Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2022

Góc Việt Thi : Thơ Xuân Cao Bá Quát (phần 1) (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Thi : 

           Thơ Xuân Cao Bá Quát (phần 1)
                
                        
    
1. Bài thơ AN QUÁN TẢO XUÂN (Kỳ 1) : 

安 館 早 春 (其 一)      AN QUÁN TẢO XUÂN (Kỳ nhất)

三 更 鐘 斷 雞 咿 喔,    Tam canh chung đoạn kê y ốc,
落 落 數 家 聞 爆 竹。    Lạc lạc sổ gia văn bộc trúc.
出 門 倦 倚 立 門 看,    Xuất môn quyển ỷ lập môn khan,
路 少 燈 行 室 稀 燭。    Lộ thiểu đăng hành thất hi chúc.
         高 伯 适                            Cao Bá Quát

                                         

* Chú thích :
    - Y Ốc 咿 喔 : Từ Tượng thanh dùng để diễn tả tiếng gà EO-ÓC gáy.
    - Lạc Lạc 落 落 : là Lác đác, là thưa thớt.
    - Sổ 數 : Tính từ chỉ số lượng, SỔ là Một vài; Động từ là Đếm; Danh từ đọc là SỐ : là Con số , chữ số.
    - Bộc Trúc 爆 竹 : Bộc là nổ, trúc là tre. BỘC TRÚC là tiếng tre nổ, nói đúng hơn là "tiếng mắt tre nổ."  Ngày xưa, chưa có pháo, người ta đốt các mắt tre già ở dưới gốc cho nó nổ thành tiếng để xua tan những xui xẻo, buồn lo... của năm cũ cho nó qua đi. Sau nầy, khi chế tạo được pháo rồi, nhưng vì Tập Quán Ngôn Ngữ đã quen, người ta vẫn dùng từ Bộc Trúc để chỉ pháo luôn. Cho nên khi dịch từ Bộc trúc,  phải biết đó là PHÁO, chứ không phải tiếng tre nổ nữa! 
    - Quyển Ỷ 倦 倚 : Vẻ mỏi mệt mà dựa vào (cái gì đó...)
    - Chúc 燭 : là ngọn đuốc, ngọn nến hay ngọn đèn... trong nhà.

* Nghĩa bài thơ :
                        XUÂN SỚM Ở AN QUÁN (bài 1)
        Tiếng chuông trống canh ba vừa điểm xong thì tiếng gà cũng bắt đầu eo- óc gáy. Lác đác mấy nhà xa xa đã nghe tiếng pháo đì đẹt nổ. Bước ra đứng tựa cửa uể oải lặng ngắm cảnh đêm giao thừa, trên đường đã thưa người chong đèn đi lại mà trong nhà cũng chỉ leo lét có một ngọn nến mà thôi!

* Diễn Nôm :
                   AN QUÁN TẢO XUÂN (Kỳ nhất)
               
                     

                   Tiếng gà eo-óc trống canh ba,
                   Lác đác pháo tre vẳng mấy nhà. 
                   Ra cửa mỏi mòn trông cảnh trí,
                   Đèn vắng đường thưa nến lập lòa !
      Lục bát :
                   Tiếng gà eo-óc canh ba,
                   Pháo tre lác đác mấy nhà vọng sang.
                   Cảnh đêm tựa cửa bàng hoàng,
                   Đường thưa người vắng chập choàng nến đêm.
                                     Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

2. Bài thơ AN QUÁN TẢO XUÂN (Kỳ 2) : 

安 館 早 春 (其 二)        AN QUÁN TẢO XUÂN (Kỳ 2)

客 話 當 初 繁 盛 時,    Khách thoại đương sơ phồn thịnh thì,
粉 墻 朱 戶 照 江 湄。    Phấn tường chu hộ chiếu giang my.
即 今 春 早 銜 泥 燕,    Tức kim xuân tảo hàm nê yến,
猶 倚 胡 家 門 裡 飛.     Do ỷ Hồ gia môn lý phi.
               高 伯 适                            Cao Bá Quát

                                 


* Chú thích :
    - Đương Sơ 當 初 : là Lúc ban đầu, là Trước đây.
    - Phấn Tường Chu Hộ 粉 墻 朱 戶 : là Tường quét vôi trắng như bột phấn, cửa sơn màu chu đỏ như son: Chỉ nhà giàu ngày xưa.
    - Giang My 江 湄 : là Ven sông, bờ sông , bến sông.
    - Tức Kim 即 今 : Như hiện nay, Hiện nay đây.
    - Hàm Nê 銜 泥 : là Ngậm bùn; HÀM NÊ YẾN 銜 泥 燕: là Chim Én ngậm bùn để làm tổ, chỉ sự phồn vinh và đầm ấm của một gia đình đang thịnh vượng. Hai câu thơ chót lấy ý của hai câu thơ cuối trong bài Ô Y Hạng 烏 衣 巷 của Lưu Vũ Tích 劉 禹 錫: 

  舊 時 王 謝 堂 前 燕,  Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
  飛 入 尋 常 百 姓 家.   Phi nhập tầm thường bách tính gia.
    Có nghĩa:
              Chim én ngày xưa ở hai nhà Vương, Tạ, thì giờ đã bay vào nhà của những bá tánh bình thường hết cả rồi !
   - Hồ Gia 胡 家 : là nhà họ Hồ. HỒ là một họ lớn đứng hàng thứ 13 trong Bách gia tính 百 家 姓, nên cũng có thể dùng để chỉ chung các dân chúng bình thường sống chung quanh làng xóm.

* Nghĩa bài thơ :
                       XUÂN SỚM Ở AN QUÁN (bài 2)
        Khách nói rằng: Trước đây khi nơi nầy còn phồn thịnh, thì cửa son đỏ loét tường phấn trắng tinh phản chiếu lấp lánh bên ven sông. Như hiện nay Xuân về sớm và các con én cũng đã ngậm bùn để làm tổ bay vào cửa của các nhà dân bình thường khác cả rồi!
       Bài thơ cảm khái trước cảnh tang thương biến đổi, vật đổi sao dời nhưng thiên nhiên thì vẫn vô tình dửng dưng, mùa Xuân vẫn cứ đến sớm mặc cho cảnh trí đã đổi thay, lại làm cho ta nhớ đến hai câu thơ của Sầm Tham 岑 參 trong bài SƠN PHÒNG XUÂN SỰ 山 房 春 事 là:

  庭 樹 不 知 人 去 盡,    Đình thọ bất tri nhân khứ tận,
  春 來 還 發 舊 時 花。    Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.
    Có nghĩa :
                 Cây vườn chẳng biết người đi hết,
                 Xuân về vẫn trổ những hoa xưa !

       Thiên nhiên qủa vô tình đến dửng dưng trước cuộc thế tang thương biến đỗi!
                  
                        

* Diễn Nôm :
                    AN QUÁN TẢO XUÂN (Kỳ 2)
                 
               

                 Khách bảo lúc xưa khi phồn thịnh, 
                 Cửa son tường phấn chiếu ven sông.
                 Như nay Xuân đến bầy chim én...
                 Ngậm bùn làm tổ cửa nhà dân !
      Lục bát :
                 Khi xưa phồn thịnh nơi đây,
                 Cửa son tường trắng ánh đầy ven sông.
                 Nay thì Xuân đến vắng không,
                 Ngậm bùn chim én bay vòng nhà dân !
                                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm 

3. Bài thơ XUÂN DẠ ĐỘC THƯ :

  春 夜 讀 書                   Xuân Dạ Độc Thư
             
今 人 不 見 古 時 春,     Kim nhân bất kiến cổ thời xuân 
惆 悵 今 春 對 古 人。     Trù trướng kim xuân đối cổ nhân. 
世 事 幾 何 今 不 古,     Thế sự kỷ hà kim bất cổ, 
眼 前 莫 認 幻 為 真。     Nhỡn tiền mạc nhận huyễn vi chân 
幾 多 名 利 終 朝 雨,     Kỷ đa danh lợi chung triêu vũ, 
無 數 英 雄 一 聚 塵。     Vô số anh hùng nhất tụ trần. 
自 笑 俗 拘 拋 未 得,     Tự tiếu tục câu phao vị đắc, 
邇 來 攜 卷 太 諄 諄。     Nhĩ lai huề quyển thái truân truân.
         高 伯 适                                 Cao Bá Quát
     
                    
  
* Chú Thích :
  - Độc Thư 讀 書 : là Xem Sách mà cũng có nghĩa là Học Hành nữa, vì ngày xưa Xem Sách tức là đang Học Tập.
  - Trù Trướng 惆 悵 : là Do dự, Ngập ngừng, là Chần chừ Ngơ Ngẩn.
  - Huyễn Vi Chân 幻 為 真 : là Lấy ảo làm thực, lấy huyễn hoặc làm thực tế.
  - Triêu Vũ 朝 雨 : là Mưa buổi sáng.
  - Tụ Trần 聚 塵 : là Bụi phủ, Bụi mờ.
  - Tục Câu 俗 拘 : Tục ở đây có nghĩa là Thói Thường, nên Tục Câu có nghĩa là những câu nệ tầm thường, những thói xấu tầm thường khó bỏ. PHAO VI ĐẮC là Không dứt bỏ được. 
  - Nhĩ lai 邇 來 : là Gần đây, là Dạo nầy.
  - Huề Quyển 攜 卷 : là Cầm quyển sách lên, ý chỉ Học tập. 
  - Truân Truân 諄 諄 : là Cần mẫn, Chăm chỉ.

* Nghĩa Bài Thơ :
                           Đọc Sách Đêm Xuân
          Người của ngày hôm nay không thấy được mùa Xuân của thuở xưa, nên giờ ta đang ngẩn ngơ trước mùa Xuân hôm nay mà đối mặt với người xưa trên sách vở. Chuyện đời biết như thế nào mà nói, vì hôm nay chứ không phải ngày xưa nữa, nên đừng có nhận lầm những cái huyễn hoặc trước mắt là thực tế (mà phải phân biệt cho rõ ràng). Biết bao nhiêu danh lợi chỉ đến trong đêm như một giấc mộng, rồi kết thúc bằng một trận mưa sáng trôi đi tất cả, cũng như vô số anh hùng tụ hợp rồi cũng tan biến như lớp bụi mờ. Ta tự cười mình vì cái tật xấu xưa nay không bỏ đi được, nên gần đây hễ cứ cầm quyển sách lên là cứ đọc một cách chăm chỉ như ngày xưa vậy !

         Biết được rằng Xưa không phải là Nay nữa, Xuân xưa khác xuân nay và Chuyện xưa cũng khác với Chuyện ngày nay, bằng chứng là biết bao danh lợi chỉ thoáng qua như giấc mộng trong đêm, anh hùng hào kiệt rồi cũng tan biến như bụi trần. Biết thế, mà vẫn cứ thế, hễ cầm được quyển sách lên là lại cứ muốn chăm chỉ mà học tập theo gương của người xưa, để làm gì?! Vì rốt cuộc cũng có được gì đâu?! Cao Bá Quát vừa cười mình ngớ ngẩn có thói quen xấu khó bỏ, lại vừa đề cao mình là người luôn luôn chăm chỉ học tập mặc dù biết rằng đọc sách chỉ là nhại lại những cái bã của cổ nhân!

* Diễn Nôm :

                     Xuân Đọc Sách Xưa
              
                          

               Người nay chẳng thấy được Xuân xưa,
               Ngơ ngẩn Xuân nay trước cổ thư.
               Bao nả chuyện đời kim khác cổ,
               Chớ lầm trước mắt thực làm hư.
               Biết bao danh lợi theo mưa sáng,
               Vô số hùng anh khuất bụi mờ.
               Thói xấu cười mình không bỏ được,
               Hễ cầm quyển sách cứ khư khư !
Lục bát :
               Người nay không thấy Xuân xưa,
               Xuân nay ngơ ngác người xưa đâu rồi.
               Chuyện đời kim cổ đổi dời,
               Chớ lầm hư thực thực rồi hóa hư.
               Lợi danh như sáng mưa thu,
               Anh hùng bao kẻ mịt mù trần ai.
               Cười mình tật cũ khó phai,
               Quơ nhằm quyển sách miệt mài thâu canh.
                                   Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

         Hẹn bài viết tới :
                                   Thơ xuân của CAO BÁ QUÁT phần 2.

                                           杜 紹 德
                                        Đỗ Chiêu Đức







Không có nhận xét nào: