Góc Việt Thi:
Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Kỳ 3
11. Bài thơ TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ:
送老妾還村居 TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ
無 限 東 風 暖 襲 人,
Vô hạn đông phong noãn tập nhân,
醉 中 扶 起 老 來 身。
Túy trung phù khởi lão lai thân.
慇 懃 報 道 無 他 語,
Ân cần báo đạo vô tha ngữ,
江 館 煙 村 共 一 春。
Giang quán yên thôn cộng nhất xuân.
阮 秉 謙
Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ 送 老 妾 還 村 居 là
Đưa người thiếp già trở về nơi ở cũ trong thôn xóm.
- Vô Hạn 無 限 : là Rất nhiều, là Đầy rẫy cả.
- Đông Phong 東 風 là Gió từ hướng đông thổi đến, tức là Gió
xuân đó.
- Tập 襲 : là Đánh lén, đánh úp (như Tập Công); ở đây có
nghĩa là Thâm nhiễm, là bao phủ quanh, nên NOÃN TẬP
NHÂN 暖 襲 人 là Cái ấm áp ập đến quanh người.
- Phù 扶: là Nâng đỡ, nên Phù Khởi 扶 起 là Đỡ dậy.
- Báo Đạo 報 道 : là Báo đáp lại cái đạo lý giữa tướng công
và tì thiếp.
- Giang Quán 江 館 : QUÁN ở đây là TRÚ QUÁN 住 館 là
Nhà ở, nên GIANG QUÁN có nghĩa là Căn nhà nhỏ ở ven sông.
- Yên Thôn 煙 村 : là Xóm khói, là Xóm trong sương khói,
chỉ Xóm thôn vắng vẻ.
* Nghĩa Bài Thơ :
ĐƯA NGƯỜI THIẾP GIÀ VỀ THÔN
Làn gió xuân tràn ngập làm cho hơi ấm cũng ập đến quanh
người. Trong cơn say, ta đỡ dậy tấm thân già nua của người tì
thiếp. Rất ân cần để báo đáp cho trọn cái đạo làm người, chớ
không nói năng gì khác nữa. Căn nhà nhỏ ven sông trong xóm
thôn vắng lặng như cùng tràn ngập trong mùa xuân.
Đối với những người hầu thiếp ngày xưa khi về già, thường
được chủ nhân (cũng là người đầu ấp tay gối trong biết bao
năm, lắm khi tình nghĩa còn hơn là người hôn phối chính thức
được cưới khi đã hiển đạt) ban cho chút đỉnh tiền bạc, khá lắm
thì thêm được một người hầu để về quê dưỡng già đợi ngày theo
ông theo bà về nơi chín suối. Cụ nguyễn Bỉnh Khiêm đã rất tình
nghĩa và đúng đạo làm người, đích thân đưa người thiếp già về
quê để an hưởng tuổi già cho phải đạo.
* Diễn Nôm :
TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ
Gió xuân ấm áp thổi quanh người,
Say đỡ thân già đến tận nơi.
Trọn đạo ân cần không cắng đắng,
Nhà bên sông vắng đón xuân tươi !
Lục bát :
Quanh người thổi ấm gió xuân,
Trong say đỡ dậy ân cần dìu nhau.
Ít lời trọn đạo trước sau,
Nhà ven sông vắng rạt rào gió xuân !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
12. Hai bài thơ TỰ THUẬT :
自述 (其一) TỰ THUẬT (kỳ nhất)
年 方 七 十 已 休 官, Niên phương thất thập dĩ hưu quan,
重 憶 幽 居 覓 故 山. Trùng ức u cư mịch cố san.
津 館 日 高 眠 未 起, Tân quán nhựt cao miên vị khởi,
青 雲 爭 似 白 雲 閑. Thanh vân tranh tự bạch vân nhàn.
自述 (其二) TỰ THUẬT (kỳ nhị)
得 優 遊 可 便 優 遊,Đắc ưu du khả tiện ưu du,
心 逸 神 閒 日 日 休。Tâm dật thần nhàn nhựt nhựt hưu.
最 愛 五 湖 湖 上 客,Tối ái ngũ hồ hồ thượng khách,
清 風 明 月 一 扁 舟. Thanh phong minh nguyệt nhất biên chu.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Niên Phương 年 方 : Năm khoảng; ở đây chỉ Tuổi khoảng...
- Trùng Ức 重 憶 : là Nhớ lại.
- Tân Quán 津 館 : là Quán ven bờ, có nghĩa: Gian nhà nhỏ
bên bến sông.
- Tranh Tự 爭 似 : Giành nhau để được giống như là...
- Ưu Du 優 遊 : là Ưu tiên du ngoạn, là Du ngoạn một cách
thoải mái.
- Tâm Dật Thần Nhàn 心 逸 神 閒 : DẬT 逸 là Buông thả,
thoải mái. nên TÂM DẬT THẦN NHÀN là Tâm thần buông
thả thoải mái nhàn nhã.
- Nhất Biên Chu 一 扁 舟 : là Một chiếc thuyền mỏng, chỉ
Một chiếc thuyền con.
* Nghĩa Bài Thơ :
TỰ THUẬT
(bài 1)
Tuổi khoảng 70 đã từ quan để về hưu, còn nhớ lại chỗ ở
thanh u vắng vẻ ngày trước nên tìm về núi cũ. Bên bến sông
trong quán nhỏ, mặt trời đã lên cao vẫn còn ngủ chưa dậy.
Mây xanh như tranh đua sự nhàn nhã với mây trắng trên bầu
trời.
(bài 2)
Được vui chơi thảnh thơi thì hãy cứ vui chơi thảnh thơi.
Trong lòng thoải mái thần trí nhàn nhã thì ngày ngày cứ nghỉ
ngơi. Yêu nhất là cảnh của Ngũ Hồ và khách du trên Ngũ Hồ,
cứ thả một lá thuyền con mà thưởng ngoạn trăng thanh gió
mát!
Câu đầu của bài 2 "Đắc ưu du khả tiện ưu du 得 優 遊 可
便 優 遊, làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ trong Tăng Quảng Hiền
Văn là:
遇 飲 酒 時 須 飲 酒, Ngộ ẩm tửu thời tu ẩm tửu,
得 高 歌 處 且 高 歌。 Đắc cao ca xứ thảcao ca!
Có nghĩa :
Gặp lúc uống rượu thì cứ vui chơi mà uống rượu;
Lúc cất cao giọng hát thì cứ hát cho thả giàn !
Còn hai câu sau nối tiếp theo ý của hai câu trên nữa là:
今 朝 有 酒 今 朝 醉,Kim triêu hữu tửu kim triêu túy,
明 日 愁 來 明 日 憂. Minh nhựt sầu lai minh nhựt ưu!
Có nghĩa :
Hôm nay có rượu thì hôm nay hãy uống cho say;
Ngày mai sầu đến thì ngày mai hãy lo toan!
Đã về hưu hưởng nhàn rồi thì phải sống cho thoải mái, xả
láng, không lo nghĩ gì nữa cả!
* Diễn Nôm :
TỰ THUẬT
(bài 1)
Tuổi vừa bảy chục đã về hưu,
Núi cũ tìm về với cựu cư.
Tân quán nắng cao người vẫn ngủ,
Mây xanh mây trắng mãi du du !
Lục bát :
Tuổi vừa bảy chục từ quan,
Nhớ nơi ở cũ cố san tìm về.
Nắng cao nhà vắng ngủ mê,
Mây xanh mây trắng tranh về nhàn du.
(bài 2)
Được lúc thảnh thơi cứ thảnh thơi,
Tâm tình thoải mái ngày ngày vui.
Ngũ Hồ yêu nhất người du ngoạn,
Gió mát trăng thanh thuyền nhỏ bơi.
Lục bát :
Thảnh thơi thì cứ thảnh thơi,
Trong lòng nhàn nhã niềm vui ngày ngày.
Ngũ Hồ du khách nhất đời,
Trăng thanh gió mát thuyền chơi khắp miền.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
13. Bài thơ XUÂN ĐÁN CẢM TÁC :
春旦感作 XUÂN ĐÁN CẢM TÁC
行 年 七 十 四 年 餘, Hành niên thất thập tứ niên dư,
喜 得 投 閒 訪 舊 居. Hỉ đắc đầu nhàn phỏng cựu cư.
歲 始 旁 觀 新 宇 宙, Tuế thủy bàng quan tân vũ trụ,
家 貧 唯 富 舊 詩 書. Gia bần duy phú cựu thi thư.
秀 花 野 竹 三 春 好. Tú hoa dã trúc tam xuân hảo,
淨 月 明 窗 一 室 虛. Tịnh nguyệt minh song nhất thất hư.
誰 是 誰 非 休 說 著, Thùy thị thùy phi hưu thuyết trước
老 狂 自 笑 太 庸 疏. Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ!
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Đầu Nhàn 投 閒 : Dấn thân vào việc hưởng nhàn, như ĐẦU
QUÂN 投 軍 là Gia nhập vào quân đội vậy.
- Phỏng 訪 : là Thăm viếng. PHỎNG CỰU CƯ 訪 舊 居 là
Thăm lại chỗ ở cũ.
- Tuế Thủy 歲 始 : Tuổi bắt đầu, có nghĩa là Đầu năm.
- Tú Hoa Dã Trúc 秀 花 野 竹 : Hoa đẹp trúc hoang (chỉ tre
mọc phóng túng).
- Tịnh nguyệt Minh Song 淨 月 明 窗 : Trăng thì trong, cửa
song thì sáng.
- Lão Cuồng 老 狂 : Không phải là Ông già điên, mà là Ông
già ngông nghênh.
- Dung Sơ 庸 疏 : DUNG là Dung tục là tầm thường; SƠ là
Hời hợt không ý tứ, nên DUNG SƠ là Hời hợt tầm thường.
* Nghĩa Bài Thơ :
CẢM TÁC NGÀY ĐẦU XUÂN
Tuổi đời đã bảy mươi tư tuổi có thừa rồi, vui vì được về
thăm lại chỗ ở cũ khi đã hưởng nhàn. Đầu năm cứ đứng một
bên mà xem vũ trụ đổi mới; nhà nghèo chỉ giàu ở số sách thi
thơ đã cũ mèm. Ba tháng mùa xuân thì vui với hoa đẹp và
những khóm tre dại; Một căn phòng trống với trăng trong cửa
sáng. Mặc ai phải ai trái xin đừng nói đến nữa, ta chỉ tự cười
mình là lão già ngông nghênh tầm thường hời hợt và vô tích sự
mà thôi!
* Diễn Nôm:
XUÂN ĐÁN CẢM TÁC
Tuổi đà bảy chục lại thêm tư,
Mừng được nhàn thăm chốn cựu cư.
Năm mới vui còn xem vũ trụ,
Nhà nghèo giàu chỉ có thi thư.
Trúc hoang hoa đẹp ba xuân thắm,
Song sáng trăng thanh một thảo lư.
Phải trái ai người đừng nói đến,
Già ngông hời hợt tự cười trừ !
Lục bát :
Tuổi già đã bảy mươi tư,
Vui nhàn thăm chốn cựu cư năm nào.
Đầu năm vũ trụ đổi màu,
Nhà nghèo sách cũ làm giàu quanh năm.
Trúc hoang hoa đẹp ba xuân,
Trăng thanh cửa sáng một phòng trống không.
Thị phi ai đó khôn phân,
Tự cười hời hợt già ngông vụng về.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
14. Bài thơ THU THANH :
秋聲 THU THANH
蕭 條 秋 夜 滴 寒 更,Tiêu điều thu dạ trích hàn canh,
玉 律 回 音 暗 土 聲。Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh.
但 覺 樹 間 鳴 晰 晰,Đản giác thọ gian minh tích tích,
忽 驚 月 下 響 錚 錚。Hốt kinh nguyệt hạ hưởng tranh tranh.
初 聞 戍 婦 愁 無 寐,Sơ văn thú phụ sầu vô mỵ,
自 觸 寒 螿 惹 不 平。Tự xúc hàn tương nhạ bất bình.
擬 作 穎 川 歐 子 賦,Nghỉ tác Dĩnh Xuyên Âu tử phú,
恐 惶 模 仿 被 時 輕. Khủng hoàng mô phỏng bị thời khinh.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Tiêu Điều 蕭 條 : là Xơ xác vắng lặng.
- Ngọc Luật Hồi Âm Ám Thổ Thanh 玉 律 回 音 暗 土 聲 :
NGỌC là cái ống bằng ngọc, người xưa đốt tro của màng cây
sậy bỏ vào bên trong, đến các khí tiết như Đông chí, Lập xuân
v.v... thì chất tro trong ống luật được khí trời thổi bay lên, người
ta dựa vào đó để đoán xem thời tiết; ÁM THỔ THANH là
ngầm có tiếng thổ là đất, theo Thái Cực Đồ thì ngũ hành (kim,
mộc, thuỷ, hoả, thổ) ứng với tứ thời, kim ứng với mùa thu, mộc
ứng với mùa xuân, thuỷ và thổ ứng với mùa đông, hoả ứng với
mùa hè. Ở đây ý nói rằng tuy là đang trong mùa thu mà trong
ống ngọc luật đã ngầm có tiếng thổ, tức là báo trước sắp tới
mùa đông rét mướt.
- Tích Tích, Tranh Tranh 晰 晰, 錚 錚 : Từ Tượng thanh, chỉ
tiếng côn trùng kêu trong đêm thu.
- Thú Phụ 戍 婦 : là Vợ của những người lính thú lưu đồn ở
xa.
- Hàn Tương 寒 螿 : Một loại ve sầu nhỏ, chỉ kêu khi mùa thu
lạnh lẽo.
- Nghĩ Tác 擬 作 : Định nhái theo để làm... cái gì đó.
- Dĩnh Xuyên Âu Tử Phú 穎 川 歐 子 賦 : ÂU TỬ tức là Âu
Dương Tu, người đất Dĩnh Xuyên, sống vào đời Tống ở Trung
Quốc, là Tễ Tướng và là một danh sĩ có làm bài "Thu Thanh
Phú 秋 聲 賦" (Phú Tiếng thu) rất nổi tiếng.
* Nghĩa Bài Thơ :
TIẾNG THU
Trong đêm thu tiêu điều vắng lặng chỉ nghe tiếng đồng hồ
nhỏ giọt điểm canh lạnh lẽo; Trong ống ngọc luật lại ngầm vang
tiếng thổ báo hiệu mùa đông rét mướt sắp tới. Lại nghe thấy
trong khóm cây có tiếng kêu ri rỉ, và chợt giật mình khi nghe
tiếng ra rả dưới trăng. Thoáng nghe tiếng người vợ của các anh
lính thú buồn vì không ngủ được, lại xúc động tâm tình như
những con ve sầu đang kêu vang như than cho nổi bất bình.
(Trước cảnh tình nầy), ta định làm bài phú về tiếng thu như
Âu Dương Tu của đất Dĩnh Xuyên, nhưng lại e rằng người đời
bảo là ta bắt chước mà khinh rẻ ta chăng!?
* Diễn Nôm :
THU THANH
Đồng hồ nhỏ giọt đêm thu lạnh,
Ngọc luật âm vang tiếng thổ thanh.
Chợt thấy trong cây vang chích chắc,
Giật mình dưới nguyệt tiếng lanh canh.
Não nề thú phụ buồn khôn ngủ,
Xúc động ve sầu rỉ suốt canh.
Muốn học Dĩnh Xuyên làm phú vịnh,
Còn e bắt chước bị người khinh.
Lục bát :
Tiêu điều nhỏ giọt đêm thu,
Âm vang ngọc luật nghe như thổ hành.
Trong cây vẳng tiếng lanh canh,
Dưới trăng ra rả giật mình tiếng ve.
Trở trăn cô phụ buồn nghe,
Dế mèn ri rỉ như chia bất bình.
Muốn làm bài phú Thu Thanh,
Chỉnh e mô phỏng buồn tình lại thôi !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
15. Bài thơ TRỪ TỊCH TỨC SỰ :
除夕即事 TRỪ TỊCH TỨC SỰ
新 歲 才 臨 舊 歲 除, Tân tuế tài lâm cựu tuế trừ,
老 來 笑 我 太 庸 疏. Lão lai tiếu ngã thái dung sơ.
乾 坤 不 盡 煙 花 景,Càn khôn bất tận yên hoa cảnh,
門 館 無 私 水 竹 居。Môn quán vô tư thủy trúc cư.
兩 度 手 層 扶 日 轂,Lưỡng độ thủ tằng phù nhựt cốc,
一 封 書 肯 上 公 車. Nhất phong thư khẳng thượng công xư(xa).
年 年 管 得 春 光 好,Niên niên quản đắc xuân quang hảo,
知 是 天 心 獨 厚 余。Tri thị thiên tâm độc hậu dư.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Tài Lâm 才 臨 : là Mới vừa đến.
- Dung Sơ 庸 疏 :DUNG là Dung tục là tầm thường, SƠ là
Thưa thớt, hời hợt, nên DUNG SƠ là Hời hợt tầm thường, vô tích sự,
không làm được gì cả.
- Càn Khôn 乾 坤 : là hai quẻ tượng trưng cho Trời và Đất
trong Bát quái.
- Yên Hoa Cảnh 煙 花 景 : Cảnh hoa nở rộ đẹp đẽ của mùa
xuân.
- Thủy Trúc Cư 水 竹 居 : Nhà ở trên bến nước có tre trúc
hữu tình.
- Nhựt Cốc 日 轂 : là Mặt trời, ở đây chỉ nhà vua, nên PHÙ
NHỰT CỐC 扶 日 轂 là Phò trợ nhà vua.
- Công Xa 公 車 : là Xe công, chỉ Xe của vua đi.
- Quản Đắc 管 得 : là Quản lý được, có nghĩa là Nắm bắt
được, là Hưởng được.
- Độc Hậu Dư 獨 厚 余 : ĐỘC là Riêng lẻ, HẬU là Hậu đãi, DƯ là Ta; nên ĐỘC HẬU DƯ là Hậu đãi riêng với mình ta.
* Nghĩa bài Thơ :
Tức Sự đêm Giao Thừa
Năm mới vừa đến thì năm cũ cũng đi qua; cười ta già đầu
rồi mà còn hời hợt tầm thường vô tích sự. Cảnh hoa đẹp của
mùa xuân trong đất trời thì vô cùng tận, và nơi ở nhàn nhã
trước cửa có sông nước trúc tre cũng không chỉ dành riêng
cho ai; Cũng đã hai lần từng phò vua giúp nước, nhưng một
phong thư (kể công) cũng không chịu trình lên xe vua. (Chỉ
cần) mỗi năm ta đều hưởng được những mùa xuân đẹp đẽ, thì
biết là lòng trời còn hậu đãi ưu ái đến ta lắm rồi!
Qủa là lòng của một lão thần trung nghĩa, không hám vinh
hoa phú qúy; không màng danh lợi buộc ràng, chỉ muốn yên
thân nhàn tản thưởng ngoạn sự đẹp đẽ ưu ái của đất trời, của
tiết xuân với hoa thơm cỏ đẹp khi mỗi độ xuân về.
* Diễn Nôm :
TRỪ TỊCH TỨC SỰ
Năm mới đến đi lại một năm,
Cười ta già ngố lại vô tâm.
Đất trời cảnh trí hoa xuân thắm,
Nhà cửa ven sông tre trúc râm.
Hai lượt phò vua luôn dốc sức,
Một phong thư tấu mãi trầm ngâm.
Năm năm cứ được vui xuân đến,
Là phúc riêng trời kẻ hảo tâm.
Lục bát :
Năm mới đến, năm cũ đi,
Cười ta ngớ ngẩn khác gì năm qua.
Đất trời xuân thắm bao la,
Bên sông tre trúc cửa nhà riêng ai.
Hai lần phò chúa ra tay,
Một phong thư lại ngại hoài chẳng dâng.
Năm năm vui hưởng sắc xuân,
Biết trời hậu đãi lão thần riêng ta.
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét