Tạp Ghi và Phiếm Luận :
NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ NGÀY XUÂN
元 旦 節 Tết Nguyên Đán
TẾT là do chữ TIẾT 節 đọc trại ra mà thành. Theo "Chữ Nho... Dễ Học" TIẾT thuộc dạng chữ Hài thanh theo diễn tiến của chữ viết như sau:
Kim văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư
Ta thấy:
Chữ TIẾT 節 phần dưới là chữ TỨC 即 chỉ Âm, phần trên là bộ TRÚC 竹 chỉ Ý, nên TIẾT có nghĩa gốc là các Mắt (đốt, lóng) của cây Tre; Nghĩa rộng là các đốt, các lóng, các mắt của thực vật; nghĩa rộng hơn nữa là "Các phần nhỏ của sự vật hay sự việc" nào đó như "Mỗi năm chia làm 12 tháng, mỗi tháng có 2 TIẾT, vị chi một năm có 24 TIẾT như sau:
- Tháng Giêng có 2 TIẾT: Lập xuân 立 春, Vũ thủy 雨 水.
- Tháng Hai có 2 TIẾT : Kinh trập 驚 蟄, Xuân phân 春 分.
- Tháng Ba có 2 TIẾT : Thanh minh 清 明, Cốc Vũ 穀 雨.
- Tháng Tư có 2 TIẾT : Lập hạ 立 夏, Tiểu mãn 小 滿.
- Tháng Năm có 2 TIẾT: Mang chủng 芒 種, Hạ chí 夏 至.
- Tháng Sáu có 2 TIẾT : Tiểu thử 小 暑, Đại thử 大 暑.
- Tháng Bảy có 2 TIẾT : Lập thu 立 秋, Xử thử 處 暑.
- Tháng Tám có 2 TIẾT: Bạch lộ 白 露, Thu phân 秋 分.
- Tháng Chín có 2 TIẾT: Hàn lộ 寒 露, Sương giáng 霜 降.
- Tháng Mười có 2 TIẾT: Lập đông 立 冬, Tiểu tuyết 小 雪.
- Tháng Mười Một có 2 TIẾT: Đại tuyết 大 雪, Đông chí 冬 至.
- Tháng Mười Hai có 2 TIẾT: Tiểu hàn 小 寒, Đại hàn 大 寒.
24 TIẾT nêu trên được gọi là KHÍ TIẾT 氣 節, có nghĩa là Khí hậu và thời tiết căn cứ theo mùa màng của Âm lịch để trồng trọt canh tác, trong đó có TIẾT THANH MINH 清 明 節 vừa là Khí hậu thời tiết lại vừa là một trong những ngày LỄ TIẾT 禮 節 trong năm. LỄ TIẾT là những cột móc, là những ngày LỄ theo truyền thống và phong tục tập quán của từng địa phương hay dân tộc, được gọi trại thành những ngày LỄ TẾT trong năm. Ngoài TẾT "THANH MINH trong Tiết tháng Ba" ra, ta còn có TẾT ĐOAN NGỌ 端 午 節 (Mùng 5 tháng 5), TẾT TRUNG THU 中 秋 節 (ngày Rằm tháng Tám), TẾT TRÙNG CỬU (hay TRÙNG DƯƠNG) 重 陽 節 (Mùng 9 tháng 9), TẾT NGUYÊN TIÊU 元 宵 節 (ngày Rằm tháng Giêng) và quan trọng nhất là TẾT NGUYÊN ĐÁN 元 旦 節 ngày Mồng một tháng Giêng. Tóm lại, TIẾT khi được gọi là
- KHÍ TIẾT 氣 節 thì có nghĩa là Khí hậu và thời tiết của mùa màng trong một năm.
(Trong chữ Nho của ta KHÍ TIẾT còn có nghĩa là "Nghĩa khí và Tiết Tháo" của kẻ sĩ).
Còn khi được gọi là:
- LỄ TIẾT 禮 節 thì có nghĩa là những ngày LỄ TẾT ở trong năm .
Trở lại với từ TẾT NGUYÊN ĐÁN .
* NGUYÊN 元 là Bắt đầu, là Đứng đầu, là Thứ nhất... nên ngày xưa người đứng đầu các Tiến Sĩ được gọi là TRẠNG NGUYÊN 狀 元. Ngoài ra còn có các từ mà ta thường gặp như:
- NGUYÊN SOÁI 元 帥 Người đứng đầu của Tam quân ngày xưa .
- NGUYÊN THỦ 元 首 Người đứng đầu một nước, như Tổng thống, Thủ Tướng...
- NGUYÊN KHÍ 元 氣 Cái khí chất tinh lực vốn có của con người và của trời đất.
- NGUYÊN NIÊN 元 年 là Cái năm đầu tiên của một triều đại hay chế độ nào đó.
- NGUYÊN ĐÁN 元 旦 là Ngày đầu tiên trong tháng hoặc trong năm. ĐÁN 旦 được ghép bởi chữ NHẬT 日 đứng trên chữ NHẤT 一, với hàm ý là Mặt trời đã mọc lên khỏi mặt đất, nên nghĩa gốc của chữ ĐÁN là BUỔI SÁNG, bắt đầu cho một ngày, nên cũng có nghĩa là NGÀY. ĐÁN 旦 cũng là Ngày đầu của một tháng Âm lịch tức ngày Mồng Một, đối với ngày Rằm (15) trong tháng gọi là ngày VỌNG 望 nên ...
TẾT NGUYÊN ĐÁN 元 旦 節 là ngày Lễ Tết lớn nhất trong năm, vì nó vừa bắt đầu cho một Ngày Mới, một Tháng mới và cả một Năm Mới nữa! Vì vậy mà ta thấy trong ngày Tết đầu năm, ông bà xưa hay viết câu chữ mà cũng là câu đối sau đây dán ở trước cổng chính:
一 元 復 始, Nhất nguyên phục thủy,
萬 象 更 新。 Vạn tượng canh tân .
Có nghĩa :
- Một vòng nguyên khí của đất trời lại PHỤC THỦY là vận hành bắt đầu trở lại, và...
- Muôn ngàn hiện tượng trong trời đất lại bắt đầu CANH TÂN là đổi mới trở lại.
Trời đất cây cỏ núi sông đổi mới sau những tháng đông hàn lạnh lẽo, thì con người cũng nên có cuộc sống mới, nếp sống mới, suy nghĩ mới, làm ăn mới... cho phù hợp và thích ứng với những ngày tháng mới; một sự đổi mới thuận lợi của đầu năm thì đã là dấu hiệu của thành công một nửa rồi! Vì nó sẽ mở ra một vận hội mới như câu...
TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三 陽 開 泰
Theo sách Chu Dịch 周 易, sau tiết Đông Chí 冬 至 thì khí âm hàn bắt đầu tiêu thoái, và khí dương thì bắt đầu sanh trưởng, ta thường nghe các Thầy Bói gọi là Âm Tiêu Dương Trưởng 陰 消 陽 長, đêm sẽ ngắn dần, ngày sẽ dài thêm ra, cho nên Tháng Mười Một là tháng Tý, thuộc quẻ Phục 復 là Nhất Dương Sanh, Tháng Mười Hai là Tháng Sửu, thuộc quẻ Lâm 臨 là Nhị Dương Sanh, và Tháng Giêng là Tháng Dần, thuộc quẻ Thái 泰 là Tam Dương Sanh. Vì thế nên Tết Nguyên Đán là ngày đầu của tháng Giêng mới dùng câu TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三 陽 開 泰 mà chúc mừng cho năm mới mở ra vận hội mới, lấy Ý chữ Thái là Lớn, là Thông, như trong tiếng Việt ta thường nói "Hết vận Bỉ rồi thời lại Thái", hoặc "Bỉ cực thì Thái lai" và "Hết cơn Bỉ Cực, đến hồi Thái lai". Có nghĩa: Hết lúc Bế tắt, nghèo khó thì đến lúc Hanh thông, khá giả!
Vì 2 chữ Dương 陽 là Âm Dương và 羊 Dương là Con Dê đồng âm với nhau, nên ta thường gặp những bức tranh vẽ hình 3 con dê thay thế cho khí dương của trời đất mà chúc nhau bằng câu Tam Dương Khai Thái như ta thường trông thấy!
Đối với TAM DƯƠNG KHAI THÁI là một câu nói lên mơ ước trong ngày Tết, đó là:
NGŨ PHÚC LÂM MÔN 五 福 臨 門
Có nghĩa :
- Năm điều Phước sẽ LÂM MÔN là đến trước cửa nhà. Vậy 5 điều phước đó là gì?
Theo truyền thống xã hội ngày xưa: Năm cái PHƯỚC đó là: Thọ, Phú, Khang ninh, Du hảo đức ,và Khảo chung mệnh. 五 福是:寿,富,康 寜,攸 好 德,考 终 命。có nghĩa: Sống lâu, giàu có, mạnh khỏe, có Đức tốt, và chết an lành là Thiện chung đó. Nói cho gọn là: Thọ 壽, Phú 富, Khang 康, Đức 德 và Thiện 善. Đó là 5 cái phước mà mọi người thời xưa đều mong mỏi. Còn bây giờ thì sao? Xã hội ngày một thay đổi và tiến hóa, nên mơ ước mong mỏi của con người cũng có khác. Theo sưu tầm tìm thấy trên mạng thì NGŨ PHÚC của hiện nay là: Hòa hài 和 諧,Hưng vượng 興 旺,Phú qúy 富 貴,Bình an 平 安,Kiện khang 健 康。có nghĩa: Gia đình hòa thuận, Làm ăn phát đạt, Trở nên giàu sang, Gia đình bình an, và Mọi người đều khỏe mạnh. Rất thực tế và rất phù hợp với cuộc sống của xã hội trước mắt.
Trong ngày xuân ngày Tết, khi TAM DƯƠNG đã KHAI THÁI rồi, thì mọi người lại mong được NGŨ PHÚC LÂM MÔN. Đó là lẽ thường tình của con người, nên người ta lại tìm những hoa cỏ có đặc trưng cho những mong ước đó. Vì thế, ta lại thường thấy hai câu:
梅 開 五 福, Mai khai ngũ phúc,
竹 報 三 多。 Phúc báo tam đa.
Có nghĩa:
- Hoa Mai nở ra 5 cánh tượng trưng cho NGŨ PHÚC là 5 thứ phước; còn...
- Lá Tre mọc từng phần 3 lá một, tượng trưng cho TAM ĐA là 3 thứ nhiều, nên...
TRÚC BÁO TAM ĐA 竹 報 三 多 là chỉ: Một chi nhỏ của nhánh trúc thường có 3 lá, như điềm báo mang đến 3 cái nhiều (Tam Đa) mà người ta thường mong mỏi. Đó là: Đa Phúc, Đa Thọ, Đa Nam Tử 三 多 是:多 福,多 寿,多 男 子。Nhiều phước, nhiều thọ, nhiều con trai. Ngày xưa PHƯỚC THỌ là trên hết, nhiều con trai lại càng qúy hơn với cái xã hội nông nghiệp. Có nhiều con trai sẽ có nhiều sức lao động, mặc sức mà khai hoang lập ấp, canh tác để làm giàu, nên trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu:
有 兒 貧 不 久, Hữu nhi bần bất cửu,
無 子 富 不 長。 Vô tử phú bất trường.
Có nghĩa:
- Có con thì nghèo không lâu, vì con lớn lên sẽ giúp làm ra thêm tài sản, còn...
- Không có con thì giàu không bền, vì không có ai giúp làm ra thêm của cải vật chất cả.
Cuối cùng là câu chúc mà ta cũng rất thường thấy trong ngày TẾT, đó là câu :
花 開 富 貴, Hoa khai phú qúy,
竹 報 平 安。 Trúc báo bình an.
Có nghĩa:
- Mùa xuân hoa nở đẹp rực rỡ, tượng trưng cho sự Phú Qúy, và...
- Cây trúc luôn luôn xanh tươi trong mùa đông giá rét, tượng trưng cho sự bình an khoẻ mạnh.
Hoa Mẫu đơn, hoa Thược dược, hoa Tường vi đều tượng trưng cho sự Phú Qúy, còn tre trúc là một trong Tuế Hàn Tam Hữu 歲 寒 三 友 là TÙNG TRÚC MAI 松 竹 梅 tượng trưng cho sự mạnh khoẻ bình an, vì vẫn luôn xanh tươi trong mùa đông tháng giá.
Xin được triển khai đôi câu nói nầy thành đôi liễn chúc Tết như sau:
花 開 富 貴 今 年 貴, Hoa khai phú qúy kim niên qúy,
竹 報 平 安 此 歲 安。 Trúc báo bình an thử tuế an!
Có nghĩa:
- Hoa nở tượng trưng cho sự phú qúy, năm nay sẽ được phú qúy;
- Tre trúc báo hiệu cho sự bình an, năm nay sẽ được bình an!
Cầu mong cho tất cả mọi người đều được BÌNH AN, PHÚ QÚY trong năm QÚY MÃO nầy! Mong lắm thay!
Hẹn bài viết tới !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét