Góc Việt Thi :
Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Kỳ Tứ
16. Bài thơ ƯU ĐÀM HOA :
優 曇 花 ƯU ĐÀM HOA
碧 水 池 邊 長 綠 陰, Bích thủy trì biên trưởng lục âm,
幽 林 花 好 趁 禪 林. U lâm hoa hảo sấn thiền lâm.
開 時 不 要 爭 春 色, Khai thời bất yếu tranh xuân sắc,
只 要 如 如 見 佛 心。Chỉ yếu như như kiến Phật tâm !
* Chú Thích :
- ƯU ĐÀM HOA 優 曇 花 : Là một loại hoa qúy của nhà Phật, có tên khoa học là Epiphyllum oxypetalum. Ưu Đàm là gọi tắt của ƯU ĐÀM BÁT HOA 優 曇 缽 華 do phiên âm từ tiếng Phạn là udumbara trong Pháp Hoa Kinh mà ra. Tương truyền ba ngàn năm mới nở một lần. Khi nở thì Kim Luân xuất thế, chân Phật ra đời. Theo thành ngữ Đàm Hoa Nhất Hiện 曇 花 一 現 thì là một loại Quỳnh Hoa, chỉ nở trong đêm phút chốc rồi tàn.
Đàm Hoa Nhất Hiện
- U Lâm 幽 林 : là Rừng thâm u tĩnh lặng.
- Thiền Lâm 禪 林 : là Rừng Thiền.
- Như Như 如 如 : Từ nhà Phật, chỉ chân như luôn tồn tại vĩnh hằng, Chỉ chư pháp đều bình đẵng theo pháp tính của nhà Phật. NHƯ NHƯ cũng có nghĩa là Như Lai, Như Thị.
* Nghĩa Bài Thơ :
HOA ƯU ĐÀM
Bên ao nước xanh biếc mọc lên một bóng hoa cũng xanh biếc. Bên rừng vắng thâm u hoa đẹp cũng nở nương vào rừng thiền. Khi nở hoa cũng không phải để tranh xuân sắc với các loại hoa khác, mà chỉ muốn soi rọi pháp tính chân như của đức Như Lai vĩnh hằng mà thôi!
Bài thơ ẩn chứa ý thiền, nên không tiện lạm bàn, chỉ tùy ngộ duyên của người đọc tự mình cảm nhận mà thôi.
* Diễn Nôm :
ƯU ĐÀM HOA
Bên ao nước biếc lá xanh om,
Rừng vắng hoa nương nở cửa thiền.
Không để cạnh tranh xuân sắc thắm,
Chỉ thay lòng Phật kết thiền duyên.
Lục bát :
Bên ao nước biếc lá xanh,
Rừng thiền nương bóng hoa lành nở ra.
Chẳng tranh xuân sắc ngàn hoa,
Chân như Phật tánh là hoa vĩnh hằng.
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
17. Bài thơ VŨ :
雨 VŨ
陰陽和合運玄機, Âm dương hòa hợp vận huyền cơ,
解作甘霖喜及時。 Giải tác cam lâm hỉ cập thời.
沛自九天恩既渥, Bái tự cửu thiên ân ký ốc,
潤沾次土物咸宜。 Nhuận triêm thứ thổ vật hàm nghi.
民蘇霓望王師至, Dân tô nghê vọng vương sư chí,
士吸風成聖教施。 Sĩ hấp phong thành thánh giáo thi.
雨順豐登金上瑞, Vũ thuận phong đăng kim thượng thụy,
太平又一此休期。 Thái bình hựu nhất thử hưu kỳ.
阮秉謙 Nguyễn Bĩnh Khiêm
* Chú Thích :
- Âm Dương Hòa Hợp 陰 陽 和 合 : Chỉ trời đất thích ứng hòa vào nhau.
- Huyền Cơ 玄 機 : Bộ máy huyền diệu. Ở đây chỉ sự vận hành của trời đất.
- Cam Lâm 甘 霖 : LÂM 霖 nầy có bộ VŨ ở trên, có nghĩa là Mưa dầm. Cam Lâm chỉ mưa rào trong lúc trời hạn hán.
- Cập Thời 及 時 : là Đúng lúc, nên CẬP THỜI VŨ 及 時 雨 là Mưa đúng lúc; đây cũng là ngoại hiệu của Tống Giang, thủ lãnh của 108 Anh hùng Lương Sơn Bạc, vì khi đang làm chức Áp Ti, Tống Giang thường hay cứu giúp những anh hùng hảo hán rất đúng lúc khi họ đến bước đường cùng hay gặp hoạn nạn nửa chừng.
- Bái 沛 : là Bái Nhiên Hạ Vũ 沛 然 下 雨 là Mưa sầm sập đổ xuống.
- Nhuận Triêm 潤 沾 : là Thấm nhuần.
- Tô Nghê 蘇 霓 : TÔ là Thức tỉnh; NGHÊ là Cầu vồng, chỉ mưa, nên TÔ NGHÊ là thức tỉnh sau cơn mưa.
- Vương Sư 王 師 : Lực lượng chính quy, quân chính thống của triều đình.
- Phong Thành 風 成 : Phong hóa được hình thành.
- Phong Đăng 豐 登 : là Lúa thóc được mùa.
- Thụy 瑞 : Còn đọc là THOẠI : là Điềm lành.
- Hưu Kỳ 休 期 : là Thời kỳ tốt đẹp.
* Nghĩa Bài Thơ :
MƯA
Âm dương trời đất hòa vào nhau như một chiếc máy huyền diệu đang vận hành, giải tỏa cho ra một trận mưa rào thật đúng lúc với thời vụ canh tác. Cơn mưa sầm sập từ chín từng trời đổ xuống chan hòa khắp cả, thấm nhuần mặt đất và vạn vật được hài hòa. Dân chúng như thức tỉnh sau cơn mưa chờ vương sư đến, kẻ sĩ cũng đã thấm nhuần và hình thành phong hóa của thánh nhân. Mưa thuận gió hòa nên được mùa là nhờ đức lành của nhà vua (Kim Thượng), và thời kỳ tốt đẹp lại được mở ra trong cảnh thái bình.
* Diễn Nôm :
VŨ
Âm dương hòa hợp máy huyền cơ,
Mưa ngọt tạo nên thật kịp giờ.
Sầm sập chín từng cây cỏ ướt,
Thấm nhuần mặt đất vật người mơ.
Dân choàng tỉnh đợi vương sư tới,
Sĩ kịp hình thành phong hóa xưa.
Mưa thuận được mùa nhờ thánh đức,
Thái bình lại mở vận âu ca !
Lục bát :
Âm dương hòa hợp máy trời,
Tạo cơn mưa ngọt kịp thời hạn khô.
Chín từng sầm sập tuôn mưa,
Thấm nhuần mặt đất cho vừa cỏ cây.
Vương sư dân đợi về đây,
Hình thành phong hóa vui vầy tương thân.
Được mùa nhờ đức thánh ân,
Thái bình thịnh trị xa gần hân hoan !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
18. Bài thơ VẤN NGƯ GIẢ :
問漁者 VẤN NGƯ GIẢ
湖海扁舟漁者誰, Hồ hải thiên chu ngư giả thùy?
生涯一笠一蓑衣。 Sinh nhai nhất lạp nhất thoa y.
水村沙近鴟為侶, Thủy thôn sa cận si vi lữ,
江興秋高鱸正肥。 Giang hứng thu cao lư chính phì.
短笛清風閒處弄, Đoản địch thanh phong nhàn xứ lộng,
孤帆明月醉中歸。 Cô phàm minh nguyệt túy trung quy.
桃源往事依然在, Đào nguyên vãng sự y nhiên tại,
秦晉興亡是卻非。 Tần Tấn hưng vong thị khước phi !
阮 秉 謙 Nguyễn Bĩnh Khiêm
* Chú Thích:
- Ngư Giả 漁 者 : là Người câu cá, người đánh bắt cá.
- Thiên Chu 扁 舟 : chữ 扁 đọc là BIỂN thì có nghĩa là Dẹp; đọc là THIÊN thì có nghĩa là Nhỏ, nên THIÊN CHU là chiếc thuyền nhỏ, không phải Thuyền dẹp.
- Lạp 笠 : Nón Lá; Thoa 蓑 : là Áo tơi, áo lá.
- Si 鴟 : Chim cú mèo. Lữ 侶 : là Bầu bạn.
- Lư 鱸 : còn đọc là LÔ, là cá vượt, cá chép. Thịt ăn rất ngon.
- Địch 笛 : Cây sáo; Lộng 弄 là Chơi, chọc. LỘNG ĐỊCH 弄 笛 là Thổi sáo.
- Đào Nguyên 桃 源 : là Đào Hoa Nguyên Ký của Đào Uyên Minh đời Tấn, kể lại chuyện của người giăng câu đi lạc vào xóm Đào Nguyên, nơi dân chúng sống an lành như cõi thần tiên.
- Thị Khước Phi 是 卻 非 : Phải mà trái, đúng mà sai.
* Nghĩa Bài Thơ :
Hỏi Người Câu Cá
Người đánh bắt cá trên sông hồ với một con thuyền nhỏ kia là ai, mà chỉ thấy sinh nhai với một chiếc nón lá và một manh áo tơi. Xóm ven sông gần bãi cát nên chỉ thấy làm bạn với diều hâu cú mèo, mùa thu nước thu dâng cao chính là lúc các loài cá vượt cá chép đang mập mạp ngon lành. Thỉnh thoảng đưa ngang tiếng sáo theo làn gió mát nhàn nhã, hoặc trong say thả chiếc buồm con theo vầng trăng sáng mà về. Chuyện cũ về Đào Nguyên như vẫn còn phảng phất đâu đây và chuyện hưng vong của nước Tần nước Tấn nghe như phải mà trái, như đúng mà lại sai!
Nguyễn Bỉnh Khiêm tự ví mình như ông lão đánh cá, bạn cùng chim chóc cá tôm, khi nhàn nhã thì thổi một khúc sáo theo gió sông, khi hứng thì uống say rồi thả thuyền theo trăng sáng mà về. An nhiên tự tại như cuộc sống của dân chúng ở Đào Nguyên mà không màng đến thế sự thị phi đúng sai phải trái nữa!
* Diễn Nôm :
VẤN NGƯ GIẢ
Thuyền câu đánh cá ấy là ai ?
Nón lá áo tơi với lưới chài.
Bến nước hải âu cùng hủ hỉ,
Thu cao cá vượt nhậu lai rai.
Khi nhàn thổi sáo sông theo gió,
Lúc xỉn mặc thuyền trăng khứ lai.
Chuyện cũ Đào Nguyên như hiển hiện,
Mặc Tần mặc Tấn đúng mà sai !
Lục Bát :
Ai người đánh cá sông hồ ?
Áo tơi nón lá là đồ sinh nhai.
Chim âu bầu bạn hôm mai,
Thu cao bến cát nhiều loài cá tôm.
Gió đưa khúc sáo chiều hôm,
Khi say trăng sáng thuyền con đưa về.
Đào Nguyên chuyện cũ bề bề,
Hưng vong Tần Tấn đúng hề... mà sai!
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
19. Bài thơ THỦY HÀNH PHÓ DOANH CẢM TÁC :
水行赴營感作 THỦY HÀNH PHÓ DOANH CẢM TÁC
祇 期 誓 復 舊 山 河, Chỉ kỳ thệ phục cựu sơn hà,
慷 慨 登 舟 發 浩 歌。Khảng khái đăng chu phát hạo ca.
棹 擺 水 紋 推 白 雪,Trạo bãi thủy văn đôi bạch tuyết,
帆 移 月 影 弄 寒 波。Phàm di nguyệt ảnh lộng hàn ba.
孤 忠 敦 越 乾 坤 老,Cô trung đối việt càn khôn lão,
四 顧 微 茫 草 樹 多。Tứ cố vi mang thảo thụ đa.
記 取 賊 奴 平 定 後,Ký thủ tặc nô bình định hậu,
重 尋 津 館 侶 魚 蝦。Trùng tầm tân quán lữ ngư hà.
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- PHÓ 赴 : là Đi đến. PHÓ DOANH 赴 營 là đi đến doanh trại.
- Chỉ Kỳ 祇 期 : là Chỉ kỳ vọng rằng. Chỉ mong mõi rằng.
- Thệ Phục 誓 復 : là Thề sẽ khôi phục lại.
- Hạo Ca 浩 歌 : là Lời ca hào hùng.
- Trạo Bãi Thủy Văn 棹 擺 水 紋 : là Chèo đùa sóng nước.
- Phàm Di Nguyệt Ảnh 帆 移月 影 : là Cánh buồm làm ánh trăng lay động.
- Đối Việt 敦 越 : là Rất dãi dầu vất vả.
- Vi Mang 微 茫 : là Mờ mịt, mông lung.
- Tặc Nô 賊 奴 : Giặc giã thổ phỉ hèn hạ.
- Trùng Tầm Tân Quán 重 尋 津 館 : là Tìm lại căn nhà ở ven sông.
- Lữ Ngư Hà 侶 魚 蝦 : là Làm bạn với Cá Tôm.
* Nghĩa Bài Thơ :
Cảm Tác Khi Đi Đường Thủy Đến Doanh Trại
Lòng chỉ kỳ vọng vào lời thề khôi phục lại núi sông ngày cũ, nên rất khảng khái mà bước lên thuyền cất cao lời ca đầy hào khí. Mái chèo quạt nước đẩy đi những mảng tuyết trắng trên sông, và những cánh buồm di chuyển làm lay động cả bóng trăng trên sóng nước lạnh căm. Lòng trung thành miệt mài theo năm tháng khiến cho trời đất cũng như già đi. Nhìn quanh bốn bên mờ mịt thấy cây cỏ như nhiều thêm ra. Nhớ lấy là khi đã bình định được lũ giặc như thổ phỉ kia rồi, thì hãy tìm về với cái quán nhỏ ven sông mà làm bạn với cá tôm cho qua ngày đoạn tháng.
* Diễn Nôm :
THỦY HÀNH PHÓ DOANH CẢM TÁC
Kỳ vọng phục hồi lại núi sông,
Lời ca khảng khái trước thuyền rồng.
Chèo khua đẩy tuyết thuyền nương sóng,
Buồm động rung trăng nước lạnh căm.
Mài miệt lòng trung trời đất thấu,
Mịt mờ tầm mắt cỏ cây thâm.
Sau ngày bình giặc nên ghi nhớ,
Quán cũ tìm về với bến sông.
Lục bát :
Thề mong khôi phục sơn hà,
Lên thuyền khảng khái lời ca hào hùng.
Mái chèo quẫy tuyết trên sông,
Cánh buồm lay động trăng rung sóng vờn.
Lòng trung mài miệt càn khôn,
Mịt mờ bốn phía xanh rờn cỏ cây.
Nhớ sau bình định giặc nầy,
Trở về bến nước vui vầy cá tôm.
Đỗ chiêu Đức
杜 紹 德
20. Bài thơ XUÂN HÀN :
春寒 XUÂN HÀN
十二韶光春一團, Thập nhị thiều quang xuân nhất đoàn,
一天料峭送餘寒. Nhất thiên liệu tiễu tống dư hàn.
輕陰借雨侵花易, Khinh âm tá vũ xâm hoa dị,
殘雪因風墜柳難. Tàn tuyết nhân phong trụy liễu nan.
繡闥佳人低玉帳, Tú thát giai nhân đê ngọc trướng,
香街醉客促金鞍. Hương giai túy khách xúc kim an.
旋乾自有神功在, Toàn kiền tự hữu thần công tại,
已播陽和滿際蟠. Dĩ bá dương hoà mãn tế bàn.
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- XUÂN HÀN 春 寒 : Cái lạnh của buổi đầu xuân.
- Thiều Quang 韶 光 : là Cái khoảng thời gian đẹp đẽ.
- Liệu Tiễu 料 峭 : là LIỆU TIỄU XUÂN HÀN 料 峭 春 寒 là thành ngữ dùng để hình dung cái lạnh của buổi đầu xuân.
- Khinh Âm Tá Vũ 輕 陰 借 雨 : là Trời âm u nhẹ trong cơn mưa xuân.
- Tàn Tuyết Nhân Phong 殘 雪 因 風 : là Gió cuốn những tàn dư của băng tuyết còn lại.
- Tú Thát 繡 闥 : là Trong phòng thêu, tức là Khuê phòng của các cô gái.
- Hương Giai 香 街 : là Đường phố thơm, ý chỉ những đường phố có nhiều người đẹp ở hay đường phố có nhiều kỹ viện.
- Xúc 促 : là Thúc mạnh vào. KIM AN 金 鞍 : là Yên cương ngựa mạ vàng.
- Toàn Kiền 旋 乾 : là Tuyền Càn Chuyển Khôn 旋 乾 轉 坤 là thành ngữ chỉ xoay chuyển từ Càn qua Khôn, từ Dương sang Âm và ngược lại; Nói chung là chỉ sự xoay vần của trời đất, vạn vật, mùa màng... hết đông rồi đến xuân...
- Bá 播 : là Gieo hạt giống , là Truyền Bá, là Rải khắp.
- Dương Hoà 陽 和 : là Khí dương xuân, chỉ khí trời ấm áp của mùa xuân.
- Tế Bàn 際 蟠 : là Trời Đất, do sách Trang Tử có câu: "Thượng tế vu thiên, hạ bàn vu địa 上 際 于 天,下 蟠 于 地", nghĩa là: Trên rộng đến trời, dưới khắp cả đất. Sau người ta dùng gọn bốn từ "Tế thiên bàn địa 際 天 蟠 地" như là một thành ngữ. Ở đây, tác giả lại lược đi hai từ, chỉ còn hai từ "tế bàn 際 蟠" nhưng cần hiểu như nghĩa của cả câu "tế thiên bàn địa".
* Nghĩa Bài Thơ :
CÁI LẠNH CỦA BUỔI ĐẦU XUÂN
Cái khoảng thời gian đẹp đẽ của 12 ngày đầu năm đã mở màn cho một vừng xuân sắc, Từng ngày một ta sẽ lần lượt đưa tiễn cái lạnh của buổi đầu xuân. Trời râm nhẹ với mưa xuân phơi phới sẽ ngấm vào hoa cỏ một cách dễ dàng, những làn gió đầu xuân còn rất lạnh khó mà thổi được những băng tuyết còn sót lại cho rơi xuống gốc liễu. Trong khuê phòng các giai nhân còn buông thấp rèm ngọc xuống vì trời còn lạnh, trên đường phố nơi có nhiều người đẹp các khách say cũng thúc vào yên cương mạ vàng để đi mau qua. Trời đất âm dương đã xoay chuyển một cách thần kỳ từ đông sang xuân, vá ánh dương xuân đã được gieo đầy khắp cả trên trời dưới đất.
* Diễn Nôm :
XUÂN HÀN
Mười hai xuân sắc đã vầy đoàn,
Cái lạnh lui dần tiết mới sang.
Phơi phới mưa xuân hoa ướm nhụy,
Rao rao gió nhẹ tuyết dần tan.
Khuê phòng người đẹp buông rèm ngọc,
Trên phố khách say thúc ngựa vàng.
Chuyển đổi thần công trời lẫn đất,
Ánh xuân chan chứa khắp nhân gian.
Lục bát :
Mười hai ngày tiết xuân hàn,
Mỗi ngày cái lạnh lại càng bớt đi.
Mưa xuân dễ thấm hoa chi,
Gió xuân lay liễu tuyết thì chưa tan.
Phòng khuê người đẹp buông màn,
Trên đường khách hãy yên vàng thúc mau.
Càn khôn huyền diệu làm sao,
Ánh dương xuân đã phủ mau đất trời!
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét