ các vùng mới còn sống sót cho tới ngày nay. 

Thí dụ, việc đại tiện, Quảng đông nói là Ói xỉ, Mân Việt Bắn Xoái, đều không phải do Quan-thoại Tá Pél mà ra.


(Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)



Bài thơ Con Cóc qua nhận định 

nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc

Mặc Lâm: Thưa anh ngoài vấn đề anh vừa nêu là yếu tố tồn tại với thời gian, yếu tố điển hình đã làm bài thơ Con Cóc được để ý còn có yếu tố nào thuyết phục hơn chẳng hạn như âm thanh, kết cấu, từ vựng hay thậm chí sự thô tháp của bài thơ?


Nguyễn Hưng Quốc: Nếu chúng ta đọc bài thơ con cóc thật chậm, đọc từ từ một cách nhẹ nhàng, sâu lắng thì chúng ta sẽ dần dần phát hiện ra bài thơ có nhiều cái hay cái đặc sắc lắm. 

Những đặc sắc này thể hiện qua nhiều phương diện từ kết cấu, từ vựng cũng như nhạc điệu...

(Mặc Lâm, phóng viên đài RFA)


Tên Hà Nội - 1

Đời Tây Sơn đóng đô tại Phú Xuân gọi Thăng Long là Bắc Thành. Năm 1831 Minh Mạng thứ theo nhà Thanh tiến hành đợt cải cách (bỏ huyện, phủ cũ đổi thành quận, tỉnh), xóa bỏ Bắc Thành gọi là tỉnh Hà Nội nghĩa là phía trong sông. Vì thực tế Hà Nội được bao quanh bởi hai con sông Hồng và sông Đáy. 


Hà Nội gồm bốn phủ đó là: phủ Hoài Đức (Thọ Xương, Từ Liêm, v.v.), phủ Thường Tín (Thanh Trì, v.v.), phủ Ứng Hòa (Thanh Oai., v.v.), phủ Lý Nhân (Bình lục, v.v.). Như vậy, Hà Nội lúc đó gồm thành phố Hà Nội, nửa phía đông Hà Đông và toàn bộ tỉnh Hà Nam, nằm kẹp giữa hai sông Hồng và sông Đáy. 
(1000 Năm Thăng Long - Hà Nội Tô Hoài, Nguyễn Vinh Phúc)


Khoa cử thời xưa




Năm 1139, vua Lý mở khoa “thi Đình” ở ngay cung điện nhà vua.

Năm 1246, nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi gồm 3 người đỗ đầu trong kỳ thi Đình: Trạng nguyên, Bảng nhãn, và Thám hoa.

Những người con lại gọi là Thái học sinh. Vì vậy những khoa thi này còn có tên là khoa thi Thái học sinh hay khoa Tam trường.

(Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội - Bùi Xuân Đính)



Tên Hà Nội - 2

Có người cho rằng chữ Hà Nội lấy từ câu sách Mạnh Tử (Thiên Lương Huệ Vương)"Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ túc ư Hà Nội"  (Hà Nội bị tai họa thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ Hà Đông về Hà Nội). 


Nguyên ở bên Tàu thế kỷ thứ III tr.CN phía bắc sông Hoàng gọi là đất Hà Nội, phía nam là Hà Ngoại. Vùng đất Hà Nội ấy nay ứng với tỉnh Hà Bắc. Lại do sông Hoàng khi tới địa đầu tỉnh Sơn Tây ngày nay thì chạy theo hướng Bắc-Nam, trở thành ranh giới của hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Sơn Tây ở phía Đông sông Hoàng nên thời cổ có tên là Hà Đông, còn Thiểm Tây là Hà Tây. 

(1000 Năm Thăng Long - Tô Hoài, Nguyễn Vinh Phúc)



Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 1

Chiến tranh 

Bộ mặt của lịch sử Trung Hoa, không phải chỉ ngon lành nào Hồng Lâu Mộng, nào Tây Du Ký, Tứ Đại Giai Nhân, thi thánh thi bá… Bộ Đông Châu Liệt Quốc ghi lại 400 năm loạn lạc, cho thấy mạng dân đen (Hoa cũng như Việt) như bèo: Tề Hiếu Công chôn sống hơn hai trăm nội thị và cung nhân trong mồ của cha mình. Mồ của Tần Mục Công táng theo 177 người. Ngô vương Hạp Lư đánh bẫy hơn một vạn nam nữ để tuẫn táng cho con gái. Không hiếm những người tỉnh táo, lệnh doãn Tôn Thúc Ngao di chúc “Dân nước Sở ta khổ vì việc chiến tranh đã lâu, chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được an nghỉ”. Nếu chúa công nghe lời can gián, nước Sở chắc không bị Tần diệt, và bộ mặt địa lý/chính trị của nước Trung Hoa có thể đã khác. 

Chiến tranh/nạn đói thời An Lộc Sơn cũng được ghi lại trong 1.500 bài thơ của Đỗ Phủ, nổi tiếng thi hào mà không cần chạy theo chéo áo giai nhân [4] . An Lộc Sơn đánh vào Trường An, Đường Huyền Tông chạy trốn, Dương Quí Phi thắt cổ.
Lăng mộ của Tần Thuỷ Hoàng cần tới 70 ngàn người xây cất, con số chôn sống không rõ. Nhà văn Hàn Tố Âm, dù gia đình khá giả ở Bắc Kinh (cha người Bỉ, mẹ người Hoa) cũng nhắc lại điều khủng khiếp ám ảnh bất cứ đứa trẻ Trung Hoa nào: chiến tranh và thiên tai “ba năm liền không có một giọt mưa”. Dân chết đủ kiểu.. Ai còn đi được, đều cố đứng dậy hay lết bằng đầu gối. 


(Trần Thị Vĩnh Tường)



Gối đầu lên sử tre gỗ mít

Theo thống kê trong Lịch Sử VN, tập I,
1. Dân Việt ở thời điểm 180 trước TL, có khoảng 600.000 nguời.

Thật ra, có hơi khó… đếm, vì lúc đó biên giới các “nước” chưa phân định. Triệu Đà phân bì với sứ giả nhà Tần “Nè, thấy đằng kia không, đám “loang hoang quốc chỉ có 2000 mạng ở trần hết ráo, mà cũng xưng vua”.
2. Thời Hai Bà, năm 40, dân Giao Chỉ khoảng 635.498 nguời.
3. Thời ĐinhTiên Hoàng- Lê Đại Hành (980-1005), dân Đại Cồ Việt khoảng 2 triệu.
4. Thời bắt đầu nhà Lý, niên đại 1054, dân Đại Việt khoảng 2.200.000. 
6. Thời Lê Thánh Tông, 1460-1497, khoảng 4 triệu. (Đàng Trong)
7. Đàng Ngoài, năm 1750 co 4 triệu. Đàng Trong khoảng 1.5 triệu.
8. Năm 1900, dân số VN khoảng 22.600.000 nguòi.
9. Năm 1962, miền Bắc 17 triệu người. Miền Nam 14.275.000.
Năm 2008, dân Việt khoảng 83 triệu.


Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 2

Dân Sở thuộc chủng gì? 

Dù Kinh Dương Vương là một người thật, hay chỉ là một biểu tượng trong truyền thuyết Hồng Bàng, cũng đều là một pha trộn hai giòng máu Âu và Lạc.  Đây là cốt lõi của truyền thuyết: 

Hai chi Âu-Lạc sống chung ở vùng Động Đình Hồ. Cùng dắt díu nhau di tản, và đoạn cuối 

Buồn hơn bất cứ chuyện tình nào: Âu-Lạc phân ly. Thế kỷ 14, tác giả Lĩnh Nam chích quái ghi tất cả biến cố bi tráng trên vào mươi hàng đặt tên “Truyền thuyết Hồng Bàng”. Thời bây giờ, không chắc có cây bút nào có thể viết ngắn/nhiều ý nghĩa đến vậy. 


Độc giả có thể kiểm chứng bằng nghiên cứu hay đọc những nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử, thì thấy từng chi tiết của truyền thuyết vẫn còn in dấu trên tình trạng đa sắc tộc và sự hoà huyết, hỗn hợp ngôn ngữ của cư dân có mặt trên mảnh đất Việt Nam. Lịch sử dựng nước của các quốc gia châu Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nhật, Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam,… đều có những điểm giông giống nhau: hỗn loạn, chia cắt, đánh chiếm, tận diệt, lấn đất, di cư, hoà huyết… 

(Trần Thị Vĩnh Tường)


Tiểu sử

Quê ngoại ở Hưng Yên. Hiện ngụ cư tại California


Tác phẩm

Bao Giờ Cho Quên, Gửi Về Em, Mùa Thu Hà Nội, 

Ba Sinh Hương Lửa


Xe kéo, xe tay


Năm 1884 trú sứ Bonnal cho nhập từ Nhật 2 chiếc djinn rickshaw (xe kéo bằng tay), Xe kéo bằng tay (gọi tắt là xe kéo, xe tay) của Nhật hình dáng ra sao? 


Bác sĩ Hocquard sang Việt Nam, ở trong thành Hà Nội, Hocquard có chụp 2 tấm ảnh trước toà trú sứ của Pháp ở phố Hàng Gai, Hà Nội. Hai tấm ảnh này được khắc in trong sách của Hocquard (1) và sách của André Masson. 


(1) - Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa,1999.


(Nguyễn Dư)


Văn hóa... hủ tíu cà phê

Cho đến năm 1937, dấu vết của tiệm Đức Thành Hưng vẫn còn trong lời tự thuật của nghệ sĩ Mười Út từc Trà Ôn cùng bạn bè rủ nhau lên Sài Gòn chơi, vào tiệm ca hát với nhau. Nơi đây cũng là nơi lui tới của nghệ sĩ Năm Cần Thơ thời gian đó. Tiệm này ở đường Lê Thánh Tôn, bên hông chợ Bến Thành cùng tiệm Đức Thành Hưng ngang chợ Bà Chiểu dần dà trở thành nơi vừa ăn uống vừa nghe đàn ca tài tử, thi thố cổ nhạc.

Những tiệm hủ tíu cà phê Đức Thành Hưng không biết khi nào ngưng hoạt động? Người biết chuyện như cô ba Thoại Anh đã ở tuổi tám mươi cũng không trả lời được câu hỏi ấy. Khi cô lớn lên, không còn nghe người lớn nhắc đến cái tên Đức Thành Hưng. Có thể chuỗi tiệm ngưng hoạt động từ năm 1945, là năm có nhiều biến động xã hội ở thành phố này do chiến tranh.

(Phạm Công Luận) *


Tiểu sử: * Phạm Công Luận, bút danh Phạm Lữ Ân. Sinh năm 1961 tại Sài Gòn

Quê nội Quảng Bình, hiện ở Phú Nhuận. 

Tác phẩm: Nếu Biết Trăm Năm Là Hữu Hạn - Trên Đường Rong Ruổi - Sài Gòn Chuyện Đời Của Phố 1, 2, 3 & 4


Thành ngữ xuất xứ từ thơ cổ và điển cố

Vẽ rắn thêm chân


Thành ngữ 画 蛇 添 足 [họa xà thiêm túc] (Vẽ rắn thêm chân) có xuất xứ từ câu chuyện như sau: 

Thời xưa nước Sở có một quý tộc, sau khi cúng lễ tổ tiên, liền thưởng cho các môn khách đến giúp việc một ấm rượu. Các môn khách bàn với nhau: "Một ấm rượu chia cho mọi người cùng uống thì không đủ, một người uống thì có thừa. Vậy thì chúng ta cùng thi vẽ một con rắn trên mặt đất, ai vẽ xong trước, thì người đó được uống ấm rượu này."
Có một người vẽ xong trước nhất. Anh ta cầm ấm rượu định uống, nhưng lại đắc chí lấy tay trái cầm ấm rượu, tay phải tiếp tục vẽ rắn, miệng nói: "Các người xem, ta còn có thời gian để vẽ thêm mấy chiếc chân cho rắn đây."
Thế nhưng không đợi anh ta vẽ xong chân rắn, một người khác đã vẽ xong rắn. Người đó giằng lấy ấm rượu vừa cười vừa nói: "Rắn làm gì có chân, anh vẽ thêm chân cho rắn làm gì", nói xong liền uống rượu trong ấm. Người vẽ thêm chân cho rắn đã để mất ấm rượu đáng lẽ thuộc về anh. (Theo Chiến quốc sách)

Người Việt mượn thành ngữ này dịch sang tiếng Việt là “vẽ rắn thêm chân” để chỉ những việc làm thừa, vô ích. Cùng với vẽ rắn thêm chân thì vẽ rồng thêm mắt cũng có nghĩa tương tự.  


(Nguyễn Ngọc Kiên)


Chù ụ 4 món  

Chù ụ có nhiều cách chế biến khác nhau, tùy biến chế của đầu bếp. Thông thường người ta sẽ chế biến chù ụ thành 4 món: nướng, luộc, hấp bia và cầu kỳ hơn chút là chù ụ rang me. Vỏ chù ụ rất giòn, nếu thích bạn có thể ăn luôn vỏ với thịt. Đặc biệt, vào tháng 2 - 3 Âm lịch là mùa chù ụ “cốm”, tức là khi chù ụ lột vỏ, thịt trở nên thơm ngon và béo ngậy, bạn có thể thưởng thức cả con mà không phải bỏ cái gì.

 Chù ụ hấp bia hay luộc nước dừa ăn tươi chấm muối tiêu chanh là món đơn giản nhất mà vẫn rất ngon. Món nấu đơn giản này giúp giữ lại hương vị mặn mòi của món ăn dân dã của miền quê ven biển, vị ngọt của từng thớ thịt chù ụ.

Chù ụ nướng lại khiến thực khách không thể cưỡng lại mong muốn được thưởng thức ngay vì mùi thơm cực kỳ cuốn hút. Cái ngon của chù ụ nướng là những chiếc càng giòn rụm, thịt chắc và ngọt khiến bạn nhấm nháp hoài không chán. 

              

Để làm món chù ụ rang me, người ta cần làm cho chù ụ sạch rồi cho vào chảo dầu đang sôi, tiếp đến cho hành tỏi vào xào cho đến khi nào bốc mùi thơm phức mới cho nước cốt me vào, nêm nếm vừa ăn. Vị chua của me và vị ngọt, béo của chù ụ hòa quyện vào nhau tạo thành một mùi vị thơm ngon đậm đà. Để thưởng thức vị ngon trứ danh của món chù ụ ở Trà Vinh, bạn nên ăn kèm với rau răm, dưa leo... chấm với muối tiêu chanh hoặc muối ớt xanh. Vị ngọt của thịt chù ụ quyện cùng mùi thơm của rau gia vị và vị mặn mà cay nồng của muối tạo nên món ăn lạ miệng, khiến bạn càng ăn càng ghiền.


Đọc truyện & Xem phim “Bác sĩ Zhivago”

Truyện sau đó đưa vào nhân vật Larisa Fyodorovna (Lara) một nữ sinh trung học, sống với bà mẹ góa. Bà là tình nhân của Komarovsky, một luật sư rất có thế lực chính trị. Chính ông là “người tình” của người mẹ nhưng cũng chính ông ta là kẻ hiếp dâm cô con gái. Trong cơn tủi nhục, Lara lấy súng bắn Komarovsky tại một buổi tiệc giáng sinh nhưng không may lại bắn trúng một người khác. Lara sau đó kết hôn người tình đầu của mình là Pavel Pavlovich (Pasha), người tham gia cách mạng và sau đó bị mất tích.


Kế đến truyện dẫn vào thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Yuri tòng quân với nhiệm vụ của một bác sĩ quân y trong khi Lara tình nguyện làm y tá với hy vọng tìm kiếm tông tích chồng. Yuri và Lara người gặp nhau và cả hai đều bị “cú sét ái tình” trong hoàn cảnh trớ trêu của từng người.


Đây cũng là giai đoạn phong trào cách mạng chống Sa Hoàng nổi dậy tại Petersburg. Chương 5, “Vĩnh biệt cái cũ”, Pasternak mô tả cuộc cách mạng bằng giọng châm biếm:

“Cứ mỗi ngày lại mọc lên đủ thứ chức vụ mới, không biết thế nào là cùng… Họ thay thế các chức vụ trong hội đồng tự quản thành phố, họ làm chính ủy, chính trị viên tại các đơn vị quân đội và sở y tế, và họ coi sự luân chuyển chức vụ đó như một cuộc giải trí ngoài trời hay trò chơi ú tim…”

“Ít lâu sau khi bản Tuyên Ngôn mười bảy tháng Mười được công bố, một cuộc biểu tình lớn được dự tính sẽ đi từ Tver đến cửa ô Kaluga. Sáng kiến ấy đúng là theo cái lối "lắm thầy nhiều ma" như người ta thường nói. Mấy tổ chức cách mạng tham gia đề xướng vụ đó xảy ra cãi cọ nhau và lần lượt rút lui. Đến ngày ấn định, biết tin dân chúng vẫn đổ ta đường rất đông, họ bèn vội vã cử đại diện của mình đi dự biểu tình”.

(Bản dịch của Nhà xuất bản Văn Học, TP SG)

(Nguyễn Ngọc Chính)


Thập niên 30, Sài Gòn lai rai

(quảng cáo bia trên báo xưa)

Loại rượu nổi tiếng nhất được làm bằng hạt bo bo gọi là pai-kan, đôi khi được thêm phụ gia khác nhau tạo mùi thơm, giống như rượu hoa hồng mei-kouei-lou (dịch theo từ “sương-hoa-hồng”), là thứ rượu bo bo trong đó có cánh hoa tầm xuân dại hãm lại. Còn có một loại rượu gạo nữa, được gọi là rượu vang vàng, nồng độ yếu hơn nhiều so với loại trước vì nó được chế, không phải bằng cách cất nhưng bằng cách để lên men. Chẳng may loại rượu này khó xuất cảng vì nó không giữ được lâu, và bây giờ hầu như không còn hiện hữu nữa. Rượu Châu Âu, vốn gợi hương vị, là rượu sherry (rượu thuộc xứ Xérès rất được người Anh ưa chuộng) và khá giống với rượu saké của người Nhật.


Cho dù là bất lịch sự khi không hồi đáp một lời khích bác thách uống, dẫu gì cũng hoàn toàn hợp pháp khi từ chối uống cạn một hơi (kanpei) và (từ chối) chỉ được dùng môi ngậm ly. Khi chủ nhà khư khư khoái điều mà bạn uống cạn ly mình, người ta vẫn luôn luôn yêu cầu một trong những người bạn hiện diện thế chỗ bạn hoặc thay thế bạn gỡ bỏ lời thách thức.


Các loại rượu này rất hài hòa trong bữa ăn Tàu, vốn hơi nhiều mỡ, cần thiết cho việc “làm vài ly” trong bữa ăn. Thiếu các loại rượu vốn khó tìm này, ngày nay người Hoa có thói quen lớn là dùng cognac hoặc whisky không pha. Tuy nhiên vừa ăn vừa uống, whisky hoặc cognac soda, chắc chắn là một sai lầm ẩm thực quái đản dưới mắt họ”.

(Phạm Công Luận)


Tiểu thuyết lịch sử 

Trong văn chương, tôi không ghét gì cho bằng Tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử chỉ có hư cấu. Tác giả xây dựng nhân vất không có thật trên đời. 

Còn một tác giả nói chuyện xưa thật là xưa thì không thể chấp nhận được. Tác giả đây nói Thi Sách họp các đồng chí lại tuyên bố: Thời cơ đã chín mùi để nổi dậy... Thi Sách thất bại... Bà Trưng khởi nghĩa thành công! Những tác phẩm này gọi là Tiểu thuyết lịch sử hay Lịch sử ký sự thì tôi cũng vứt béng vào sọt rác

(Chân Diện Muc)


Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn

Casino Đakao

Chè Hiển Khánh
Trước 75, nêu ai có đến vùng này nhất là đám sinh viên, học sinh lớn ngày xưa chắc đã đến thăm thường thạch chè Hiển Khánh, tiệm này nằm sát Casino Đakao, chuyên bán thạch sợi nhỏ trắng với đá bào, chè đậu xanh nấu đặc, chè thạch đựng trong chén nhỏ, nên đôi khi phải gọi hai chén mới đã.
Qua khỏi Casino Đakao về phía đường Hiền Vương rồi quẹo phải vào Nguyển phi Khanh, nơi đây có một quán cơm tấm bì chả nổi tiếng sau có tiêm bán bún than Như Ý, đặc biệt có dầu cà cuống. Chỉ cần nhỏ môt hai giọt tinh dầu cũng đủ hương vị. 

Nếu ai muốn thử đến tiệm bánh cuốn Tây Hồ trên góc đường Đinh Tiên Hoàng-Huỳnh Khương Ninh. Bánh cuốn nơi đây được làm tại chỗ nên đông khách. Quán Tây Hồ có từ lâu, trước ở trong khuôn viên đền thờ cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh, nên người Đa Kao gọi là Bánh cuốn Tây Hồ. Cũng vậy, tiệm mì nổi tiếng Cây Nhản, lấy tên cây nhản được trồng trong sân rộng dùng làm tiệm mì đối diện với khu trường tiều học Đakao.

Đền đức thánh Trần


Phía đầu đuờng Hiền Vương trước khi đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi Đakao có đền đức thánh Trần. Theo các nhà khảo cổ, công trường Dân Chủ là vùng Mả Ngụy- Mồ chôn tập thể của những người theo Lê Văn Khôi 1833-1835.


Trên đường Mạc Đĩnh Chi còn có Hội Việt Mỹ dạy tiếng Anh từ lớp 1 dén lớp 12 để lấy Certificate of Effiency in English.
Trên đường Nguyển Bỉnh Khiêm có Thảo Cầm Viên và hai trường trung học nối tiếng Võ Trường Toản (nam) và Trưng Vương (nữ).


(Y Nguyên - Mai Trần)


Mắt xanh

Thôi em xanh mắt bồ câu

Vàng tơ sợi nhỏ, xin hầu kiếp sau

(thơ Cung Trầm Tưởng)


Mắt bồ câu xanh đây là mắt cô đầm nào đó mà Cung Trầm Tưởng gặp ở Paris. Cô có mái tóc vàng rất đẹp nhưng kiếp này không lấy được cô đành chờ… kiếp sau vậy.

“Mắt xanh đã vóng câu đồng điệu” của Trần Việt Hoài nghĩ là không gặp được người có mắt xanh, tức không gặp người tri kỷ:

“thanh nhãn nan phùng”, mắt xanh khó gặp.

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)


Ngôi sao Hàn Thuyên

60 năm sống đầy ắp của Nguyễn Đức Quỳnh, bằng một trăm năm của người khác, có những khoảng cách mịt mùng, ấy là một số năm số tháng trống bặt, vô hình tích, chỉ riêng ông biết. Như những đêm đợi sáng bên này bờ sông Đáy, chờ cái nháy mắt nghịch ngợm của định mệnh trên đường chỉ tay, để vượt vòng đai trắng trong mù sương. Những đoạn đời vô hình tích ấy mang hình ảnh hoang đường của những khoảng trời không, mất tăm luôn trong chính cái miệng vực mênh mông không đáy của chúng.


1954. Vào Nam, tôi tìm thăm anh ngay ở tuần báo Đời Mới. Anh ngồi một mình trong căn phòng phía trong, đeo kính trắng, cắm cúi viết trong một không khí cực kỳ đơn độc, bên cạnh một tài liệu kê cứu mở rộng là cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Chúng ta thường kinh ngạc khó hiểu, trước cái bình trí nhớ kỳ diệu của Nguyễn Đức Quỳnh. Trong phần phát biểu cảm tưởng, Thanh Nam đã chia sẻ với chúng ta niềm kinh ngạc này, qua vài đoạn văn nhỏ của Thanh Nam mà anh Quỳnh đã phê bình tức khắc trong lần gặp mặt thứ nhất ở Hà Nội. Nhớ tiếng, nhớ hình. Nhớ những thời gian, những tên người, những cái lớn, những cái nhỏ, nhớ những sự việc tầm thường và cách xa nhất xẩy đến cho một cá nhân này nọ trong khi chính cá nhân đó đã quên. Đó là cõi trí nhớ ngoại hạng của Nguyễn Đức Quỳnh, tinh tế, bén nhạy, không nhầm lẫn cho đến trút thoát hơi thở cuối cùng.

(Mai Thảo)


Tiểu sử : Mai Thảo tên thật: Nguyễn Đăng Quý. Bút hiệu khác: Nguyễn Đăng. Sinh ngày: 8.6.1927, Nam Định. Mất ngày 10.1.1998 tại California, Hoa Kỳ. 

Tác phẩm : Đêm giã từ Hà Nội, Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời, Ta thấy hình ta những miếu đền, Chuyến tàu trên sông Hồng, Mười đêm ngà ngọc



10 câu nói của Tào Tháo

Hãy điểm lại 10 câu nổi tiếng nhất của Tào Tháo được lịch sử ghi chép lại dưới đây:


10 câu nói nổi tiếng nhất của Tào Tháo vẫn còn giá trị cho đến ngày nay


“Thà ta phụ người chứ không để người phụ ta”


***

Tào Tháo gian và ác, chân thành và hồn nhiên trong cái gian, cái ác của hắn. Tào Tháo có cái hùng của hắn, thà ta phụ người không để người phụ ta. Người đời đều nói ta là gian hùng nhưng không làm được gì một kẻ gian hùng như ta. Từ trước tới nay gian xảo như trung hiền, trá ngụy tựa chân thật, trung nghĩa và gian ác đều không thể nhìn thấy được dựa trên biểu hiện bên ngoài. Có thể trước nay các ngươi đã nhìn nhầm Tào Tháo ta nhưng ta vốn không sợ người khác nhìn lầm ta.


(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)


Gỏi đu đủ bò khô

Tôi đã chết mệt với món đu đủ bò khô từ những ngày non dại đó. Cho tới ngày nay tôi vẫn… non dại. Vẫn mê món đu đủ bò khô. Vào nhà hàng nào có bán là tôi ít khi bỏ qua. “Bệnh” này bắt nguồn từ những ngày Hà Nội nhưng nặng thêm từ khi di cư vào Sài Gòn, khi nếm mùi gỏi đu đủ của ông già áo đen trước cửa tiệm nước mía Viễn Đông nơi góc đường Lê Lợi và Pasteur. Thời sinh viên, đậu chiếc xe Goebel hai màu vàng và cam bên lề, anh chàng tuổi trẻ ngày đó nhào vào hàng ông già áo đen, bưng chiếc đĩa nhôm ra ngồi trên yên xe đắm đuối với cái vị mằn mặn, chua chua, cay cay, nồng nồng không thể có trong các món ăn khác. Đĩa gọi đĩa, thường phải ít nhất hai đĩa mới dứt áo ra đi được. Có những ngày nặng túi, hai đĩa còn chưa ra đâu vào đâu, hai đĩa tiếp nữa mới… đủ. Còn tiếc rẻ húp hết nước trong đĩa. 


Anh bạn trẻ tuổi Phạm Công Luận nhắc nhớ tới ông già áo đen của thời đó. “Những anh chị tôi, lứa tuổi nay đã bước vào tuổi 60, 70 rất quen thuộc với hàng bò khô, nay gọi là gỏi khô bò của ông già áo đen bán trên đường Pasteur. Họ vẫn nhớ những buổi chiều chưa tắt nắng của Sài Gòn, tan trường Sư Phạm, trường Luật là phóng xe ra ngay góc ngã tư Lê Lợi – Pasteur, ngồi trên xe gọi mấy đĩa khô bò đu đủ cùng một lúc. Từ xa đã thấy bóng ông khô bò, luôn luôn bận áo đen nên chết tên. Phải canh làm sao để ăn được gỏi khô bò của “ông già chemise noire” hay “ông già áo đen” này dù khu đó có tới bốn người bán gỏi khô bò đu đủ bào. Không mấy ai biết tên gì, chỉ gọi biệt danh như vậy”.


(Song Thao)


***

Phụ đính 


Ai về Bình Định mà... xơi 

Biết tôi chuẩn bị quay lại Bình Định để trực tiếp tìm hiểu chuyện "đệ nhất khoái". Để chẳng những tha hồ thưởng thức dừa mí lị xoài. Ví dụ nem Chợ Huyện quá tuyệt vời trên quốc lộ 1A, ngoài ngã ba Phú Tài một quãng, thuộc thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước - quê quán của nhà soạn tuồng nổi tiếng Đào Tấn (1845 - 1907):

Ai về Vinh Thạnh quê em.
Ăn nem chợ Huyện và xem hát tuồng.


Hay món chả cá thơm phưng phức ở cửa biển Đề Gi:

Ai về, qua cửa Đề Gi,
Ngửi mùi chả cá, chân đi không đành.


Từ đó, bún chả cá trở thành món quà rất đặc trưng của nhiều tỉnh thành duyên hải nước ta. Bún chả cá của Hải Phòng và Đà Nẵng dùng chả cá chiên rán. Còn bún chả cá Quy Nhơn thì phối hợp chả cá chiên với chả cá hấp. Đáng kể nhất là nước ngọt tự nhiên nhờ nấu sứa khô. Gặp đúng mùa, cho vào tô bún ít sứa tươi nữa, càng tuyệt. Rau sống, giá, hành, tỏi, ớt, tiêu càng giúp tô bún thêm thơm, ngon, đẹp. Lưu ý rằng trong nói năng cũng như ghi biển bảng quảng bá, người Quy Nhơn thường tắt hoá bún chả cá thành bún cá.


Sứa, chủ yếu là sứa sen, được định danh khoa học Aurelia aurita L., là một loài nhuyễn thể thuộc ngành Ruột khoang (Cnidaria) sống trong nước mặn được người Bình Định tạo nên món gỏi với những biến thể thú vị. Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thuần rành rẽ:

- Sứa khô và sứa tươi đều dùng làm gỏi được, tất nhiên sứa tươi hấp dẫn đáng


Ở thành phố Quy Nhơn, bún chả cá là món khiến nhà giáo Phạm Hồng Thuỷ - giảng viên Đại học Quy Nhơn - xuýt xoa:

- Các loại cá biển như thu, mối, nhồng, chuồn, hố là nguyên liệu cần thiết để làm nhớ hơn. Có 3 dạng gỏi sứa: gỏi khô là đĩa nộm không hoặc ít dùng dung dịch, gỏi nước ngày nay còn được gọi lẩu sứa, và bún trở thành thức ăn từ sớm tinh mơ đến khuya lắc khuya lơ.

(Phanxipăng)


Phanxipăng có họ tên Trần Ngọc Tĩnh

Chào đời năm Canh Tý 1960 ở thành phố Huế

Cựu sinh viên khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hiện cư trú ở Sài Gòn

Tác phẩm: Vàng Máu (Tiểu thuyết) - Cốt Cách Mùa Xuân (Tập phóng sự) - Sài Gòn Nay (Tập phóng sự) - Huế Chừ (Tập phóng sự)













Không có nhận xét nào: