Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2022

Tạp Ghi và Phiếm Luận : CHỮ XUÂN 春 (Đỗ Chiêu Đức)

 Tạp Ghi và Phiếm Luận : 

                           CHỮ  XUÂN  春     
                     
             
                       Thiên hữu tứ thời XUÂN tại thủ
        
         Thiên hữu tứ thời XUÂN tại thủ 天 有 四 時 春 在 首, là "Trời có bốn mùa, XUÂN là mùa đứng đầu". XUÂN là chữ Hội Ý trong Lục Thư là một trong 6 cách hình thành chữ Nho, theo diễn tiến của chữ viết như sau:

   Giáp Cốt Văn  Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư     Chữ Dị Thể
                     

Ta thấy :
            Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của bộ Thảo 艸 là Cỏ ở phía trên và chữ Đồn 屯 bên dưới tượng trưng cho các mầm non của cây cỏ nức đất vươn lên, bên cạnh là  hình tượng của chữ Nhật ㄖ là mặt trời là ánh nắng của mùa Xuân giúp cho cỏ cây phát triển sau những ngày đông tháng giá; nên XUÂN 春 là mùa Xuân, mùa đầu tiên trong năm khi tiết trời trở lại ấm áp. Chưa có chữ NHO nào có diễn tiến phức tạp và thay đổi kiểu viết nhiều như chữ Xuân vậy. Có thể là do những ngày Đông rét mướt vạn vật cỏ cây đều héo úa tàn tạ, vào Xuân lại được dịp tái sinh, nên các mầm sống thi nhau phát triển, vì thế mà chữ viết cũng phát triển đa dạng theo như vạn vật đang hồi sinh chăng?! Mời xem diễn tiến chữ viết của chữ XUÂN qua các hình thức sau đây:          
     

        XUÂN là mùa đầu tiên trong năm, nên những ngày Lễ Hội đầu năm được gọi là XUÂN TIẾT  春節, là những ngày Lễ Tết của buổi đầu Xuân, nên ta còn gọi "Ba ngày Tết" là "Ba ngày Xuân".  Đón Xuân là đón Tết, và "Ăn Tết" là để "Mừng Xuân". Tất cả những hoạt động của ngày Tết thường đều có chữ Xuân chen vào, như chợ bán hoa ngày Tết thì gọi là "Hội Hoa Xuân", đi dự hội ngày Tết thì gọi là "trẩy hội Xuân", đi lễ chùa ngày Tết thì gọi là đi "Lễ Xuân" như trong bản nhạc "Câu Chuyện Đầu Năm" của nhạc sĩ Hoài An :

            Trên đường đi Lễ Xuân đầu năm ...

         Nói theo chiết tự thì chữ XUÂN được viết theo thứ tự: Chữ Nhất 一, chữ Nhị 二 rồi chữ Tam 三, xong chồng bộ Nhân 人 lên trên và phía dưới cùng là chữ Nhật 日.  Ghép tất cả các phần trên lại ta có chữ XUÂN 春. NHẤT là Thiên là Trời; NHỊ là Địa là Đất; TAM là NHÂN là Người, nói theo sách TAM TỰ KINH 三 字 經 là "TAM TÀI giả: Thiên Địa Nhân 三 才 者,天 地 人". Con Người là một thành viên hợp với Trời Đất tạo nên cái vũ trụ hỗn mang nầy, và khi mặt trời (NHẬT 日) bắt đầu ló dạng là vạn vật cũng bắt đầu phục sinh cho cuộc sống mới theo quy luật Âm Tiêu thì Dương Trưởng; đêm sẽ dần ngắn lại và ngày sẽ càng dài thêm ra; cây cỏ lá hoa đâm chồi nẩy lộc cho cuộc sống mới bắt đầu bằng màu hồng của những tia nắng Xuân đầu tiên ấm áp để "Hoa lá nở thắm đẹp làn môi hồng". 
              

         Nên từ đầu tiên ta có về mùa xuân là XUÂN QUANG 春 光 là Ánh sáng ấm áp của mùa Xuân mang đến vẻ đẹp đẽ rực rỡ của cỏ cây hoa lá tươi hồng, nên để chỉ mùa Xuân đẹp đẽ, ta có từ XUÂN HỒNG 春 紅 như trong bốn câu thơ bất hủ mở đầu bài thơ "Tình Sầu" của thi nhân Huyền Kiêu thời Tiền Chiến:

               XUÂN HỒNG có chàng tới hỏi
               Em thơ, chị đẹp em đâu?
               Chị tôi tóc xoã ngang đầu
               Đi hái hoa tươi ngoài nội

          XUÂN HỒNG còn là sức sống và sự yêu đời như trong bài thơ nổi tiếng "Giây Phút Chạnh Lòng" của Thế Lữ:
         
             Ta thấy XUÂN HỒNG thắm khắp nơi,
             Trên đường rộn rã tiếng đua cười,
             Động lòng nhớ bạn Xuân năm ấy.
             Cùng ngắm Xuân về trên khóm mai...
                              
         Song song với XUÂN QUANG 春 光 ta còn có từ XUÂN HUY 春 暉 cũng chỉ ánh nắng ấm áp của mùa Xuân mang lại sức sống cho cỏ cây, được ví như là công ơn của từ mẫu như trong bài thơ Du Tử Ngâm 遊子吟  của Mạnh Giao 孟郊 đời Đường:

           慈 母 手 中 线    Từ mẫu thủ trung tuyến              
           遊 子 身 上 衣    Du tử thân thượng y                             
           临 行 密 密 缝    Lâm hành mật mật phùng                       
           意 恐 遲 遲 歸    Ý khủng trì trì quy             
           誰 言 寸 草 心    Thùy ngôn thốn thảo tâm                
           報 得 三 春 暉    Báo đắc tam XUÂN HUY
     

   Có nghĩa :
                        Kim chỉ trên tay từ mẫu,
                        Khâu nên áo lãng du nhân.
                        Khi đi chắc chiu từng mũi,
                        Sợ ngày về lắm lần khần.
                        Ai bảo nỗi lòng tấc cỏ,
                        Báo đền được nắng ba xuân ?!

          Khi quyết định bán mình chuộc tội cho cha, cụ Nguyễn Du cũng đã cho Thúy Kiều cân nhắc thân phận của mình rồi mới quyết định:

                  Hạt mưa xá nghĩ phận hèn,
            Liều đem tấc cỏ quyết đền ba Xuân !
 
          Xuân Quang, Xuân Huy, Xuân Hồng tạo nên XUÂN SẮC 春 色 là Cảnh sắc đẹp đẽ của mùa xuân với thành ngữ XUÂN SẮC MÃN NHÂN GIAN 春 色 滿 人 間 là Cảnh sắc đẹp đẽ của mùa Xuân đầy rẫy cả nhân gian. Mùa Xuân đẹp đẽ không là của riêng ai, nhưng khi thấy ong bướm bay qua nhà hàng xóm thì lại đâm ra nghi ngờ, như hai câu cuối trong bài Vũ Tình 雨 晴 của Vương Giá 王 駕 đời Vãn Đường:                               
  蜂 蝶 紛 紛 過 牆 去,Phong điệp phân phân qúa tường khứ,
  卻 疑 春 色 在 鄰 家。Khước nghi xuân sắc tại lân gia.

          Hai câu thơ nầy đã được nhà thơ Tiền Chiến Jean Leiba mượn ý diễn Nôm thật hay trong bài Mai Rụng như sau: 

             Tơi bời ong bướm bay qua ngõ,
             Những tưởng màu Xuân ở xóm ngoài.
                
                          

          XUÂN SẮC phải là cảnh sắc đẹp đẽ của thiên nhiên bao la rộng lớn khi trời đã vào Xuân, chớ không phải gò bó đóng khung trong một phạm vi đẹp đẽ nhỏ hẹp nào đó, vì Xuân Sắc là Sắc đẹp của mùa Xuân sẽ bức phá khỏi những phạm vi hạn hẹp như cành hoa Hồng Hạnh trong bài Du Viên Bất Trực 遊 園 不 值 của Diệp Thiệu Ông 葉 紹 翁 đời Nam Tống:

  春 色 滿 園 關 不 住, XUÂN SẮC mãn viên quan bất trụ,
  一 枝 紅 杏 出 牆 來。 Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai.
    
Có nghĩa :
                 XUÂN SẮC đầy vườn không giữ nổi,
                 Một cành hồng hạnh vượt tường ra !

          Vì 2 câu thơ nầy mà hình thành một thành ngữ XUẤT TƯỜNG HỒNG HẠNH 出 牆 紅 杏 là "Hồng Hạnh Vượt Tường" để chỉ những nàng cô phụ không giữ nổi nỗi cô đơn mà "vượt tường" đi tìm tình yêu của lòng mình đang khao khát.                                          
         
       - XUÂN THIÊN 春 天 là Trời đã vào Xuân, nên có nghĩa là MÙA XUÂN, Còn...
       - XUÂN NHẬT 春 日 là Ngày Xuân, là những ngày của mùa Xuân. 
       - XUÂN TIÊU 春 宵 là đêm xuân, là những đêm của mùa xuân. XUÂN TIÊU lại là tựa của một bài thơ nổi tiếng của Tô Đông Pha 蘇 東 坡, một trong Đường Tống Bát Đại Gia 唐 宋 八 大 家 với 2 câu thơ mở đầu bất hủ là:

  春 宵 一 刻 值 千 金,   XUÂN TIÊU nhất khắc trị thiên kim,
  花 有 清 香 月 有 陰.   Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm...

Có nghĩa :
                 Đêm xuân một khắc đáng ngàn vàng,
                 Hoa thoảng hương thơm trăng mơ màng...

       Vốn dĩ Tô Đông Pha muốn nói rằng đêm Xuân mát mẻ êm ả lại thoang thoảng mùi hương của hoa và lấp loáng mơ màng của bóng trăng chênh chếch. Đêm Xuân đẹp là thế, êm đềm là thế, nên không nở đi ngủ, vì một khắc êm đẹp thoải mái của đêm Xuân có giá trị đáng ngàn vàng! Nhưng suốt cả ngàn năm nay người ta chỉ hiểu nghĩa của câu thơ với một ý khác. Cứ nghĩ đến tình yêu nồng thắm say đắm của nam nữ, của đôi vợ chồng son, của những người đang yêu nhau, của cô dâu và chú rể trong đêm tân hôn... thì "Đêm Xuân Một Khắc Giá Đáng Ngàn Vàng!" để trân trọng cái thời khắc của đêm Xuân khi đôi lứa được ở bên nhau.

               
       - XUÂN TỬU 春 酒 là Rượu uống vàp dịp Tết để mừng Xuân. Khác với...
       - XUÂN DƯỢC 春 藥 là Thuốc uống để khơi dậy lòng Xuân, là thuốc kích dâm. 
       - XUÂN TÌNH 春 情 là Tình cảm nảy nở trong mùa Xuân, là tình yêu đối với mùa Xuân, mà cũng làtình yêu trai gái nữa; XUÂN TÌNH còn là tên một điệu hát cổ nhạc rất mượt mà ươt át;  nếu đổi chữ TÌNH có bộ NHẬT 日 là Mặt Trời thì XUÂN TÌNH 春 晴 là Mùa Xuân nắng ráo, là Nắng đẹp mùa xuân. Trong bài thơ tứ tuyệt Trúc Chi Từ 竹 枝 詞 của Lưu Vũ Tích 劉 禹 錫 đời Đường có nhắc đến hai chữ TÌNH nêu trên một cách thật lý thú như sau:

           竹 枝 詞                      TRÚC CHI TỪ 
 楊 柳 青 青 江 水 平, Dương liễu thanh thanh giang thủy bình,
 聞 郎 江 上 唱 歌 聲。 Văn lang giang thượng xướng ca thinh.
 東 邊 日 出 西 邊 雨, Đông biên nhật xuất tây biên vũ,
 道 是 無 晴 卻 有 晴。 Đạo thị vô tình khước hữu tình !

   * Tình 晴 : Tình nầy là NẮNG RÁO, vì có bộ NHẬT 日 là Mặt Trời bên trái. Chữ nầy ĐỒNG ÂM với chữ Tình 情 là TÌNH CẢM, TÌNH Ý, có bộ TÂM 忄là Lòng Dạ cũng ở bên trái, nên, HỮU TÌNH 有 晴 là CÓ NẮNG, đồng âm với HỮU TÌNH 有 情 là Có Tình Ý.

NGHĨA BÀI THƠ :
      Dương liễu xanh xanh soi mình trên dòng nước phẳng lặng, ta nghe tiếng của chàng cất giọng hát trên sông. Mặt trời đang ló dạng ở phía Đông với những tia nắng đầu ngày, nhưng phía bên trời Tây lại đổ mưa rào, cho nên, bảo là không có nắng, nhưng lại có nắng, nói là không có tình, nhưng lại có tình ý thật thiết tha!

DIỄN NÔM :
                    Xanh xanh dương liễu soi dòng nước,
                    Vẳng tiếng chàng ca sóng lặng thinh.
                    Tây đổ mưa rào Đông lại nắng,
                    Hữu tình người lại ngỡ vô tình !
      Lục bát :
                    Liễu xanh xanh nước mênh mang,
                    Trên sông nghe vẳng tiếng chàng hát ca.
                    Đông nắng Tây lại mưa sa,
                    Bảo là vô ý thì ra hữu tình !
       

       - XUÂN THỦY 春 水 là Nước mùa Xuân. Nước Xuân trong vắt tựa ánh mắt của các cô thôn nữ mộc mạc ngây thơ như lời thơ của Thôi Ngọc trong Đường Thi:

两 臉 夭 桃 從 镜 發, Lưỡng kiểm yêu đào tòng kính phát,
一 眸 春 水 照 人 寒。 Nhất mâu XUÂN THỦY chiếu nhân hàn.

Có nghĩa:
                       Má đào ửng đỏ trong gương
             Một làn XUÂN THỦY vấn vương lòng người.

     XUÂN THỦY là ánh mắt Xuân của các cô gái ngây thơ trong trắng, khác với THU THỦY 秋 水 là ánh mắt gợn buồn đa sầu đa cảm của các giai nhân tài hoa bạc mệnh như Thúy Kiều:

                  Làn THU THỦY, nét XUÂN SƠN,
          Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh!

     Làn THU THỦY 秋 水 là làn nước mùa Thu, trong veo, lạnh lùng mà se sắt dễ làm rung động và cũng dễ làm tê tái lòng người. Còn nét...

   - XUÂN SƠN 春 山 là Núi của mùa xuân, xanh biếc và rạng rỡ tràn đầy sức sống và gợi cảm như đôi mày liễu của giai nhân, như cụ Nguyễn Du đã tả về nhan sắc của Thúy Kiều là "Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh!"  XUÂN SƠN tự ngàn xưa đã được ví như là đôi mày liễu xanh mơn mởn của các giai nhân với câu nói:

 眼 如 秋 水,眉 似 春 山。Nhỡn như Thu thủy, My tự Xuân sơn.

Có nghĩa :
         - Mắt long lanh như nước mùa Thu, Mày xanh tươi như núi mùa Xuân.
   

   - XUÂN TÂM 春 心 là lòng Xuân, là tấm lòng tươi trẻ yêu đời và tràn đầy nhựa sống như mùa Xuân của các cô XUÂN NỮ 春 女 là các cô gái trẻ như lời bài hát Gái Xuân của Từ Vũ và Nguyễn Bính:

                  Em như cô gái hãy còn Xuân,
           Trong trắng thân chưa lấm bụi trần...

     Theo kinh Lễ Nhạc thì vào đời nhà Chu cứ đến tháng hai là tháng Trọng Xuân 仲 春 thì cho phép cưới gả, nên các cô gái với tình Xuân phơi phới cứ mong chờ cho đến tháng hai để được người mai mối đến dạm hỏi, nên gọi các cô là HOÀI XUÂN THIẾU NỮ 懷 春 少 女, là những cô gái Hoài Xuân đang khao khát tình yêu, là những cô gái đang muốn chồng! Trong Kinh Thi đời Tiên Tần chương Chiêu Nam 召 南 có câu:

                   有 女 懷 春,    Hữu nữ HOÀI XUÂN,
                   吉 士 誘 之.    Cát sĩ dụ chi !
 Có nghĩa:
                     Có cô con gái HOÀI XUÂN,
                Các chàng xúm xít tỏ lòng ước ao!
 
        Mùa Xuân mang lại sự sống và sức sống cho muôn loài muôn vật sau những tháng rụi tàn vì Đông hàn buốt giá, nên sức sống hồi phục trở lại gọi là HỒI XUÂN  回 春 để chỉ cái gì đó tưởng đã chết đi nhưng rồi sống lại đều được gọi là HỒI XUÂN kể cả tình cảm tình yêu và thể chất thể xác của con người, nên ta mới có thành ngữ Lão Giả Hồi Xuân 老 者 回 春 để chỉ những người đã già nhưng sức sống còn mạnh mẽ như lứa tuổi thanh niên. Ta có nhóm từ "Lứa Tuổi Hồi Xuân" vừa có ý tốt vừa có ý mĩa mai để chỉ những người đã đứng tuổi nhưng còn ham muốn dục vọng và sống như lứa tuổi thanh niên...
       Nhưng những ông thầy thuốc "mát tay", thầy thuốc giỏi có thể cải tử hồi sinh, cứu được người chết đi sống lại thì được xưng tụng là DIỆU THỦ HỒI XUÂN 妙 手 回 春 là bàn tay khéo léo có thể làm cho người tưởng đã chết đi lại được sống trở lại, như Hoa Đà, Biển Thước, và như Hải Thượng Lãn Ông của ta vậy.
      Ngày xưa các thư sinh sau mười năm đèn sách thì chỉ còn đợi những khoa XUÂN THÍ 春 試 là những khoa thi được hai triều đại Minh và Thanh mở ra cho sĩ tử ứng thí vào các mùa Xuân, như Kim Trọng và Vương Quan đã cùng thi đỗ trong một khoa XUÂN THÍ, nên trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du đã viết là:

                Chế khoa gặp hội tràng văn.
         Vương, Kim cùng chiếm BẢNG XUÂN một ngày.

      Vì khoa thi được mở vào mùa Xuân, nên bảng vàng đề tên các sĩ tử thi đỗ cũng được gọi là BẢNG XUÂN chữ Nho là XUÂN BẢNG 春 榜, tức là LONG HỔ BẢNG 龍 虎 榜  đó.      
         


      Ngày xưa thi đậu gọi là Bình Bộ Thanh Vân 平 步 青 雲, ta gọi là Nhẹ Bước Thang Mây, cụ Nguyễn Công Trứ thì tỏ ra rất đắc ý với "Đường mây rộng thênh thang cử bộ"; còn Mạnh Giao đời Đường thì gọi là XUÂN PHONG ĐẮC Ý 春 風 得 意 trong bài thơ Đăng Khoa Hậu 登 科 后 là "Sau khi Đăng Khoa" với hai câu cuối như sau:

 春 風 得 意 馬 蹄 疾,   XUÂN PHONG ĐẮC Ý mã đề tật,
 一 日 看 盡 長 安 花。  Nhất nhật khán tận Trường an hoa.
   
Có nghĩa :
                      Gió xuân đắc ý ngựa phi mau,
                      Xem hết Trường An hoa đủ màu.
              

       Hai câu thơ trên còn để lại hai thành ngữ cho đến hiện nay là XUÂN PHONG ĐẮC Ý 春 風 得 意 để chỉ sự vui vẻ đắc ý vì một thành đạt nào đó, và TẨU MÃ KHÁN HOA 走 馬 看 花 mà ta gọi là CỞI NGỰA XEM HOA để chỉ việc gì đó chỉ làm lấy có, làm qua loa cho xong việc mà thôi.

       Đón Xuân, mừng Xuân, chúc cho tất cả mọi người đều XUÂN PHONG ĐẮC Ý 春 風 得 意 và cả năm luôn luôn được MÃN DIỆN XUÂN PHONG 滿 面 春 風 là mặt mày luôn luôn tươi vui như đang chào đón gió Xuân vậy.  

                                                          杜 紹 德
                                                      Đỗ Chiêu Đức 








Không có nhận xét nào: