Thứ Bảy, 8 tháng 7, 2023

Những Tháng Ngày Khó Quên (Tiếp theo): Kỷ Niệm Thời Thơ Ấu, Thời Học Sinh và Những Người Thầy - (Trần Văn Dật)

 Kỷ Niệm Thời Thơ Ấu, Thời Học Sinh,

                                 Và Những Người Thầy

                                              ***

(Riêng tặng Lý Văn Nghiên và Nguyễn Bá Yên)

Mới đây tôi ở Vĩnh Long lên Sài Gòn dự đám giỗ Ba tôi được tổ chức hàng năm tại nhà người anh cả. Nhân một buổi chiều đi bộ (tập thể dục) từ nhà con gái tôi ở đường Hồ Biểu Chánh, Phú Nhuận, tôi ra Nguyễn Văn Trỗi rồi bẻ xuống Huỳnh Văn Bánh (trước đây là Nguyễn Huỳnh Đức), vì tôi muốn đi ngang qua số nhà 63 (Huỳnh Văn Bánh), nơi Ba tôi đã mất vào năm 1992. Căn nhà này bây giờ thuộc chủ khác. Bởi Ba Mạ tôi cho đứa gái út ngôi nhà, và sau một thời gian ở, em tôi đã bán để mua một nơi khác xây cất rộng rãi hơn. Tôi vừa đi vừa nghĩ đến Ba tôi rồi rẽ phải qua đường Phan đình Phùng và vào Nhà sách Phú Nhuận. Tôi đi thẳng tới khu chứa sách văn học và sử học. Sau khi để mắt lướt qua một lượt những nhan đề sách và tác giả, tôi sung sướng cầm lên cuốn “Huyền Thoại Về Danh Lam Xứ Huế” của Thầy Bửu Kế. Cũng như năm 2004, vào một nhà sách thấy “Từ Điển Hán Việt Từ Nguyên” đồ sộ của Thầy Bửu Kế với giá rất cao (theo với lúc đó), tôi vẫn mua về. Tiếc là cuốn Từ điển này ra đời khi Thầy đã mất, do đó, người biên tập, người sửa “mô-rát” (morasse) có lẽ không cẩn thận lắm, nên đã viết sai và để sót rất nhiều từ, làm giảm giá trị tác phẩm và làm mất uy tín của Thầy không ít. Bởi trước năm 1975, những sách và dịch phẩm của Thầy đã in, đều có giá trị cao về mặt văn học và Thầy đã được nhiều giải thưởng. Trong đó “Tầm Nguyên Từ Điển” đã giúp cho tôi rất nhiều khi tôi viết hai cuốn “Từ Điển Vần Bằng Tiếng Việt” và “Từ Điển Vần Trắc Tiếng Việt”. Tôi thường nói với bạn bè, Thầy Bửu Kế cũng như Thầy Phan Văn Dật mới xứng danh là những “Nhà Huế học”. Anh Nguyễn Q. Thắng- em ruột của Phạm Liễu (đã mất), sinh viên khóa 1 Viện Hán học - tác giả nhiều công trình văn học đã “phàn nàn”: “Gần đây có một số nhà báo trẻ chưa đọc tác phẩm Bửu Kế mà chỉ đọc đôi cuốn sách nhỏ về Huế viết một cách quá đơn giản, thiếu căn cứ mà vung bút một cách rất chi thiếu tư liệu khoa học mà gọi ông này là nhà Huế học, ông nọ là nhà Hà Nội học rất tùy tiện và rất ư tùy… hứng” và anh Thắng đã kết luận: “Chúng ta có thể gọi Ông (tức Thầy Bửu Kế) là một “Nhà Huế học” chân chính của Việt Nam, vì thực chất, Bửu Kế đã giúp độc giả thấy được diện mục cố đô và các vua triều Nguyễn” (Văn Học Việt Nam- Tập 2, NXB Thuận Hóa 2007).

Tại Viện Hán Học, tôi được học với Thầy Bửu Kế về môn Văn Minh Học Triều Nguyễn ở năm thứ năm,  trong khi có lớp học Anh Văn với Thầy từ năm thứ nhất. Thỉnh thoảng vào giờ ra chơi, tôi đứng trò chuyện với Thầy ở hành lang, và có lần, tôi đã yêu cầu Thầy sớm cho xuất bản những tác phẩm về Văn Minh Học của Thầy. Nhưng hình như mãi sau những năm 1990, “thời mở cửa”, những tác phẩm đó mới được con Thầy cho in  khi Thầy đã mất?

Năm 1965, ra trường, tôi được bổ dạy ở Nữ Trung học Quy Nhơn. Một hôm, nhân đọc tờ tạp chí có đăng bài của Thầy Bửu Kế nói về những lỗi trong “Việt Nam Tân Từ Điển” của Thanh Nghị và Thầy có ý định viết một Từ Điển Tiếng Việt, tôi nảy ra ý thu gom các từ địa phương – những vùng miền tôi đã ở, đã qua - viết theo mẫu tự A,B,C… có giải nghĩa, chẳng hạn như: Nẫu: Người ta (Nẫu nói : Người ta nói); Xứ Nẫu: Chỉ vùng Bình định, Phú Yên. Nậy: Lớn. Côi: Trên (Côi nớ: Trên ấy) v.v… Rồi khi nào khá nhiều từ, tôi sẽ gởi ra cho Thầy để Thầy bổ sung vào Từ Điển Tiếng Việt. Bấy giờ Thầy đang làm Quản Thủ Thư viện Huế. Tôi đã gom và viết được một quyển vở 100 trang. Nhưng tiếp theo là do chuyện lính tráng, chuyện vợ con và nhất là “biến cố 1975”, ý nguyện của tôi đối với Thầy không thực hiện được, rồi di chuyển, “chạy loạn”, thay nhà đổi cửa… nên tác phẩm cỏn con đó cũng “bay” đâu mất!

Ngoài việc soạn từ điển, khảo cứu, dịch thuật, viết văn, Thầy Kế còn làm thơ nữa và đã được hai giải thưởng (về thơ): một của Đài Phát Thanh Pháp Á và một của Hà Thành Ngọ Báo. Thầy có tập thơ “Hoa Đầu Mùa” (chưa xuất bản). Chúng ta đọc đôi vần thơ sau để thấy tâm hồn lãng mạn của Thầy:

Cần Chi Nữa

Cần chi nữa! Ôi còn cần chi nữa!

Được em yêu thôi thế đã vừa rồi

Tâm hồn anh nay đã bớt mồ côi,

Lò than nóng sưởi bàn tay giá lạnh.


Anh nào khác kẻ bộ hành hiu quạnh,

Chân nặng nề lê giữa gió mưa to.

Em hiện lên như cả một vầng ô,

Khắp vũ trụ hào quang gieo rực rỡ.


Cần chi nữa! Ôi còn cần chi nữa!

Được em yêu, thôi thế đã vừa rồi.

Tình yêu đương tưởng tắt từ thuở xa xôi,

Phút nhóm lại như lửa tàn gặp gió.


Anh chẳng thiết: giàu sang hay nghèo khó,

Lòng ham danh mến lợi đã tiêu tan.

Anh dửng dưng với cảnh sắc của trần gian,

Với tất cả thanh âm trong vũ trụ.


Xuân đằm thắm hay là đông ủ rũ,

Anh lạnh lùng để mặc tháng ngày trôi.

Được em yêu, thôi thế đã vừa rồi.

Cần chi nữa! Ôi còn cần chi nữa!


                                     Bửu Kế

Định Mệnh


Hôm ấy đừng chung một chuyến tàu,

Mắt tình trốn tránh chẳng nhìn nhau, 

Má không ửng đỏ vì e thẹn,

Đâu có bây giờ chuyện khổ đau.


Tim chỉ kề tim có một lần,

Tay cầm một bận để cầu thân,

Cũng thừa lưu lại muôn năm nhớ,

Một chút hương nồng của ái ân.


Một buổi yêu đương, vạn buổi sầu,

Nhưng ai ngăn cản được lòng đâu?

Nàng , ta trong lúc trao duyên thắm,

Biết sẽ xa nhau đến bạc đầu.


Tình của đôi ta chỉ thế thôi,

Gần trong giây lát để xa xôi,

Đừng tham nhiều quá, đòi nhiều quá,

Thôi thế nàng ơi! Cũng đủ rồi.


Biết tránh làm sao được hỡi trời!

Một khi ĐỊNH MỆNH buộc người chơi,

Hãy tìm khuây lảng trong an ủi,

Khi đã vô duyên cả cuộc đời.

                             Bửu Kế

Một số tác phẩm của Thầy:

  • Nếp Nhà (Truyện ngắn, giải thưởng văn chương của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1953).

  • Thằng Người Gỗ (Truyện dịch, giải nhất của Hội Phụ Huynh Học Sinh toàn quốc, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1952).

  • Tầm Nguyên Từ Điển (NXB Nam Cường, Sài Gòn, 1955).

  • Nguyễn Triều Cố Sự (NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1956).

  • Từ Điển Hán Việt Từ Nguyên (NXB Thuận Hóa, Huế, 1999).

  • Huyền Thoại Về Danh Lam Xứ Huế (NXB Thuận Hóa, Huế, 2012).v.v… 

Và nhiều chuyên đề về kinh thành Huế in trên các tạp chí như:

  • Kinh Thành Huế (Tạp chí Đại học Huế, 1961).

  • Lễ Tế Giao (Tạp chí Đại Học Huế, 1964).

  • Vua Đồng Khánh Thăng Hà, Vua Thành Thái Lên Ngôi (Tạp chí Đại Học Huế, 1962).

  • Các Nghi Lễ Triều Đình Huế (Tập San Sử Địa, Sài Gòn, 1967).

  • Lăng Tự Đức (Tạp chí Đại Học Huế, 1963).v.v…

Hôm nay ngồi đọc “Huyền Thoại Về Danh Lam Xứ Huế” của Thầy Bửu Kế, không những tôi nghĩ về Thầy mà nghĩ đến những Thầy khác ở Viện Hán Học rồi tự nhiên đồng loạt tưởng nhớ tới quí Thầy xa xưa, từ Tiểu học, Trung học… như cả một thời quá khứ tuổi thơ ập về bên những người Thầy thân thương mang dấu kỷ niệm…

           *           *

                                                                          *

Ba tôi làm tại Ty Lục Lộ (tên gọi Sở Công Chánh thời Pháp thuộc. Lục Lộ nghĩa là đường bộ, ngành chuyên xây dựng, quản lý cầu đường). Cả gia đình tôi ở Thị xã Quảng Trị, nhưng ở quê, Ba tôi cũng xây một ngôi nhà lớn, nửa Tây nửa ta, giữa một vườn rộng. “Plan” (họa đồ) do Ba tôi vẽ. Khi Việt Minh nắm chính quyền rồi Pháp trở lại chiếm Thị xã Quảng Trị, gia đình tôi chạy về quê. Bấy giờ tôi còn nhỏ lắm, độ năm, sáu tuổi. Tôi bắt đầu đi học ở tại làng.Trong làng chỉ có độc nhất một lớp a,b,c cho trẻ. Chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc ghế dài, ngắn đủ kiểu bên mấy cái bàn to, nhỏ, cao, thấp khác nhau sắp thành dãy dài và chúng tôi quay đầu một bên nhìn lên tập đọc theo thầy những chữ thầy viết trên bảng (tức là dãy bàn thẳng góc với cái bảng). Chúng tôi - độ mười mấy đứa - học tại đình làng đã bị đập trống vách và mái lấy gần hết ngói (vì bấy giờ theo lệnh Việt Minh, những nhà xây, lợp ngói phải đập phá gọi là “tiêu thổ kháng chiến”, “vườn không nhà trống”, để giặc Pháp không còn chỗ ẩn nấp bắn Việt Minh. Nhà tôi cũng bị đập cái lớn, còn ở cái nhỏ). Thầy giáo dạy chúng tôi là một trợ giáo. Tôi gọi là “Bác Trợ Quế”, anh em thúc bá với Ba tôi. Bác tánh tình hiền lành nhưng nghiêm nghị. Ngoài dạy chữ, Bác còn kể chuyện này chuyện nọ với mục đích cho chúng tôi biết cách xử thế. Bấy giờ mặc dù chỉ là cậu bé nhưng tôi nhớ mãi lời khuyên của Bác và tôi đã áp dụng nó vào suốt cuộc đời. Bác bảo chúng ta nên bình tĩnh trước mọi việc và hãy dằn cơn giận, chờ khi thuận tiện rồi hãy giãi bày. Bác kể mỗi lần bác gái bực tức hay nói sai điều gì, Bác đều im không cãi. Chờ đến khi nào hai vợ chồng nằm bên nhau vui vẻ, Bác mới phân tích, tỏ rõ cho bác gái biết cái sai của mình… Bác Trợ Quế dạy chúng tôi chẳng được bao lâu thì bị bệnh và mất. Lúc đó ở làng Đại Hòa sát làng tôi (làng Quảng Lượng, Triệu Phong, Quảng Trị) có một trường Tiểu Học năm lớp, mái lợp tranh, tường đất, dựng trên một khu đất rộng. Chú ruột tôi- ba của Trần văn Lữ tức Thạch (đã mất) nguyên Sinh viên khóa 2 Viện Hán Học - dạy ở trường Đại Hòa, mới đưa tôi vào học lớp Năm (lớp Một bây giờ). Chú tôi, Trần Văn Bân, mấy năm sau về dạy Tiểu Học ở làng Dương Lộc, cũng thuộc Triệu Phong, là thầy của Nguyễn Lý Tưởng, Sinh viên khóa 1 Viện Hán Học. Thầy dạy tôi lớp Năm tên là Cung, người dong dỏng cao, hơi gầy, mặt trông có vẻ khắc khổ. Thầy thường mặc sơ-mi (chemise) ngắn, quần “soọc” (shorts). Tính Thầy hiền hậu, chẳng mấy khi la học trò. Gần hàng rào, giữa sân, đối diện với dãy nhà mặt trường, là một cột cờ dựng giữa một mảnh đất vuông, nhỏ, nền cao hơn sân. Phần trên hết của cột là lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Mỗi khi làm lễ chào cờ, học sinh từng lớp sắp hàng ngay ngắn qua sự điều khiển của một thầy đứng trên nền cột cờ. Tôi nhớ lúc này Quốc ca không phải bài “Tiến Quân Ca” của Văn Cao mà là một bài gì bắt đầu bằng câu: ”Dựng cờ chào, cờ dựng…”. Khi thầy điều khiển hô “Chào cờ… Chào!” thì tất cả học sinh, giáo viên, với bàn tay mặt nắm tròn lại, đưa lên tựa vào màng tang, trông rất khí thế. Về sau, chào cờ mới đổi qua hát bài “Tiến Quân Ca”. Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, bọn Tàu Tưởng (Giới Thạch) được phái qua miền Bắc Việt Nam tước khí giới Nhật. Tôi nghe nói bọn Tàu này ô hợp, đói rách, ăn mặc dơ dáy, chân đầy ghẻ lở, nhất là ghẻ hờm (một thứ ghẻ có bề mặt lớn lõm sâu xuống da). Hàng ngày nhân dân miền Bắc chúng ta cứ bị chúng cướp bóc, phá phách. Lúc bài “Tiến Quân Ca” được làm Quốc Ca và phổ biến trong dân chúng, không biết ai dựa theo nhạc mấy câu đầu của bài hát mà đặt ra những lời sau để chế nhạo bọn Tàu Tưởng: “Đoàn quân Tàu ô kia/ Sao mà gớm thế/ Đem ghẻ hờm qua lây cho người Việt Nam…”. Ở làng tôi, như một bệnh dịch, nhiều người cũng bị ghẻ hờm. Bấy giờ, Ba tôi là người Tây học, không biết Ba xem ở sách nào mà chế ra một thứ thuốc trị ghẻ hờm thật hiệu nghiệm. Ba tôi sao (rang) thanh phàn (phèn xanh), bạch phàn (phèn trắng), tất cả tán thành bột rồi trộn với thủy ngân. Mỗi lần xức vào, bệnh nhân nhức nhối, quay quắt trong chốc lát mới dịu lại. Da ở quanh mụt ghẻ lúc đó co rút, xức độ hai ba lần là lành. Ngay cả Ba tôi bị mạch lươn, chạy chữa nhiều lương y không bớt, vậy mà chỉ một thời gian ngắn, Ba xức thuốc của mình pha chế thì lành hẳn.

Rồi theo lệnh chung, ngôi trường của xã cũng phải phá đi, tuy trường chỉ mái lá, vách đất (nhưng được khu đất rộng, xung quanh có hàng rào). Lớp học và thầy giáo phân tán dạy học ở các làng khác. Ở làng Đại Hòa chỉ có lớp Tư (lớp Hai bây giờ) và lớp Ba do Thầy Châu dạy tại nhà Thầy. Thầy Châu người to, mập. Năm học lớp Ba với Thầy, kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt (thi học kỳ một), tôi đứng nhất, được xã thưởng cho 10 tờ giấy manh. Thời đó, giấy rất quí hiếm. Một thầy nọ lấy giấy đã viết một mặt, xếp đôi lại, rồi đóng thành tập; tôi mua những tập đó về làm vở học. Bàn học ở nhà Thầy Châu là những tấm ván được kê lên hơi cao. Chúng tôi ngồi trên những cái đòn để viết. Đến giờ Nông Phố (nghề làm ruộng, làm vườn), Thầy đưa học trò ra vườn, chia cho mỗi nhóm một khoảnh đất rồi Thầy dạy cho chúng tôi trồng trọt. Áo quần chúng tôi mặc thường bằng vải to (một thứ vải dệt tay, màu hơi ngà, thô), nhuộm đen, nhuộm nâu. Tất cả đều đi chân đất. Những ngày mưa gió thì mang tơi chằm bằng lá, gọi là tơi lá, đội nón, chân ai cũng bê bết bùn nên phải ra giếng rửa sạch trước khi vào hiên nhà là nơi làm lớp học. Từ nhà tôi ở Quảng Lượng lên nhà Thầy Châu, làng Đại Hòa, độ ba cây số. Trời dù nắng gắt vẫn đỡ bớt nhờ con đường nối hai làng nằm giữa cánh đồng lộng gió, còn vào tháng gió mưa lạnh lẽo thì đi rất khổ sở: Người co ro trong áo tơi, ngón chân luôn bấm chặt xuống  đường sình lầy mà cũng không khỏi có lúc trượt té, tơi, nón, chân tay đầy bùn.

Vào những ngày mùa, Thầy gặt lúa về chất đống giữa sân. Và để giúp Thầy, sáng cũng như trưa, bọn học trò nam chúng tôi thường đi học sớm để đạp lúa cho Thầy. Một hôm, trên đường đến gần nhà Thầy, tôi thấy cứ mỗi hầm cá nhân sát bụi cây bên đường đều có một anh bộ đội, mặc bộ đồ xanh dương, tay cầm súng đứng thẳng. Khi chúng tôi vào học độ nửa giờ, thì nghe tiếng máy bay Pháp, Thầy Châu “lùa” tất cả học sinh xuống chiếc hầm rộng ở nhà dưới, trên đắp lớp đất dày, núp cùng Thầy và vợ con Thầy. Vừa đậy nắp hầm, chúng tôi đã nghe tiếng máy bay gầm rú cùng tiếng đạn liên thanh nổ toang toác. Mọi người đều ngồi chò hỏ, im phăng phắc trong sợ hãi tột cùng. Máy bay cứ gầm rú xen lẫn tiếng đạn nổ chát chúa khoảng chừng 20 phút thì không nghe gì nữa, chỉ còn tiếng máy bay xa dần cho đến khi chẳng thấy động tĩnh gì, Thầy mới cho hết cả ra khỏi hầm. Chúng tôi chạy ùa ra sân, nhưng ôi thôi, sân bị cày nát, đất cát tung tóe văng khắp đó đây, rất may ngôi nhà của Thầy không hề hấn gì. Có lẽ ngồi trên máy bay nhìn xuống – lúc đó chưa có những dụng cụ nghe, nhìn tinh vi như bây giờ- thấy đụn rơm, những đống rơm nhỏ vừa đạp xong, những bó lúa chưa đạp chất chồng lên nhau, bọn giặc chắc tưởng đó là những hầm trú ẩn hay công sự nên bắn phá ? Còn ở quê tôi, vào một lần phi cơ Pháp oanh kích, mấy nhà ngói của làng đều bị chúng bắn nát, trong đó có nhà tôi. Ba tôi xây ngôi nhà này khá kiên cố, vách rất dày, thế mà đạn máy bay bắn thủng từng lỗ lớn, may mà trước đó Ba đã cho đào một cái hầm vừa sâu vừa rộng ở giữa nhà, trên đắp đất cao, theo kiểu chữ L. Nhờ vậy mà cả nhà đều được an toàn. Chẳng hiểu sao ở vùng quê tôi, máy bay Pháp chỉ bắn súng máy cỡ lớn chứ không thả “bom” (bombe). Nếu thả “bom” chắc sẽ bị thương vong và thiệt hại nhiều hơn. Bọn trẻ chúng tôi thường lượm đuôi đạn để về làm cán dao. Vào một ngày, có lẽ trong năm 1948, bọn Tây và Bảo Vệ - tên gọi người Việt đi lính cho Pháp - ở hai Đồn Bồ Bản (cách làng tôi độ 7 cây số) và Đồn Đại Hào, sát làng tôi, phối hợp bố ráp hai làng Đại Hòa, Quảng Điền – đều cạnh làng tôi. Ngày đó hay dùng cụm từ “Tây đi lùng”. Rồi hôm sau, tôi nghe tin Thầy Châu bị chết đuối trong khi lội qua một con sông để trốn Tây. Tôi xin Ba Mạ tôi cho tôi đi phúng viếng Thầy, nhưng có lẽ tình hình chưa ổn nên Ba Mạ tôi không cho đi. Thế là tôi khóc òa lên thảm thiết. Tự nhiên tôi quá thương thầy. Ba Mạ tôi không cầm lòng được, đã bỏ đi nơi khác…

Thầy Châu mất, chúng tôi được đưa qua học với Thầy Miễn, cũng ở Đại Hòa. Thầy Miễn rất trẻ, đã bắt học trò gọi Thầy bằng “Anh” – “Anh Miễn”. Chúng tôi “học chạy”, tháng học nhà này, tháng học nhà khác. Bàn ghế tự túc, bất kể cái gì kê viết được, ngồi được là cứ dùng. Và mỗi lần tới một nhà mới, điều trước tiên học trò bắt buộc phải làm, là tự đào một hầm cá nhân hình tròn, sâu độ một thước. Khi nghe tiếng pháo kích hoặc máy bay, tất cả học sinh, thầy, ai nấy đều chạy, nhảy xuống hầm của mình ngồi yên. Chúng tôi tuy còn nhỏ trong độ tuổi chín mười, nhưng ở quê đã quen làm lụng nên tự đào lấy cho mình một cái hầm nhỏ thì cũng không có gì khó khăn lắm. Học với Anh Miễn được mấy tháng thì nghỉ. Tôi không biết lý do. Rồi học với Cô Quảng tại nhà Cô, cũng lớp Ba. Cô chưa chồng. Cô là con một Đốc Phủ thời Pháp. Ngôi nhà Cô rất lớn nhưng vách, mái đều bị đập phá. Chúng tôi học dưới mấy tấm tranh che tạm. Là giáo viên nữ thì học sinh phải gọi bằng “Cô” mới đúng chứ, thế mà chẳng biết vì lẽ gì tất cả chúng tôi đều gọi Cô bằng “Thầy” –Thầy Quảng!

Tình hình càng ngày càng sôi động. Bọn Tây và Bảo Vệ “đi lùng” luôn nên mới học với “Thầy Quảng” một thời gian ngắn, chúng tôi lại phải nghỉ luôn. Thế là năm đó, chỉ lớp Ba thôi – chưa đủ niên học-, tôi phải học với ba thầy: Thầy Châu, Anh Miễn, và Cô Quảng. Tại làng tôi, lính đồn Bồ Bản, Đại Hào cũng thường tới càn quét bắt gà, bắt vịt, đốt phá; nhà không có người, chúng đều đốt cháy. Một lần “thằng Bảo Vệ” – tôi còn bé nhưng nói chuyện với ai, cũng gọi “thằng Bảo Vệ”, “thằng Tây” bởi tôi rất căm ghét chúng! – bắn hụt một con gà, con gà bay qua bụi tre ở nhà kế bên, tôi nói với tên lính: ”Con gà bay qua bên kia rồi”. Nó liền hung hãn đáp: “Im đi! Tao bắn mày bây giờ”. Tôi sợ và không dám nói gì nữa. Bấy giờ một thằng Tây ở đồn Bồ Bản có biệt danh là “Tây Mắt Mèo”, trông rất dữ tợn. Hôm đó nó ở nhà bếp đi lên nhà trên, tôi thì đứng nép ở cửa lên xuống, tay nó cầm khẩu súng đầu cắm lưỡi lê nhọn hoắt. Nhìn nó đi ngang qua mà tôi run  lẩy bẩy. Tôi cứ nghĩ bậy nếu nó quay lại đâm tôi một cái “phụp”, chắc tôi sẽ chết ngay (do quá sợ!). Tôi rất sợ Tây cũng như sợ Nhật. Lúc còn ở Thị xã Quảng Trị tôi độ năm, sáu tuổi, tuy sợ Nhật, có lẽ do chúng luôn đeo gươm bên mình và mang súng gắn lưỡi lê nhọn, thế mà vì hiếu kỳ, sáng nào tôi cũng ra trước ngõ chờ xem các toán lính Nhật nhịp nhàng bước qua. Làng tôi với mấy làng quanh đó mà không có đồn thì thuộc vùng “xôi đậu”. Ban ngày là của Tây, ban đêm của Việt Minh. Cũng có khi Việt Minh hoạt động ban ngày, hễ nghe báo động là tất cả cán bộ, thanh niên, trai tráng trong làng cũng như Ba tôi đều chạy qua làng khác, chỉ còn lại ông bà già với phụ nữ. Để cảnh giác có giặc đến, ngày nào làng cũng phân người gác ở phía có đồn Tây. Mỗi khi thấy giặc từ xa đang đến gần, người gác chạy qua từng xóm la to ám hiệu: “Trâu ăn ló! Trâu ăn ló!” (ló: lúa), ý nói: “Có Tây về!” Vậy mà có lần Ba tôi ra thăm ruộng có thể không nghe báo động nên bị Tây bắt. Chúng đem Ba tôi về nhà (chẳng biết có phải cho lấy áo quần hay xem giấy tờ ? tôi không nhớ) trước khi dẫn về đồn. Chúng trói chặt hai tay Ba tôi ra sau lưng. Thấy Ba bị bắt, cả nhà Mạ cũng như anh chị em tôi chỉ biết khóc. Hơn một tuần sau chúng mới thả. Ba tôi cho biết chúng bắt Ba là do lệnh của Tỉnh. Ty Lục Lộ (Sở Công Chánh) thiếu nhân viên chuyên môn nên chúng muốn Ba tôi đi làm việc lại. Nhưng Ba tôi từ chối, viện lý do sức khỏe. Thật sự lúc đó Ba tôi rất có cảm tình với Việt Minh, so với dân làng thì gia đình tôi tương đối khá giả hơn, bởi thế mỗi lần cán bộ về hoạt động, đều ăn, ở tại nhà tôi, có lúc đến năm, sáu người, ngày này qua ngày khác. Ba tôi còn đưa áo quần cho họ mặc.

Trước mặt làng tôi có một con rào (sông nhỏ) ngăn cách làng tôi với Đại Hào. Bấy giờ đang mùa hè, nước rào rất cạn, dân chúng lội xuống để chơm (nơm), giủi… bắt cá rất đông. Tôi chẳng có dụng cụ gì cũng lội xuống bắt. Nước đục ngàu màu đất. Tôi đang lội, bỗng một con cá mắc kẹt giữa hai chân tôi. Tôi kẹp chặt hai chân lại và bắt lên dễ dàng. Có lẽ cá cay mắt vì nhiều người quậy đục, cá mệt, không còn sức vùng vẫy nữa. Đó là một con cá gáy khá lớn. Tôi quá mừng. Hai bàn tay nắm chặt con cá ù chạy về nhà đưa cho Mạ tôi. Chân, tay, lưng, mặt bê bết bùn đất. Tối hôm ấy nhà lại có mấy cán bộ Việt Minh, không biết Mạ tôi nấu cháo hay kho, nhưng đến lượt tôi vào ăn thì chẳng còn miếng cá nào. Tôi lẫy, hờn, không ăn, ra ngoài sân tối ngồi khóc một mình... Để tiếp tế hay giúp Việt Minh, Ba thường sai chị tôi và tôi lên Thị xã mua thuốc sốt rét, trụ sinh, đồng hồ, bút máy… cho cán bộ. Chúng tôi ấn từng ống thuốc tiêm vào mỗi trái chuối chín; đồng hồ, bút máy thì giữ kín trong người hay giấu dưới bắp, đậu khô mua về... Mỗi lần qua “bót” (poste) Cảnh sát gần Chùa Phật Học (Thị xã Quảng Trị), chị em tôi rất lo sợ. Cảnh sát thường kêu lại hỏi, nhưng họ không lục soát kỹ lắm. Thị xã cách làng tôi khoảng 15 cây số. Chúng tôi chỉ đi bộ, sáng đi chiều về, chứ không có một phương tiện nào khác. Cũng vì đi mua đồ cho cán bộ mà một lần nọ chị tôi đã bị đạn xớt qua đầu. Hôm ấy có Ba tôi cùng đi. Ba đã nhờ xe cứu thương ở đồn Đại Hào chở chị lên Bệnh Viện Tây. Ngày hôm sau, tôi mới lên Tỉnh thăm chị. Thấy đầu chị quấn băng kín, không còn tóc, tôi xót xa thương chị mà rưng rức khóc . Rất may, vết thương không nặng (nhờ chị đội bao muối trong có cất giấu thuốc men…), nhưng có lẽ mất máu nhiều nên  chị phải nằm viện gần cả tháng.

Ở quê, Ba tôi đi chữa bệnh cho mọi người miễn phí. Ba Mạ còn giúp đỡ những ai gặp khó khăn. Vào những năm 1945,1946, nhà tôi không thiếu lúa gạo. Một lẫm (kho bằng gỗ, chứa thóc) to đầy lúa, chưa kể khoai, sắn, bắp, đậu… thế nhưng cả nhà ăn uống rất đạm bạc. Tôi nhớ cứ mỗi sáng, nhà nấu một nồi hoặc cơm, hoặc khoai, sắn khô… Sau khi bới dành riêng cho Ba Mạ, chị tôi quản lý cái nồi để chia đều từ ông anh cả đến đứa em út, mỗi người một chén vun. Chỉ đồ ăn (chẳng có gì ngoài cá khô, nước ruốc) thì không chia. Ba Mạ tôi sống rất vị tha, hòa đồng cùng mọi người. Bởi thế, ai đến mượn lúa, Ba Mạ tôi đều vui vẻ cho mượn mà chưa thấy bao giờ Ba Mạ tôi đòi, ai có thì trả, không có cũng chẳng sao. Có người trả bằng khoai thay vì lúa, có người khất lại nhiều kỳ… Cũng do cách đối nhân xử thế ấy mà Ba Mạ tôi được mọi người trong làng yêu mến rồi anh chị em chúng tôi cũng được thương lây. Nhất là những năm đầu kháng chiến, một số người bị bắt đi thủ tiêu, thì Ba tôi – một công chức thời Pháp thuộc - vẫn bình an vô sự… Khoảng 1947, Ủy Ban Kháng Chiến Huyện cho “mời” (bắt) Ba tôi. Khuyên Ba tôi ra giúp Việt Minh nhưng Ba thoái thác, có lẽ sức khỏe không cho phép, nhất là lúc đó phải làm việc và sống nơi rừng thiêng nước độc. Thay vào đó, Ba tôi cho gọi người anh đầu đang học Trường Khải Định (Quốc Học Huế) về tham gia. Sau dẫn thêm ông anh thứ nữa (1954) tập kết ra Bắc.

Tôi vẫn không được đi học vì chẳng có lớp do tình hình mỗi ngày một căng: bọn Tây và Bảo Vệ đi bố ráp luôn. Ba Mạ tôi mới giao cho chị tôi một số tiền để chị lên Thị Xã buôn bán với người dì ruột, nuôi tôi ăn học. Hôm đó chúng tôi không đi Thị Xã bằng con đường thường ngày hay đi. Chúng tôi lại lộn về làng Dương Lộc, một làng theo Thiên Chúa Giáo, có Hương Vệ - lính ở làng theo Pháp - canh gác. Chú ruột tôi đang dạy tiểu học ở làng này, đã nhắn chị em tôi xuống để gửi gắm nhờ một Linh Mục (Cha Đạo) dẫn đường (vì đi Thị Xã theo con đường thường ngày dễ gặp bảo vệ hay cảnh sát lục soát lấy hết tiền bạc). Có Ông Cha đi cùng, cảnh sát hay lính Tây sẽ nể nang, chào thưa mà chẳng xét hỏi gì. Toán đó độ sáu người. Từ Dương Lộc, chúng tôi xuống Gia Độ đi đò qua một con sông, rồi hướng về Thị xã Quảng Trị bên phía Bắc sông Thạch Hãn. Khi chạy ngang qua Quốc lộ 1, tôi thấy một khúc chân người cháy  vàng; chắc là đạp phải “mìn” (mine). Bởi vậy Cha không cho chúng tôi đi quốc lộ mà ven theo mép bên đường. Từ Dương Lộc đến Thị xã Quảng Trị với cách đi đó cũng trên hai mươi cây số. Bấy giờ  năm 1949, tôi mười tuổi. Chị tôi hơn tôi một tuổi. Thế mà chúng tôi theo người lớn đi bộ đến mấy chục cây số vẫn không biết mệt.

Tại Thị Xã, chúng tôi ở với Bà  Ngoại và người dì. Chị tôi tuy còn nhỏ nhưng đã tỏ ra tháo vát, giỏi dang. Hàng ngày chị cùng Dì ra chợ buôn bán. Mấy tháng sau, Chú tôi về dạy ở Thị Xã và đầu niên khóa, Chú xin cho tôi vào học lớp Nhì (lớp Bốn bây giờ) của Thầy Lê Đình Khởi, người Bồ Bản. Ở Quảng Trị hồi đó chỉ có bậc tiểu học: một trường Nữ và một trường Nam. Trường Nam nhỏ, không đủ phòng nên lớp tôi phải thuê nhà dân ở bên ngoài làm lớp. Lớp học này nằm dưới Chùa Phật Học một đoạn. Đây là khu vực gần sông. Vào một ngày lụt, nước sông đỏ ngàu, chảy xiết, ngập lênh láng lên tận bờ đường, cuốn theo nhiều cây, cành, củi rác. Ở lớp tôi có anh Sừng lớn nhất lớp, là người vạn chài, quanh năm sống trên sông nước. Anh xin Thầy vớt củi ở ven bờ sông. Thầy cho phép. Thế là anh Sừng cùng vài bạn khác lội ở những chỗ cạn, vớt các cây lớn, vừa… Bọn nhỏ chúng tôi ở trên bờ thì xúm nhau vác những cây về sân lớp. Có cây phải ba bốn đứa khiêng. Chẳng mấy chốc mà góc sân chất cả một đống cây. Thấy đã khá nhiều, Thầy không cho vớt nữa. Mấy ngày sau, Thầy bán cho người ta gần cả trăm đồng bạc Đông Dương để làm quỹ lớp (100 đồng thời đó, có giá trị rất lớn).

Lúc gia đình tôi tản cư về quê thì căn nhà ở thị xã (16 Lê Thái Tổ, phường Đệ Tam) hình như  để không (Tôi không nhớ rõ). Về sau, Ba tôi cho một gia đình công chức, người Huế, làm ở Tỉnh đường Quảng Trị thuê. Đó là bác Tẩn, ba của Trần Thị Minh Quyết, sinh viên Hán Học Viện khóa 5. Lúc học lớp Nhì, tôi ở với Ông Ngoại và Bà vợ hai của ông tại làng Thạch Hãn, sát thị xã. Bà Ngoại hờn ghen, không ở với Ông Ngoại nữa mà về ở với con gái (dì tôi, em của Mạ). Ông Ngoại là một quan chức Nam triều đã về hưu. Bà Hai của ông lúc bấy giờ làm hàng xáo. Bà mua lúa về xay, giã gạo trắng rồi bán. Và hầu như đêm nào tôi cũng phụ giã gạo. Cũng có khi Ông Ngoại vào giã với tôi, giã bằng chày đạp chứ không phải chày cầm tay. Tiền cho thuê nhà của Ba Mạ tôi, một phần gửi Ông Bà. Bà cũng nấu cơm tháng cho mấy người quen biết ở quê tôi đi lính Cảnh Vệ, giống như Đia phương quân về sau.

Năm 1952,  Thị xã Quảng Trị mới có một trường Trung học Đệ Nhất Cấp tư thục (trường cấp 2) được hai lớp: Đệ thất (lớp Sáu) và Đệ lục (lớp Bảy). Ông Ngoại tôi đã dạy giúp Pháp Văn cho một số học sinh, trong đó có Giáo sư Bác sĩ Văn Tần bây giờ. Năm lớp Nhất (lớp Năm), lúc đầu tôi học với Thầy Hồ Đắc Hanh. Dáng Thầy cao lớn, trẻ, đẹp; Vợ Thầy cũng rất dễ thương. Cả hai đều là người Huế, ra Quảng Trị dạy, phải thuê nhà để ở. Lên Tỉnh học, tôi không còn đi chân đất nữa mà mang guốc gỗ. Áo quần thì có gì mặc nấy. Những bạn con nhà khá thì mặc áo quần đẹp hơn và mang “xăng-đan” (sandales), nhưng tất cả mỗi đứa đi học đều phải đem theo một lọ mực xanh hay tím để chấm viết. Học trò mua những viên mực xanh, tím để vào một cái lọ nhỏ, pha nước lạnh hay nóng, một lúc sau các viên ấy tan ra thành mực. Học sinh đều dùng một loại viết có lưỡi, gọi là “viết muỗng”, “viết lá tre” bằng sắt , cắm vào một cán bút bằng gỗ, chấm mực mà viết, chứ không có bút bi như bây giờ. Năm đó, tôi được xếp ngồi bàn đầu. Mỗi bàn độ năm, sáu học sinh, và trên bàn trước mặt học sinh là những lọ mực xanh hay tím. Tôi viết mực tím. Sáng ấy Thầy mặc bộ đồ tây trắng. Thầy say sưa giảng bài và đứng ngay trước mặt tôi. Không biết tôi tháy máy cách sao mà làm đổ bình mực vào quần Thầy một vệt tím dài từ trên xuống dưới. Tôi tái mặt, gần khóc, đứng dậy: “Thưa Thầy, con…” và không nói thêm được tiếng nào. Cả lớp im phăng phắc. Nhưng Thầy rất bình tĩnh chẳng tỏ ra một chút giận dỗi mà nhỏ nhẹ nói: “Con ngồi xuống. Thầy biết con vô ý lỡ tay…”. Tôi thật hối hận và càng kính yêu Thầy hơn. Tôi cứ áy náy suốt cả ngày. Chiều lại, sau giờ học, tôi muốn đến nhà Thầy để xin lỗi. Tôi đi qua đi lại trước nhà Thầy mấy lần mà rồi cũng không dám bước vào. Thời ấy chưa có thuốc giặt tẩy, nên chiếc quần lấm mực đó tất nhiên không thể nào dùng mặc đi ra ngoài được. Xem như bỏ đi! 

Thầy Hồ Đắc Hanh dạy lớp tôi được mấy tháng thì bị động viên đi học Sĩ quan Thủ Đức. Cả lớp tôi buồn bã tiễn đưa Thầy vào một buổi chiều trên sân ga Quảng Trị. Tôi muốn chạy tới nói với Thầy một điều gì đó chứng tỏ lòng yêu quý Thầy nhưng vì quá nhút nhát, tôi chỉ xót xa đứng yên nhìn Thầy chuyện trò với các đồng nghiệp khác… Mười mấy năm sau, Thầy là Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Thiết Giáp đóng tại La Vang, Quảng Trị. Trong một trận đụng độ ở Nhan Biều (Bắc sông Thạch Hãn, đối diện Thị xã Quảng Trị), Thầy ngồi tại chiến xa chỉ huy trận đánh. Không may, thiết giáp trúng B40, Thầy bị chết cháy trong xe. Thi hài được đưa về quê của Thầy ở Truồi (Thừa Thiên) để tổ chức tang lễ. Lúc qua sông, linh cữu đặt trên một chiếc M113 (loại chiến xa lội nước). Xe mới chạy ra một đoạn, không hiểu tại sao, cả xe và quan tài bị chìm lỉm. Thế là chết thêm mấy sĩ quan và tài xế trong xe. Sau đó người ta phải cho thợ lặn và xe trục vớt quan tài với chiếc M113 lên. Thật quá thảm! Sao mà Thầy lại xui cả đến khi đã chết? Thầy “chết hai lần”!.  Nghiệp của Thầy theo nhà Phật như vậy là quá nặng! Đã chết cháy lại còn bị chết nước! Trước 30.4.1975, để nhớ công ơn của Thầy, Chính quyền Sài Gòn đặt tên con đường nối dài từ La Vang, nơi Thầy chỉ huy Trung Đoàn Thiết Giáp, về đến cuối làng Thạch Hãn giáp với đường Quang Trung Thị xã Quảng Trị, là đường Hồ Đắc Hanh.

Thay thế Thầy Hanh dạy lớp Nhất (lớp Năm bây giờ) là thầy Lê Đình Khởi, người đã dạy tôi ở lớp Nhì (lớp Bốn). Lớp của tôi là một nhà dân thuộc đường Quang Trung, gần sân vận động. (Sau này trường Trung học Nguyễn Hoàng xây trên một góc sân vận động). Thầy Khởi rất nghiêm, có lần Thầy gọi con Thầy – cùng lớp với tôi- lên bảng làm toán. Cậu ta làm sai, bị Thầy tát mấy cái, đập đầu vào bảng nghe “rầm rầm”! Thầy là bạn thơ của Ba tôi trong nhóm Mai Hãn ở Quảng Trị.  Thầy và Ba thường xướng họa thơ với nhau. Bút hiệu của Thầy Khởi là Bồ Giang, tức sông Bồ Bản, quê của Thầy. Chúng ta hãy đọc mấy vần thơ sau:

Xướng:                       

    Những Giọt Mưa Đêm

Đêm nằm khó ngủ, lắng nghe mưa,

Giọt vắn, giọt dài, giọt nặng thưa.

Giọt khóc nửa chừng tan lối mộng,

Giọt mừng một kiếp vẹn niềm mơ.

Giọt mau lốp đốp như giành giật,

Giọt chậm lai rai, ý đợi chờ.

Nặng nhẹ, nhặt khoan hòa điệu nhạc,

Gẫm đời, vùng dậy, chép vần thơ.

Bồ Giang Lê Đình Khởi (Thu 1970)

Họa:

       Giữa Mùa Chinh Chiến

Đêm thu, gió lạnh, lại trời mưa,

Mưa gió liên miên, nhặt nhặt, thưa.

Tiếng nhạn kêu vang, trời đất lở,

Ngọn trào vỗ nát nỗi niềm mơ.

Khóc thương đất nước đà tan tác,

Mong ước vừng ô, vẫn đón chờ.

Nhà trống, mưa vào, lòng lạnh lẽo,

Năm canh, tâm sự, viết nên thơ.

Xương Kỳ Trần Văn Thạnh.


Xương Kỳ Trần Văn Thạnh là Ba tôi.


Xướng:

Sáu Mươi Bốn Cảm Tác

                        Kính gởi Bác Trợ Khởi

Tôi Bác năm nay sáu bốn rồi,

Phong lưu nếp sẵn, Bác như tôi.

Chào trăng cợt gió, mai chiều rỗi,

Miêu họa ngâm thi, sớm tối dài.

Giấc mộng vàng son xem bọt nước,

Chữ Tây, chữ Hán cũng chè xôi.

Ơn trời mạnh khỏe, vui làm thiện,

Danh lợi đua bơi phó mặc đời.

Xương Kỳ Trần Văn Thạnh.

  

Họa:

Chó xuống, heo lên cũng thế rồi,

Sáu tư tuổi Bác, sáu tư tôi.

Ngồi nghe xuân tới trong hơi ấm, 

Nhớ lại xuân qua muốn thở dài.

Đối cảnh thời gian sao vội vã,

Dặm đường thống nhất mãi xa xôi.

Hăm lăm xuân lẻ tuồng ly loạn,

Mừng chút không chi miệng thế đời.

Bồ Giang Lê Đình Khởi

.v.v..

Ngoài thơ phú ra, Thầy còn cái thú đi bẫy chim cu, nên nhà Thầy treo đầy những lồng cu cườm. Một chiều, Thầy dẫn học sinh đi dã ngoại, đến một bến sông rất cạn cách cầu ga chưa đầy một cây số, Thầy cho phép chúng tôi tắm sông nhưng chẳng đứa nào tắm; chúng tôi chỉ vui đùa, chạy nhảy, đuổi bắt nhau trên bến. Sau đó Thầy đưa chúng tôi tới chơi ở Vườn Bông. Bên dưới Vườn Bông là một cây cầu nối liền với đường chạy dọc theo sông Thạch Hãn ngang qua Tòa Sứ về ngả phủ Triệu Phong. Chiếc cầu này thời Nhật đã bị Mỹ thả bom sập, chỉ còn một khúc đầu cầu phía Vườn Bông. Đây là một bến sông sâu. Người tắm rất đông, họ thường leo lên cầu, nhảy xuống sông rồi bơi vào bờ. Trong khi Thầy thơ thẩn ở Vườn Bông thì bọn chúng tôi kéo xuống bến sông xem họ tắm. Thế rồi thấy họ nhảy xuống nước sao mà hấp dẫn, chúi đầu rất nghệ thuật, bọn tôi bắt chước, cởi bỏ quần áo, cũng đứng trên cầu nhảy ùm xuống rồi bơi vào bờ, vừa hò hét om sòm. Bỗng Thầy từ trên bờ cao phát hiện, Thầy la lớn bắt chúng tôi ngừng lại, lên bờ. Chắc Thầy sợ nguy hiểm. Mặt Thầy bừng giận, đôi mắt đỏ ngầu. Mỗi đứa lãnh năm cái tát tai đau điếng! Tôi cũng chung số phận nhưng không hề oán giận Thầy vì biết mình có lỗi. Đối với Thầy Khởi, cho đến bây giờ tôi vẫn một lòng cung kính, mến yêu.

Cũng con sông Thạch Hãn này đã ghi vào lòng tôi một kỷ niệm khó quên. Hôm đó tôi tắm ở khúc sông trước mặt Tòa Sứ. Đoạn này bến sông bị hẳm, ít ai tắm. Một cậu cỡ tuổi tôi cùng tắm. Bỗng cậu hụt chân và đang chới với trước mặt tôi. Như một phản xạ, tôi nhảy ùm lặn xuống nước, cậu ta bám chặt vào tôi; tôi ngóc đầu lên cựa quậy mạnh, may gần bờ, nên vào được an toàn. Hú vía! Nếu xa bờ một chút nữa thôi, chắc hai đứa đều chết, vì cậu ta đã ôm sát vào một tay và ngực tôi, tôi bơi không được (mới cố gắng cựa quậy mạnh). Lại nữa, tôi đâu có bơi, lặn giỏi!?

Trong năm này, Ba tôi hai lần đau nặng, từ quê phải đưa lên tỉnh nằm bệnh viện. Lần đầu Ba vào bệnh viện Tây. Nơi đây, nhờ những bạn quen biết của Ba như Thầy Chữ, Thầy Lài… tận tình chữa trị nên bình phục nhanh và sớm được xuất viện. Để đáp lại tấm thịnh tình, nhất là với Thầy Chữ, y tá trưởng, Ba tôi nhận lời mời của Thầy về nhà Thầy để làm gia sư (précepteur) dạy cho con, cháu Thầy. Tôi ở cùng Ba. Hai cha con ngủ chung một giường. Để khỏi mất giấc ngủ của Ba, mỗi sáng, khoảng 4 giờ hay 4 giờ rưỡi, tôi đã nhè nhẹ bò ra khỏi giường đánh thức mấy con, cháu Thầy Chữ dậy học bài. Thời ấy, học trò siêng năng lắm, thức khuya dậy sớm là bình thường. Sơn, con Thầy Chữ cùng học lớp Nhất với tôi nhưng nó học kém, nên có bài, tôi thay Ba chỉ cho nó. Năm 1959, tôi gặp Sơn ở Sài Gòn. Lúc này nó sống “giang hồ bạt mạng”, không có tiền, có khi tôi phải cho nó áo quần để mặc. Sơn thi vào học Sĩ quan Thủ Đức. Trước 30.4.1975, nó là Trung Tá nhảy dù nhưng nghe đâu nó đã bị mất tích trong một trận chiến ác liệt xảy ra tại Phan Rang!

Lần sau Ba tôi đau thì nằm ở Bệnh viện Tỉnh, có tôi ở một bên để săn sóc cho Ba. Bấy giờ bệnh nhân được bệnh viện phát cơm, cháo miễn phí; mỗi bữa tôi nhận về ăn. Lúc đó bệnh viện nuôi ăn rất đàng hoàng, khi nào cũng có cá thịt, đầy đủ dinh dưỡng, tôi ăn ngon lành! Ba tôi thì ăn cơm, cháo do chị tôi nấu mang đến. Các thầy ở bệnh viện như Thầy Liễn, Thầy Bàn (cha của nhạc sĩ Hoàng Nguyên)… đều là bạn của Ba tôi. Và chính những thầy này đã khuyên Ba tôi đi làm việc lại. Lúc này kinh tế gia đình tôi cũng bắt đầu khó khăn, hơn nữa Ba hay đau ốm, ở quê rất bất tiện, nên cuối cùng Ba tôi đã nghe lời khuyên của bạn bè, xin đi làm lại. Vừa khi Ba của Minh Quyết đổi vào Huế, Ba lấy lại nhà. Tôi và chị tôi về ở với Ba. Sắp xếp  ổn định, cả nhà bèn dọn từ quê lên Thị xã.

Mùa Hạ, trời Quảng Trị nắng hừng hực, gió Lào thổi mạnh mà nóng, khô, rát cả mặt. Hè đó hỏa hoạn, cả phường Đệ Tam, phần lớn nhà tranh, cháy đỏ rực; nhà tôi lợp ngói, nhưng căn bếp bằng tranh cũng cháy. Tôi lấy mền nhúng nước ướt leo cây mít sát tường bếp lên chữa; lửa táp vào mặt, may tôi trụt xuống kịp; nếu trèo lên nhà trên, lửa bao quanh, không còn đường xuống, tất bị chết cháy, hoặc nhảy xuống đất thì gãy chân hay chết. Lửa nhà bếp, lửa nhà kế sát sau vườn bốc mạnh, cuối cùng ngôi nhà ngói của Ba Mạ tôi cũng cháy rực. Đồ đạc trong nhà chẳng kéo ra được gì. Thời ấy, Thị xã Quảng Trị chẳng có xe cứu hỏa. Sau vụ cháy, những nhà bị nạn đều được chính quyền cấp cho một số “tôn xi-măng” (fibrociment) để lợp nhà. 

Năm tôi đậu Tiểu học, Quảng Trị mới có Trung học Tư Thục được ba lớp: Đệ Thất, Đệ Lục, Đệ Ngũ (lớp Sáu, Bảy, Tám bây giờ). Sau trường này trở thành Trung Học Nguyễn Hoàng (trường công). Ba Mạ cho tôi vào Huế học. Trong nhà chuẩn bị cho tôi học Trường Providence (Thiên Hựu), một trường Trung học Tư thục Thiên Chúa Giáo chuyên giảng dạy bằng tiếng Pháp, giống như Trường Pellerin (Bình Linh). Nhưng tôi cũng nạp đơn thi cầu may vào Trường Khải Định (Quốc Học), lúc này trường Khải Định lính Tây đang chiếm ở. Bởi vậy, Trường Nữ Đồng Khánh được chia làm hai: một nửa cho Đồng Khánh từ Đệ Thất đến Đệ Tứ, một nửa cho Khải Định “lớn”, từ Đệ Tam đến Đệ Nhất (lớp Mười đến lớp Mười Hai), nam nữ học chung. Còn Khải Định “nhỏ” (Đệ Thất đến Đệ Tứ), học nơi khác và sau trở thành Trung Học Nguyễn Tri Phương.

Tôi thi ở Khải Đinh “nhỏ”, thí sinh 2000 mà chỉ tuyển 270 cho sáu lớp. Bài vở tôi làm được nhưng cứ nghĩ khó mà đậu! Ai ngờ tôi được trúng tuyển vào Đệ Thất trường Khải Định. Năm này Thầy Ưng Đồng dạy lớp tôi môn Quốc văn. Tôi trọ học gần nhà Thầy (đường Chương Đức, Cầu Đất, Huế). Mỗi lần Thầy bệnh hay bận việc phải nghỉ dạy, Thầy đều nhờ tôi đưa đơn qua Trường xin phép. Trái lại, khi tôi bị bệnh không đi học được, tôi lại nhờ Thầy giúp chuyển đơn. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy lương tâm không ổn! Tôi cứ tự trách tại sao lúc đó mình lại làm một việc vô phép như vậy?

Linh mục Nguyễn Văn Thích dạy lớp tôi tiếng Pháp. Cha dạy hát nhiều bài tiếng Pháp. Khi qua Viện Hán Học, Cha lại dạy Hán văn cho khóa tôi liên tiếp mấy niên học. Cha viết chữ Hán rất đẹp, đúng là như “rồng bay phượng múa!”. Cứ Tết đến, Cha viết cho Sinh viên những câu đối chữ Hán do Cha sáng tác. Cha cũng dạy Sinh Viên nhiều bài hát của Cha. Bài “Cái nhà” mà tôi thuộc lòng từ những năm Tiểu Học, không ngờ là do Cha viết. Anh Lê Ngọc Bích, sinh viên Viện Hán Học khóa 1 (đã mất) đã bỏ công sưu tầm và in được một tập Thơ, Văn, Nhạc, Họa… của Cha.

Cha Thích là con Cụ Phó bảng Nguyễn Văn Mại, quê quán làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên; nhưng sinh quán của Cha là làng An Thái, Phủ An nhơn, Bình Định khi Cụ Mại vào làm tri phủ ở đó. Lúc đầu Cậu Nguyễn Văn Thích theo học chữ Hán, thi Hương hai khóa đều hỏng “trường ba”, mới chuyển qua tân học, học ở Pellerin (Bình Linh) Huế. Đây là một trường tư thục Thiên Chúa giáo, ngoài những môn học thông thường, nhà trường còn dạy giáo lý là môn bắt buộc. Lại nữa, đầu giờ và cuối giờ học mỗi buổi, học sinh phải đứng dậy nghiêm chỉnh đọc kinh cầu nguyện. Chính những sự việc ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư, tình cảm của con người Nguyễn Văn Thích. Bởi vậy, khi tốt nghiệp Trung Học, học Sư Phạm rồi vào dạy ở tỉnh Khánh Hòa, chỉ 4 tháng sau, Thầy Thích đã lãnh phép Rửa tội tại nhà thờ Bình Cang, Nha Trang.

Là môn đệ của Nho giáo, trước sự kiện “tày trời” của con trai mình, Cụ Phó Bảng Nguyễn Văn Mại chống đối quyết liệt. Thầy Thích đã chịu nhiều đau khổ về tinh thần lẫn thể xác: “Thầy Thích bị nhốt kỹ trong nhà, Thầy liều mạng trèo lên gỡ mái ngói thoát ra ngoài rồi cải trang làm con gái ra ga mua vé đi Cửa Tùng, Quảng Trị” (Theo Lê Ngọc Bích) xin vào tu học ở Tiểu Chủng Viện An Ninh; và ở “Văn học Việt Nam” (Tập I), Nguyễn Q. Thắng cho biết: “Theo lời ông (tức Cha Thích) tâm sự với môn sinh thì Cụ Phó Bảng Mại từng trói ông nơi chân giường nhiều ngày, nhưng sau đó vẫn trốn vào nhà thờ xưng tội và cầu kinh”. Sau 9 năm tu học, cuối cùng Thầy Thích đã được thụ phong Linh Mục.

“Nhìn suốt quá trình hoạt động liên tục về văn hóa, giáo dục gần 60 năm của Cha, nhớ lại cuộc sống giản dị, thanh đạm mà trẻ trung, thân ái đối với mọi người, có thể nói không quá rằng Cha là một nhà văn hóa giáo dục chân chính, lạc quan của miền sông Hương núi Ngự, mà cũng của đất nước Việt Nam thời gian gần đây” (Đoàn Khoách- Sảng Đình Thi Tập của J.M. Thích, Cali, USA).

“Tâm hồn Cha đơn sơ vô tội, đầy chất nghệ sĩ cao thượng, đó là một tâm hồn thấm nhuần nhân đức, thánh thiện, tinh thần Nho giáo kết hợp hài hòa với Ki-tô giáo” (Lê Ngọc Bích).

Cha Thích làm thơ Quốc Ngữ, thơ chữ Hán, thơ dịch từ Hán Ngữ, Pháp Ngữ rất nhiều, đủ các thể loại. Cha còn cộng tác viết nhiều bài cho các tạp chí ở Huế như Tổ Quốc (khoảng 1945 - 1946), Vinh Sơn (khoảng 1949 – 1950), Nguồn Sống (khoảng 1958 -1961). Cha là Sáng Lập Viên và Chủ Bút tuần báo Vì Chúa, viết 3 thứ tiếng Việt, Hán, Pháp. Cụ Sào Nam có bài thơ:

Mừng Xuân Báo Vì Chúa

Lòng ta vì Chúa, Chúa vì ta

Rước thánh thần về, đuổi qủy ma!

Đường lối quang minh lên tột đỉnh

Ai rằng thiên quốc ở đâu xa!

Phan Bội Châu

 (Báo “Vì Chúa” số 21, ngày 19 Février 1937- Xuân Đinh Sửu).

Đến năm 1945, báo “Vì Chúa” tự đình bản. Chúng ta hãy đọc mấy vần thơ sau để thấy con người nghệ sĩ trong Cha cùng với tấm lòng thanh khiết của vị chân tu:

Cảnh Đêm Trăng

        Duy giang thượng chi thanh phong

        Dữ sơn gian chi minh nguyệt…

        Thị tạo hóa chi vô tận tàng dã.

(Tô Thức)

Y chà! Y chà xinh!

Đêm thanh thú cũng thanh:

Trăng trong lồng gió mát,

Nước biếc dợn non xanh.

Trời mở kho vô tận,

Tranh treo bức hữu tình.

Tao đàn kia những kẻ,

Cảnh ấy nỡ làm thinh


Sảng Đình Nguyễn Văn Thích

       *

THI VỊ SÔNG HƯƠNG

Sông Hương có dòng nước lục,

Trong vẻo trong veo mà không bao giờ đục.

Đây, ta thả thuyền chơi,

Ta lội, ta bơi,

Ta rửa sạch mọi niềm trần tục.


Sông Hương có bóng trăng thanh,

Yếng bạc bũa rải trên lườn sóng long lanh,

Soi tấm lòng ta vằng vặc.

Đối với Tạo vật,

Biết bao nhiêu là cảm tình.


Sông Hương có lườn gió mát,

Phưởng phất dịu dàng như tay ai khéo quạt,

Nó thổi sạch mây mù.

Thổi sạch u sầu,

Kìa tiếng thông reo, tiếng chài hát.

Sảng Đình Nguyễn Văn Thích

            v.v..

Thầy Hồ Đình Chữ tức nhà thơ Bằng Trình dạy toán lớp tôi. Thầy là giáo sư sang nhất trong các thầy trẻ ở Khải Định “nhỏ”. Quần áo luôn láng lẩy, giày đánh bóng, Thầy hay lái xe hơi đến dạy. Thời đó có xe hơi là thuộc lớp giàu. Vợ Thầy là con chủ hiệu buôn bán lớn gần rạp chiếu bóng Tân Tân, đường Trần Hưng Đạo. Thầy viết chữ đẹp và bay bướm. Lớp Đệ Thất bấy giờ học số học là môn tôi khá dốt. Cuối năm vị thứ môn Toán của tôi là 43/45 và Thầy Chữ đã phê vào học bạ “Kém, phải cố gắng nhiều”. Nhờ các môn khác kéo lại, tôi vẫn được lên lớp. Hôm thầy ra Toán làm tại lớp, tôi “cóp-pi” (copier) đứa bên cạnh. Nó che tay không cho tôi xem. Tức mình, tôi nói: “Lên Đệ Lục, học hình học, chắc gì mi đã hơn tau?”. Hè đó, tôi quyết tâm học toán. Tôi mua sách Hình học, Đại số có bài giải bằng tiếng Pháp về luyện thêm. Bấy giờ sách toán tiếng Việt rất hiếm. Ngay cả sách giáo khoa Toán cũng chỉ có bộ từ Đệ Thất đến Đệ Tứ của Đinh Quy, Bùi Tấn, Lê Nguyên Diệm. Qua Đệ Lục cũng Thầy Chữ dạy Toán nên Thầy rất ngạc nhiên khi những bài tập toán của tôi thường được điểm 10 dành vị thứ cuối năm 6/45. Sau này ra dạy, có lần đi chấm thi tôi gặp Thầy Chữ ở cùng trung tâm, tôi nhắc kỷ niệm học toán với Thầy, Thầy cười thích thú!… Trong khi dạy Trung học, Thầy vẫn ghi danh học Đại Học Văn khoa Huế, Thầy đậu Đại Học, Cao Học rồi học tiếp nữa… Trước 1975, Thầy là giáo sư Đại Học Huế. Tôi nhớ, sau 1990, trong một buổi phỏng vấn Thầy về Văn Học của Đài BBC, người ta gọi Thầy là “Tiến sĩ Hồ Đình Chữ”. Thầy hiện đang sinh sống ở Úc.

Còn dạy Anh văn lớp Đệ Lục của tôi là Thầy Cao Cự Phúc. Thầy ở vùng kháng chiến về, học lại trường Khải Định “lớn”, đậu Tú Tài 2 Ban C (Ban Văn chương, Sinh ngữ) rồi xin dạy Khải Định “nhỏ”. Thầy bắt học trò gọi Thầy bằng “Anh”.

Anh Phúc là người Quảng Trị với tôi, con Thầy Bàn, bạn của Ba (mà tôi đã nhắc ở trên). Nhà Anh ở sau nhà tôi, cách mấy căn. Môn Anh văn tôi học khá và Anh rất mến tôi. Tôi được Anh  cử thi “Concour général” của khối Đệ Lục. Thỉnh thoảng, trên tạp chí Đời Mới – một tờ báo uy tín thời bấy giờ- tôi thấy có bài viết của Anh. Anh chính là Nhạc sĩ Hoàng Nguyên, tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng như “Ai lên Xứ Hoa DDào”, “Đàn Ơi Xa Rồi”, “Tà Áo Tím” v..v… Sau Hiệp định Genève, một nhóm trí thức ở Huế tranh đấu cho hòa bình thế giới. Nhóm này bị công an bắt, trong đó có Anh Phúc và nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, dạy nhạc trường tôi. Hàng ngày, ngoài giờ học, học sinh chúng tôi thường kéo đến trước cổng Ty Công An - Cảnh Sát, gần trường tôi để nghe ngóng tin tức. Trong Ty, các thầy và một số người khác ngồi trước hàng hiên nhìn ra chúng tôi. Tuy lúc đó, họ không hành hạ hay uy hiếp gì các thầy nhưng chúng tôi vẫn rất xót xa và thương thầy của mình… Một tuần sau, tất cả được thả về, Anh Phúc tiếp tục dạy Anh văn lớp tôi cho đến hết niên khóa. Rồi nghe nói “người ta” không cho Anh ở Huế, Anh lên Đà Lạt dạy ở Trường Bồ Đề. Một mối tình lãng mạn ở xứ “ngàn hoa” đã cho chúng ta ba tác phẩm tuyệt vời của Hoàng Nguyên: “Ai Lên Xứ Hoa Đào”, “Bài Thơ Hoa Đào”“Đường Nào Lên Thiên Thai”. Một lần bố ráp, ở phòng trọ của Anh, cảnh sát không biết tìm được những gì, nhưng nghe nói trong đó có bài Quốc ca Miền Bắc (Tiến Quân Ca) của người nhạc sĩ đa tài mà Anh rất mến mộ: Văn Cao. Anh bị bắt rồi bị đày ra Côn Đảo. Theo tôi, nhạc sĩ Hoàng Nguyên chắc phải có hoạt động gì đó. Về âm nhạc, nhiều tác phẩm có xu hướng dân ca Huế như “Anh Đi Mai Về”, “Tiếng Hai Đêm”… của Anh, lời ca rõ ràng có ẩn ý nhắn nhủ, kêu gọi hòa bình, phản chiến, hướng về tình tự dân tộc…

Năm 1958, Anh được thả về. Hay tin, tôi cùng người em rể, đều là học trò cũ của Anh, đương ở Sài Gòn, đến thăm Anh tại nhà nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ ở đường Bùi thị Xuân. Nhà Hoàng Thi Thơ đang bận tiếp khách, thế là thầy trò chúng tôi đứng ngoài đường nói chuyện với nhau. Chúng ta đọc tài liệu sau để biết việc bắt bớ Anh: “Hoàng Nguyên dạy học ở Trường Tư thục Tuệ Quang, thuộc chùa Linh Quang, khu 4 Đà Lạt, thượng tọa Thích Thiện Tấn (anh ruột Thầy Nhất Hạnh) làm Hiệu Trưởng. Nhà giáo Cao Cự Phúc dạy Việt văn lớp Đệ Lục, Thầy Nhất Hạnh dạy Việt văn lớp Đệ Thất. Tên tuổi hai nhà giáo như một hấp lực, lôi cuốn học sinh đến trường Tuệ Quang.

Chẳng được bao lâu, sóng gió cuộc đời nổi dậy, năm 1956, trong một trận lùng bắt ở Đà Lạt, trường Tuệ Quang có nhiều nhà giáo bị bắt như: Lý Quốc Việt, giáo sư Toán, Lý, Hóa; Nguyễn Hữu Chỉnh, giáo sư Pháp văn… vì hoạt động đảng phải (Đại Việt) và Cao Cự Phúc vì có tham gia phong trào “kháng chiến” chống Pháp.

Hoàng Thi Thơ ở Sài Gòn phối hợp cùng Hoàng Nguyên, tổ chức đại nhạc hội tại Đà Lạt. Đêm đó có truyền đơn phản động đã rải bên ngoài. Trưởng ty Công An Cảnh Sát Phạm Trọng Lý (cha ghẻ nữ danh ca được thành danh trong mấy thập niên qua) đã có thành kiến với Hoàng Nguyên, nhân cơ hội này, quy kết đầu mối có bàn tay của “đối tượng” nên đem nhân viên công lực đến nhà khám xét. Chẳng may, bắt được nhiều bản nhạc tiền chiến, có bản “Tiến Quân Ca” của Văn Cao, nhạc phẩm đó Hoàng Nguyên rất ái mộ. Văn Cao đã nổi danh với ca khúc “Thiên Thai”. Dưới mắt quan chức thẩm quyền, đứng đầu là Trung Tá Tỉnh Trưởng, nhạc phẩm “Đường Nào Lên Thiên Thai” có phần ủy mị, yếm thế, ru ngủ tuổi trẻ và ông cho rằng người sáng tác nhạc phẩm này mơ về một thiên đường không tưởng, vẫn còn đi theo con đường của văn nghệ sĩ bên kia vĩ tuyến… Hoàng Nguyên bị bắt và bị đày ra Côn Đảo khoảng năm 1957” (Vương Trùng Dương- Dòng Nhạc Yêu Thương, Dòng Đời Ngang Trái”… Trích từ bài “Hoàng Nguyên, tìm đâu “thiên đường đã mất?” của Tuệ Chương- Kỷ Yếu Quảng Trị 2000- USA).

Anh lại học Đại Học Sư phạm Anh văn, đi dạy một thời gian thì bị động viên học Sĩ quan Thủ Đức. Ra trường nhờ có nhạc sĩ Anh Việt (Đại Tá Trần Văn Trọng, Cục Trưởng Cục Quân Cụ) đưa anh vào ngành Quân Cụ đồng thời giúp nhạc sĩ Anh Việt trong Hội Nhạc sĩ Quân đội. Anh mất bất ngờ trong một tai nạn xe. Cấp bậc cuối cùng là Đại Úy. Tất cả tác phẩm của Hoàng Nguyên đều có gía trị cả ca từ lẫn âm nhạc. Anh đã viết nhạc bằng cả tâm hồn và trái tim nhân ái. Nếu anh còn sống, biết đâu kho tàng âm nhạc Việt Nam lại không có thêm nhiều ca khúc tuyệt vời? Thật:

          “Thương cho một kiếp tài hoa

            Mà đời lắm nỗi phong ba, đọa đày…” (TVD)

Thầy Nguyễn Hữu Ba dạy tôi môn nhạc hai năm Đệ Thất, Đệ Lục. Thầy là bạn của Ba tôi. Trong những năm kháng chiến 1, Thầy có về quê ở với gia đình tôi một thời gian. Vì hoàn cảnh, Thầy không được học nhiều nhưng đa tài. Thầy chuyên khảo cứu dân ca Việt Nam, đặc biệt cổ nhạc miền Trung. Ngón đàn cổ của Thầy thì ít ai sánh kịp. Nhất là đàn nhị mà khi kéo Violon, cũng rất véo von. Thầy thành lập ở nhà riêng, gần cửa Thượng Tứ một “Tỳ Bà Trang”, trong đó gần như một bảo tàng nho nhỏ về các nhạc khí dân tộc. Ở một bài báo, nhạc sỹ Hoàng Thi Thơ đã gọi nhạc sỹ Nguyễn Hữu Ba là “Một thiên tài Quảng Trị” và viết: “Trong giới nhạc sỹ Việt Nam, không một người nào quá nặng lòng với âm nhạc truyền thống Việt Nam bằng “Thiên tài Quảng Trị” này. Nhạc sĩ Ba, dường như suốt đời, tìm tòi mọi cách bảo tồn và phát huy vốn cổ. Ông đã viết sách sưu tầm, nghiên cứu huấn luyện, phổ biến âm nhạc cổ truyền như một sứ mệnh của đời nghệ sĩ của ông” (Kỷ Yếu Quảng Trị- Năm 2000, Hoa Kỳ). Và thầy Ba đã cho xuất bản nhiều tác phẩm như: Nhạc Pháp Việt Nam và Tự Học Đàn (1940).-Vài Thiển Kiến về Âm Nhạc (1949).- Ca Huế Cổ Truyền (1956).- Tự Học Đàn Nguyệt (1940).- Bản Đàn Tranh- Đàn Tì Bà – Đàn Độc Huyền- Đàn Nhị Huyền (1962).- Phương Pháp Học Đàn Tranh (1962) v.v... Từ năm 1951, trong khi soạn luận án tiến sĩ, nhạc sĩ Trần Văn Khê đã nhờ Thầy Ba “gia công sưu tầm tài liệu về âm nhạc truyền thống Việt Nam”. Sau khi Thầy Nguyễn Hữu Ba qua đời, nhạc sĩ Trần Văn Khê đã “Thương tiếc nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba” bằng một lá thư (1) “chan chứa nước mắt”  và “kết thúc bằng một lời xác nhận minh bạch về thiên tài Nguyễn Hữu Ba” : “Suốt đời anh, anh đã tận tụy với nền nhạc cổ truyền. Anh đã thu được một tư liệu rất lớn, ghi lại tiếng đàn của nhiều nghệ nhân nay đã quá cố. Anh đã truyền nghề lại cho một số đông môn sinh. Anh đã có công gìn giữ, bảo vệ truyền thống âm nhạc Việt Nam…”. (Hoàng Thi Thơ- Về một Thiên tài Quảng Trị).

Về tân nhạc, Thầy Ba sử dụng vĩ cầm (Violon) và “là một nhạc sĩ sáng tác tiền phong” như các ca khúc: Quãng Đường Mai (1940); Lửa Rừng Đêm (1946); Thu Khói Lửa (1946); Xuân Xuân (1948); Tiếng Hát Quân Nam (1950); Ánh Dương Trời Nam, Sám Hối (nhạc tôn giáo). Tuy Thầy sáng tác tân nhạc ít về số lượng “nhưng nhiều và cao về phẩm” như đánh giá của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ.

Thầy cũng làm thơ Đường luật. Ta thử đọc các vần thơ sau: 

Ba Lé Tự Vịnh (Thầy Ba Bị Lé)

Mình có đôi tròng lé cả đôi,

Thảo nào nước chảy tưởng mây trôi!

Thấy ông Đại Tướng ngờ tên cướp,

Thấy đứa nôm bò tưởng cởi voi.

Thấy chị me Tây ngờ qúi phái!

Thấy con chó chết hóa ông Trời!

Nhìn gương soi lại đôi mắt lé,

Mà cũng cho mình chẳng lé thôi…

 “Bài thơ khá dí dỏm, phảng phất sự bất mãn của mình về xã hội mà ông (tức Thầy Ba) đang lây lất sống” (Hoàng Thi Thơ).

Và bài thơ sau làm khi thực dân Pháp nghi ngờ Thầy hoạt động cho Việt Minh rồi tìm mọi cách hạn chế hoạt động nghệ thuật của Thầy. Thầy “đã trải qua một giai đoạn khủng hoảng tinh thần dữ dội” (Theo Nguyễn Đắc Xuân- Chuyện Tình và Thơ Tình Xứ Huế). 

                          Ta chán ta rồi vũ trụ ơi

                                  Đời như nấm mộ nuốt thây người

                                  Sống qua cái chết bao lần khóc

                                 Tính lại cơn mê mấy trận cười

 (1)Ghi chú: Thầy Nguyễn Hữu Ba mất năm 1997 ở Sài Gòn, có lẽ lúc đó nhạc sĩ Trần Văn Khê còn ở Pháp nên mới viết thư “thương tiếc” Thầy Ba (?). 

Sự nghiệp lung linh thân chớm tạ

Nhân tình trắc ẩn lệ hồ vơi

Lắm khi muốn đạp tan trời đất

Cho hả lòng ta hận cảnh đời.

Thầy còn vẽ tranh thủy mặc. Thầy có vẽ tặng Ba tôi hai bức, lồng kiếng đóng khung rất đẹp. Thầy từng làm giám đốc Nhạc Viện Huế và dạy tại Nhạc Viện Sài Gòn. Nhiều nghệ nhân nổi tiếng hiện nay là môn sinh của Thầy. Khoảng 1982, tôi và một người cháu theo chân Ba tôi đến thăm Thầy ở Phú Nhuận. Thầy đã đàn cho chúng tôi nghe và tặng tôi một tập sách nhỏ khảo cứu cổ nhạc Việt Nam. Thầy kể một kỷ niệm vui: Hồi ở Quảng Trị, bọn Tây đi lùng đến nhà Thầy, một thằng hung hăng kéo cái đàn trên vách xuống, rồi “đàn bằng gót giày” (đạp cái đàn bằng gót giày). Vừa nói Thầy vừa làm điệu bộ, pha trò rất tự nhiên, làm cho chúng tôi cười ngặt nghẽo…

Năm Đệ Lục, tôi học Quốc Văn với Thầy Hà Thúc Lãng. Thầy còn giữ nhiệm vụ kiểm duyệt sách báo ở Ty Thông Tin. Một hôm Thầy Nguyễn Hữu Ba kéo Violon cho cả lớp nghe một nhạc phẩm của Hoàng Nguyên rất hay; Thầy viết lời ca lên bảng rồi gạch dưới nhiều ca từ, lưu ý chúng tôi đó là những từ bị kiểm duyệt. Và Thầy nói xa nói gần để cho học trò biết người kiểm duyệt là Thầy Hà Thúc Lãng. Tôi không còn nhớ tựa đề bài hát, chỉ nhớ- không đủ- phần đoạn đầu cùng với điệu nhạc: “Người về Miền Bắc nhớ thương người ở Miền Nam (…). Đây dốc ngược Câu Nhi đây bến đò Ba Lòng. Tiếng ai hò trên sông…”.  Bài này về sau Hoàng Nguyên đặt lời ca mới và xuất bản được. Thầy Hà Thúc Lãng có hai người con cũng là thầy của tôi. Thầy Hà Như Hy dạy Công dân Đệ Ngũ, sau làm Hiệu Trưởng Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi và Thầy Hà Như Chi dạy Văn lớp Đệ Nhị lúc tôi ở Sài gòn, là tác giả hai tập giảng văn nổi tiếng, biên soạn rất công phu: “Việt Nam Thi Văn Giảng Luận”. Thầy cũng là dân biểu Quốc hội có uy quyền thời Ngô Đình Diệm.

Thầy Võ Long Tê dạy tôi môn Việt văn Đệ Ngũ. Một buổi chiều, mới vào lớp Thầy đã hỏi: “Em nào không soạn đoạn Chinh Phụ Ngâm mà thầy đã cho chép trên bảng?”. Ở nhà, tôi cứ nghĩ mới bắt đầu học Chinh Phụ Ngâm, chắc Thầy sẽ giảng ở lớp nên không soạn. Tôi “thản nhiên” đứng dậy liền, tiếp theo bảy tám đứa khác cũng đứng lên trong đó có hai bạn Nguyễn Kim Hoàn (ở lại lớp) và Tôn Thất Hoàng (trường tư mới thi vào). Cả hai đều học kém lại ngang tàng, nghịch ngợm, chơi thân với nhau. Thầy Tê cho mỗi đứa không soạn bài một con zéro vào sổ điểm. Chiều lại, tan học, cuốn sổ điểm tự nhiên biến mất. Năm đó (1956), Khải Đinh “nhỏ” đổi tên là Nguyễn Tri Phương, Thầy Đinh Quy làm Hiệu Trưởng. Thầy nổi tiếng nghiêm khắc, học trò rất sợ. Sáng hôm sau, Thầy cho gọi riêng từng đứa bị điểm “không” vào phòng Hiệu Trưởng, trong đó có tôi. Thầy vừa như hăm dọa lại vừa dỗ dành. Trong lòng, tôi đang nghi hai bạn Hoàn và Hoàng là thủ phạm vụ này nhưng không dám nói ra. Về sau vụ việc qua ngày tháng, không tìm ra ai, cuối cùng cũng êm xuôi… Thầy Võ Long Tê từng làm Tùy Viên Văn hóa Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Pháp. Vào những năm 1960-1970, Thầy làm ở Bộ Quốc Gia Giáo dục, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc trách Văn Hóa Sài Gòn. “Trong văn học hiện đại Việt Nam, Võ Long Tê được xem như một nhà nghiên cứu nghiêm túc giới thiệu được một phần tinh hoa văn học Việt Nam đến các bạn đọc Việt Nam, cũng như trong cộng đồng độc giả sử dụng tiếng Pháp trên thế giới. Các tác phẩm của ông đã phần nào nói lên được cốt lõi của một bộ phận văn học, sử học, địa dư học Việt Nam đến người đọc nước ngoài muốn tìm hiểu lịch sử, văn chương Việt Nam cũng như lịch sử văn hóa Việt Nam”. (Nguyễn Q. Thắng- Văn học Việt Nam, Tập 3). Thầy Võ Long Tê còn là một nhà thơ nữa. Hiện Thầy định cư ở Canada.

Các tác phẩm chính của Thầy: Việt Văn Độc Bản (Huế, 1950); Lịch Sử Văn Học Công Giáo Việt Nam (Sài Gòn, 1965); Ánh Sáng Trong Đêm (Thơ, Sài Gòn, 1966) (Lumière dans la nuit); Tiệc Cưới (Thơ, Sài Gòn, 1968) (Festin de noces); Les archipels de Hòang Sa et de Trường Sa selon les anciens ouvrages Vietnamiens d’histoire et de géographie (Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua các tác phẩm cổ của lịch sử và địa lý Việt Nam) (Sài Gòn, 1974). L’expérience poétique et itinéraire spirituel de Hàn Mạc Tử (Sài Gòn, 1974).v.v..

Trường có sáu lớp Đệ Ngũ. Môn Sử Địa được chia cho hai thầy Ưng Đồng và Cao Hữu Triêm dạy, mỗi thầy ba lớp. Thầy Triêm dạy lớp tôi, Thầy nổi tiếng dạy hay về môn này. Thi Trung học Đệ Nhất Cấp nếu đậu viết (écrit) xong, khi qua thi vấn đáp (oral) Sử Địa, các thí sinh hầu như đều gặp Thầy Triêm. Ở Nguyễn Tri Phương, hai kỳ thi Lục Cá Nguyệt, sáu lớp chúng tôi bị xáo trộn ngồi theo vần a,b,c và làm cùng đề. Hôm thi Sử Địa, trong số các câu hỏi có một câu Thầy Triêm chưa dạy mà Thầy Đồng thì dạy rồi nên cậu ngồi kế tôi, học Thầy Đồng, viết “ro ro”, còn tôi đành cắn bút. Tôi nghĩ nếu xem cậu đó chép vào thì Thầy Triêm sẽ biết là tôi “cóp-pi” (copier). Bởi vậy, để chứng tỏ sự ngay thật, cũng như lý do không làm bài được, tôi ghi vào giấy thi: “Bài này Thầy Triêm chưa dạy”. Sau kỳ thi, Thầy Triêm vào hai lớp B1 và B3 nói với học trò rằng: “Bên B2 có thằng Trần Văn Dật dám cả gan viết vào bài thi nói thầy Triêm chưa dạy…”. Các bạn hai lớp này thuật lại cho tôi nghe thế. Tuy nhiên vào lớp tôi, Thầy dạy bình thường, không đả động gì đến chuyện đó cả, mà tôi cũng không biết Thầy cho mình mấy điểm vì Thầy không phát bài cũng chẳng đọc điểm. Nhưng tôi bắt đầu lo sợ, sợ gặp Thầy trong kỳ thi vấn đáp Sử Địa năm sau. Bấy giờ tôi đã võ vẽ làm được một số bài thơ, có cả thơ Xuân. Nhân dịp Tết, tôi chép thơ tôi vào giấy đẹp, đóng thành tập nhỏ, nhờ hai thằng bạn thân trình bày thật trang nhã, có hoa lá cành, mua thêm thiệp Xuân viết lời chúc Tết Thầy. Đầu tập thơ cũng như dưới thiệp đề tên cả ba đứa rồi chúng tôi mang đến nhà tặng Thầy. Thầy vui vẻ đón nhận và chuyện trò với chúng tôi. Làm được việc ấy, tôi mới thấy lòng mình nhẹ hẳn. Lên Đệ Tứ, vẫn Thầy Triêm dạy Sử Địa nhưng hôm thi vấn đáp, tôi lại gặp Thầy Lê Hữu Mục, giáo sư Quốc Học, sau dạy Đại học Văn khoa Huế. Thầy Mục bỏ các câu hỏi vào trong hộp, tôi bốc trúng bài “Đồng bằng Nam Việt”, tôi đọc ngay, còn một đoạn ngắn ở sau tôi quên béng nên đứng im. Thầy Mục bảo tôi đọc tiếp, tôi “láu cá” trả lời: “Thưa thầy, Thầy Triêm chỉ dạy chừng đó thôi”. Thầy làm thinh, cho điểm. Ở Quốc Học, Thầy Mục cũng có dạy tôi một thời gian ngắn. Thầy là tác giả hai cuốn luận đề về “Nửa Chừng Xuân” của Khái Hưng, “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh và một số công trình dịch thuật từ Hán văn qua Việt văn. Sau 1975, thầy định cư tại Canada.

Đến môn thi Vạn vật (Sinh vật), giáo sư phụ trách là một cô trẻ, đẹp và toát ra một nét hết sức hiền hậu. Cô dạy ở Đồng Khánh, tôi không biết tên. Cô gọi tôi lên. Với vẻ mặt đầy buồn khổ, tôi thưa thật với Cô: “Thưa Cô, em chỉ thuộc bài “Mắt”! ”. Cô nhỏ nhẹ bảo tôi về lại bàn ngồi soạn trước. Tôi mừng hú vía! Không hiểu sao Vạn Vật là môn học bài mà tôi đần một cách lạ lùng! Cứ học thuộc đó rồi sau lại quên ngay. Trước hôm vào thi vấn đáp, tôi đã học lui học tới Sử Địa, Vạn Vật, thế mà Sử Địa thì nhớ nhưng Vạn Vật lại quên. May còn nhớ được bài “Mắt”. Hai môn dốt khác của tôi là Lý và Hóa. Từ Đệ Thất cho đến Đệ Ngũ, tôi chẳng hiểu gì về hai môn này nên không làm trúng được một bài toán lý hóa nào. Mãi đến năm Đệ Tứ, năm quyết định cho tương lai, tôi mới biết cân bằng phản ứng mà làm được toán hóa và hiểu về điện, quang, để làm trúng bài tập lý. Nói chung, với tôi suốt cả đời, cái gì liên quan đến máy móc, khoa học, tôi không thích lắm, nên làm biếng tìm hiểu. Cũng vì cái tánh đó, mà đến bây giờ, thời đại vi tính, người ta toàn viết trên máy để sửa chữa thêm bớt dễ dàng thì tôi  vẫn ngồi viết tay, sau mới nhờ đánh lại để sửa hoàn chỉnh.

Sau hiệp định Genève (20-7-1954), Tây rút về. Khải Định “lớn” từ Trường Đồng Khánh trở lại vị trí cũ, rồi năm 1956 được đổi tên thành “Quốc Học Ngô Đình Diệm” nhưng tên này không hiểu vì sao chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Có lẽ thấy thêm ba chữ “Ngô Đình Diệm” sau chữ “Quốc học” có vẻ không ổn lắm, lại thôi!...

Lên Đệ Nhị Cấp, khi học ở Quốc học, Thầy Cao Xuân Duẩn, giáo sư Anh văn, dạy quyển “L’Anglais Vivant Troisième bleu”. Bài đầu tiên là “Civil War” (Nội chiến). Thầy uốn lưỡi đọc hai chữ Civil War trông có vẻ đau khổ nên bọn học trò tinh nghịch chúng tôi cứ thấy Thầy là đọc “Civil War”. Thầy Cao Hữu Hoành, em ruột Thầy Triêm dạy Pháp văn. Thầy thích nói về Triết. Chính câu chuyện Le Cid mà Thầy dạy đã ảnh hưởng đến tôi để tạo nên một mối tình khá trớ trêu khi học ở Viện Hán Học!... Thầy Phạm Ngọc Hương thì dạy tôi Quốc văn, học về Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Kiều… Thầy hiếm khi mang theo sách vở. Cứ vào lớp, Thầy đọc thuộc tuần tự từng câu thơ rồi bình giảng; lần sau lại đọc câu tiếp. Chúng tôi thán phục trí nhớ siêu đẳng của Thầy. Thầy có một cửa hiệu lớn bán đồ máy móc gần nhà sách Ưng Hạ đường Trần Hưng Đạo. Thầy thường lái xe hơi đi dạy. Nhà Thầy là một villa đẹp trong khu đất rộng. Thầy Duẩn, Thầy Hoành về sau đều dạy ở Viện Hán Học. Lúc tôi học năm thứ tư ở đó thì Thầy Hương về làm Giám Học của Viện thay Thầy Phan Văn Dật và kiêm môn Văn lớp tôi thế Thầy Nguyễn Văn Dương chuyển qua trường khác. Trước đó độ một tháng, Thầy Dương ra đề luận cho sinh viên nghiên cứu để viết về Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải trong Truyện Kiều. Tôi tìm đọc nhiều sách liên quan đến Truyện Kiều rồi viết ra trên những tờ giấy lớn đóng thành tập; nhờ người bạn cùng khóa, Nguyễn Bá Yên trình bày, viết các tựa đề chữ to rất đẹp. Nhưng Thầy Dương ra đi thình lình, tôi đem đến nhờ Thầy Hương xem. Không ngờ có nhiều đoạn Thầy khen và phê một câu đầy ấn tượng: “Một sinh viên có tương lai!”. Thầy còn “bắt” tôi thuyết trình trước lớp bài viết của mình. Cuối năm ấy, tôi đứng Nhất, được Huy chương đồng về học lực của Viện Đại Học Huế. Thầy Hương phê trong học bạ tôi “Học hạnh kiêm ưu”. Nhưng thưa Thầy, Thầy tiên đoán về con sai rồi: Sau “Giải phóng”, con quá lao đao! Con bị đày đọa đủ cách!...

Cũng niên khóa này, con gái Thầy Hương học năm thứ nhất theo qui chế mới. Cô ta khá xinh xắn, dễ thương. Thầy quen Hội Việt Mỹ nên xin cho Viện Hán Học tổ chức một đêm văn nghệ tại đó, cô con gái của Thầy cùng ở trong ban hợp ca với tôi. Những buổi tập dượt, chúng tôi hay nhìn nhau mà chẳng nói với nhau lời nào. Tối trình diễn, ban hợp ca mặc đồng phục có gắn “nơ” trước ngực. Tôi khá xúc động và ngạc nhiên khi các bạn gái của cô đứng đó, mà cô lại tìm đến, nhờ tôi cài “nơ” lên ngực cô. Tối ấy, tôi hân hạnh “đèo” cô về nhà trên chiếc vélo-solex của tôi. Vì “mới ban đầu”  “còn giữ ý”, tôi không dám thổ lộ gì… Nhưng rồi, “nghe đâu” một bạn gái của cô ta mà “nhan sắc không được mặn mà” ganh tị, đã “thọc gậy bánh xe”, nên cô ta “đành” hay “dứt khoát” quay lưng lại với tôi. Thậm chí cuối hè, tôi bị tai nạn xe nằm ở bệnh viện, các bạn nam nữ cùng khóa, khác khóa, quý thầy, có Thầy Hương nữa – là ba của cô- đến thăm hỏi tôi, an ủi tôi, vỗ về tôi nhưng tôi chẳng thấy cô đâu cả... Sau khi Viện Hán Học bị giải thể, cô qua học Đại Học Sư phạm Anh văn. 

Ở Viện Hán Học, Thầy Nguyễn Hồng Giao dạy Tứ Thư. Thầy khoan hòa, điềm đạm, ăn nói chuẩn mực. Năm đầu Thầy dạy Luận Ngữ. Thầy viết bài Hán Văn lên bảng cho chúng tôi chép vào vở, xong Thầy giảng, chúng tôi lại ghi nhớ. Một hôm ra nhà sách gặp cuốn Luận Ngữ của Đoàn Trung Còn chú giải, tôi mua về, thay vở mới, chép lại các bài mà Thầy Hồng Giao đã dạy rồi ghi theo lời giảng của Đoàn Trung Còn. Thầy Giao gọi tôi lên hỏi bài. Thấy vở tôi chỉ chép các lời giải của Đoàn Trung Còn mà không có lời nào của Thầy, Thầy có vẻ không bằng lòng. Nhưng lần nọ, Thầy ra một đề tài nghiên cứu: “Người quân tử trong Nho giáo”, thời gian làm một tháng. Tôi sưu tập tài liệu về người quân tử và đến nhà Thầy Dật, nhờ kho sách của Thầy, tìm đọc, ghi chép tại chỗ rồi về nhà hoàn thành bài nghiên cứu đúng kỳ hạn. Khi chấm bài, Thầy Hồng Giao đã phê: “Một điểm son!” 18/20. Năm thứ ba học về Mạnh Tử. Thầy ra đề: “Mạnh Tử, nhà cách mạng”,  Thầy lại cho 18,5/20 rồi cũng phê: “Một điểm son!”. Chính những lời khen của quí Thầy đã khích lệ tôi nhiều trong việc học tập… Khi không còn Viện Hán học, Thầy Giao qua dạy Trung học. 

Thầy cùng Thầy Võ Như Nguyện đã soạn quyển “Học chữ Hán” tập I, xuất bản năm 1959. Rồi khi Bộ Văn Hóa  ủy thác cho Viện Đại Học Huế soạn thảo sách dạy Hán văn cho các lớp Trung học Đệ Nhất cấp thì Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế kiêm Giám đốc Viện Hán học “đã giao việc soạn thảo bộ sách ấy cho hai giáo sư Viện Hán học là ông Võ Như Nguyện và ông Nguyễn Hồng Giao. Hai ông không những là giáo sư giàu kinh nghiệm về việc dạy Hán văn mà còn là tác giả những cuốn sách giáo khoa có giá trị về ngành này. 

Khi hoàn thành bản thảo (gồm 2 tập, tập I cho các lớp Đệ Thất và Đệ Lục, tập II cho các lớp Đệ Ngũ và Đệ Tứ), hai ông đưa cho tôi xem, tôi lấy làm vừa ý lắm. Sách soạn công phu và đạt được mục đích của Bộ đã đề ra, nghĩa là hai tác giả đã khéo chọn lựa những câu, những đoạn văn, trong đó những chữ Hán Việt đã giữ một vai trò quan trọng (…)” (Trích “Lời giới thiệu” của L.M Cao Văn Luận viết ngày 14-01-1964). Đó là hai quyển “Hán Văn Giáo Khoa Thư” Tập I và Tập II. Thầy Phan Văn Dật, Giám học Viện Hán học thì viết bài Tựa: “ (…) Bộ sách này dày gấp bốn quyển “Học chữ Hán” và riêng cho mỗi năm số bài soạn có phần nhiều hơn số bài cần thiết cho cả niên khóa, để học sinh có bài học thêm ngoài những bài đã dạy ở lớp và quý vị giáo sư có thể tùy nghi lựa chọn.

Sách soạn rất công phu và có phương pháp (…). Thỉnh thoảng ta lại tìm thấy một vài giai thoại hay một cuộc so sánh hứng thú làm cho bài học không bao giờ có vẻ khô khan. Với cách trình bày như vậy, học sinh có lẽ không bao giờ đến nỗi nhàm chán và sợ môn Hán tự; ở đâu họ cũng gặp những chữ thường nghe, thường nói nhưng chưa hiểu được một cách minh xác tường tận. Người học chỉ cần nhận kỹ những điều giảng giải và chỉ dùng trí nhớ về chữ viết thôi. Học hết bộ này có thể nói rằng học sinh sẽ biết dùng một cách chắc chắn đa số danh từ Hán Việt thường gặp trong các sách báo ngày nay…”. Hai quyển Hán văn “Giáo Khoa Thư” Tập I (Lớp Sáu- Lớp Bảy) và Tập II (Lớp Tám, Lớp Chín) đều do Trung Tâm Học Liệu- Bộ Giáo Dục Sài Gòn xuất bản: Tập I, in năm 1965, 2000 quyển; tái bản năm 1972, 5000 quyển. Tập II , in năm 1972, 5000 quyển. Sau này Nhà Xuất bản Đà Nẵng đã in và tái bản nhiều lần.

Cụ Ngô Đình Nhuận dạy Hán văn lớp tôi năm thứ ba. Niên khóa ấy tôi làm lớp phó, thường  điểm danh các bạn rồi báo cho mỗi thầy trước giờ dạy. Chiều đó, Nguyễn Văn Đài, con thầy Nguyễn Văn Kháng (dạy tôi Pháp văn) không biết “bận việc” đi chơi hay có giờ học bên Văn Khoa mới dặn tôi: “Tau nghỉ, mi đừng ghi tau vắng nghe!”. Cụ Nhuận bước vào, tất cả sinh viên đứng dậy và tôi báo: “Thưa Cụ, lớp đủ”. Cụ chưa cho chúng tôi ngồi xuống mà lại đếm (lớp B tôi chưa được 30 người, nên qua năm thứ tư, hai lớp A,B nhập làm một được 56 sinh viên). Tim tôi đập thình thịch và lo sợ… Cho lớp ngồi xuống rồi Cụ mới la tôi. Tôi rất xấu hổ, thế mà cũng “bướng” đứng dậy bào chữa: “Thưa Cụ, con không bao giờ dám nói láo. Khi nãy con đếm đủ mà!”. Sở dĩ tôi dám “qua mặt” Cụ như vậy, vì giờ Cụ, chưa lần nào nghe Cụ hỏi sĩ số. Độ một tuần sau, Cụ bệnh rồi mất. Nghe tin, sau giờ học, tôi và một số bạn khác chạy qua nhà Cụ liền, lúc chưa khâm liệm. Cụ đương nằm trên một chiếc giường trong buồng. Không biết đã có ai vuốt mắt cho Cụ chưa, hay vì bị ám ảnh, tôi thấy Cụ cứ nhìn tôi trừng trừng. Tôi có cảm nghĩ Cụ vẫn còn giận tôi về hành vi “bất chính” của mình hôm đó đối với một người thầy!

Những thầy cao tuổi dạy ở Viện, chúng tôi đều gọi bằng “Cụ”; ngay những giáo sư trẻ hay trung niên, cũng gọi các thầy đó bằng “Cụ”. Như Cụ Nguyễn Duy Bột, dạy Sử Trung Quốc, Cụ Hà Ngại dạy Hán Văn, Cụ Hồ Đắc Định dạy Đường thi v.v… 

Một hôm tôi đưa tập thơ của tôi nhờ Cụ Định xem. Phần lớn cụ phê bên cạnh “Được”! Cũng có bài Cụ sửa. Một bài khác có nội dung: Người con trai chưa có công danh sự nghiệp, tương lai còn mờ mịt, lại sống vất vưởng rày đây mai đó, nên chàng khuyên người yêu hãy quên mình đi. Đọc xong, Cụ phê:  “Phụ tình chăng?”. Cụ tuy “cựu” nhưng lại rất “tân” trong thơ phú, thích “tự do” hơn theo “luật”, chẳng hạn như những câu thơ trong bài “Người Em”:

                                               “Trăng,

Nước.

Ngọc.

Vàng.

Tồn tại,

Tiêu tan;

Một vẻ khuynh quốc,

Một ánh hào quang;

Tây Thi mà Ngô Phù Sai mất nước,

 Elvire mà Lamartine dài than;

 Mỵ Nương mà Thủy Tinh gây sóng gió,

 Samson mà Edouard bỏ ngai vàng.

 Dung nhan em không bút tả,

 Cách điệu em không lời bàn,

 Chỉ dám lăm le chuỗi thủy túy,

 Chỉ dám thầm thĩ vòng kim cang.

 Nơi em là âu yếm,

 Nơi em là bàng hoàng;

 Em là phẩm kiệt tác của vũ trụ,

 Em là cả những gì của thế gian!”

             Từ năm 1930, Quách Tấn làm việc tại phòng kế toán Tòa Khâm Sứ Huế đã viết ở “Trường Xuyên Thi Thoại” (Trường Xuyên là bút hiệu của Quách Tấn) : “Trong phòng (ở Tòa Khâm Sứ) có cụ Tôn Thất Lương và cụ Hồ Đắc Định là hai nhà thơ có tiếng ở Thần Kinh”. Ngoài tài làm thơ, Cụ Định còn vẽ tranh thủy mặc rất đẹp bằng những nét nhẹ nhàng, thanh tao. Trên mỗi bức, Cụ thường viết thảo một đôi câu chữ Hán, càng điểm xuyết cho họa phẩm. Thế mà trong suốt mấy năm liền học với Cụ chẳng ai biết tài vẽ tranh của Cụ cả. Cho đến năm 2001, nhân các anh chị em cựu Hán Học ở Sài Gòn tổ chức đi Miền Tây rồi ghé Vĩnh Long thăm tôi, trở về (Sài Gòn), chị Nguyễn Thị Minh Hoàng (khóa IV), cháu của Cụ đã gởi tặng tôi tập “Cô Tùng Minh” của Liên Hồ Hồ Đắc Định mà các con Cụ sưu tập và in (lưu hành nội bộ) nhân ngày giỗ thứ 22 (1978-2000) của Cụ. Rồi trong tập thơ, tôi mới “thưởng ngoạn” được vài bức tranh của Cụ. Tôi ghi thêm vào đây bài “Cảm đề Cô Tùng Minh Thi Tập” của Thầy Phan Văn Dật để thấy “lòng ái mộ” của Thầy đối với Cụ Định: “Có những vinh dự quá lớn lao mà tầm vóc nhỏ bé của người thọ lãnh không đủ sức đương nổi. Nhận viết những dòng này, tôi tự thấy gần như mang trong mình một mặc cảm tội lỗi. Vì giữa Liên Hồ tiên sinh và tôi có cả một mối tình sư đệ mà năm tháng chỉ càng thắt chặt hơn lên.  Một kẻ chỉ biết thụ giáo thì đâu còn dám lãnh cái trọng trách giới thiệu và phê bình. Tôi chỉ tìm thấy ở đây một cơ hội để nói lên tất cả tấm lòng cảm mến của tôi đối với tiên sinh, một sự cảm mến chân thành và nồng nhiệt.

Cô Tùng Minh Toàn Tập gồm đến mấy trăm bài. Chẳng may mấy năm trước đây, cảo bản đã bị thất lạc. Nể lời một số thi hữu, gần đây tác giả mới tìm kiếm và thu nhặt lại được một số ít bản nháp còn sót lại trong những chồng giấy cũ, cho sao chép vào trong tiểu tập này.

Tại sao nhan sách lại lấy hai chữ “Cô Tùng”? Các văn hữu thường lui tới với Liên Hồ tiên sinh, thoạt bước vào ngõ đã trông thấy một cây tùng đột khởi giữa sân, không biết trồng tự hồi nào song vẫn luôn luôn trơ gan cùng tuế nguyệt. Phải chăng chủ nhân của nó muốn ngụ ý rằng mình cũng có cái tâm trạng như Đào Nguyên Lượng khi xưa và đã hồi tâm với mọi mùi thế lợi? Có một điều chắc chắn là giữa thời buổi nhiễu nhương nầy, những lúc lòng ta bị quá mài dũa mà không tìm được chốn qui y, bước đến Cô Tùng Minh uống chén trà ngọt, xem những bức tranh thủy mặc đượm màu tiêu sái và nghe những vần thơ chất chứa u hoài của tiên sinh, ít nhất ta cũng tìm thấy được ít nhiều an ủi. Tôi tưởng không riêng gì những người đứng tuổi mà ngay các bạn trẻ sinh viên Văn Khoa, đệ tử của tiên sinh, cũng cùng chung một cảm nghĩ như thế.

Đã nhiều năm rồi, tôi may mắn được tiên sinh cho lạm dự vào hàng vong niên chi hữu, nhưng lúc nào tôi cũng tự xem mình là một kẻ môn sinh. Tôi yêu thơ của tiên sinh cũng như tôi quí tấm lòng của tiên sinh. Kể về tuổi tác thì tiên sinh tuy thuộc về thế hệ các bậc lão thành, song kể về tinh thần thì tiên sinh lại là người rất trẻ và rất mới. Không phải cái mới lố lăng ngượng ngập của kẻ xu thời, vì mới có hẳn đâu là tốt, tiên sinh mới ở chỗ tiên sinh có cái tâm thức, cái nếp suy tư của con người thời đại, tiên sinh càng trẻ và mới hơn khi tiên sinh biểu hiện được cái tâm thức ấy, những suy tư ấy bằng tiếng nói của thời đại. Đặc biệt nhất là thơ của tiên sinh vừa là thơ cũ, vừa là thơ mới, cũ đã không giống ai mà mới lại càng chẳng giống ai, hay nói cho đúng, thơ tiên sinh chỉ là thơ. Có thể nói rằng tiên sinh đã biệt thành nhất gia cơ trữ. Thử hỏi các dòng dưới đây là cũ hay là mới và có một chút gì giống những câu ta thường nghe, thường đọc không? Tiễn bạn đi xa, tiên sinh viết:

Nhớ nhung còn lắm thư từ

  Mười vần đây, một bài thơ ban đầu.

…..

Sông tuôn về đông, người qua tây,

Lòng trời ganh tình người xưa nay.

Tiên sinh có đủ mọi thứ tình, tình với giang sơn đất nước, tình với hoa cỏ chim muông, tình với giới cần lao, lam lũ và cố nhiên tình với người đẹp, tình với tình, song thắm thiết nhất là tình với các bạn tri giao. Người xưa đã từng ước vọng:

Bất nguyện sinh phong vạn hộ hầu

Đản nguyệt nhất thức Hàn Kinh Châu (1)

         Tôi không biết được nhất thức Hàn Kinh Châu sung sướng đến bậc nào, chứ được nhất thức Liên Hồ thì quả thật là một điều hạnh ngộ. Ta hãy nghe tiên sinh nói với bạn là Nhược Thủy:

Ai đo lường biển sâu đến thế nào?

Mà đo lường lòng đôi ta thâm giao.

Thật là giản dị và tình tứ biết bao!

Nếp sống của tiên sinh ở Cô Tùng Minh đúng như lời của Lưu Trọng Lư nói về thi sĩ Tản Đà, là cả một công trình mỹ thuật:

Quan âm, điểm chén danh trà

Sen thơm khắp án, nguyệt sà nửa hiên.

Câu thơ này có mùi vị cổ sơ và du ta về dĩ vãng. Nhưng nói sao cho hết cái hay, cái đẹp của “Cô Tùng Minh Thi Tập”? Trong một phút đắc ý, Thế Lữ đã tự hào rằng đối với nàng Thơ, ông có cả một cây đàn muôn điệu, một cây bút muôn màu, tôi tưởng đó cũng là trường hợp của Liên Hồ tiên sinh.

Thơ tiên sinh gồm đủ thể, nhưng phần nhiều là không gò bó trong một khuôn khổ nào mà chỉ tung hoành theo cái thi hứng. Bài ngắn chỉ có tám, mười câu, bài dài như bài “Mơ màng” có ngót hai trăm câu. Tiên sinh còn rất sở trường về thơ dịch

--------

  1. Theo anh Phan Thuận An (Khóa 1 Viên Hán học) và anh Huỳnh Quang Vinh (Khóa 2 Viện Hán học) thì có lẽ người đánh vi tính, đánh nhầm chữ “nguyện” thành chữ “nguyệt”. “Đản nguyện” nghĩa là “Chỉ muốn”. Còn “Đản nguyệt” thì không có nghĩa gì ở đây. Vậy hai câu: “Bất nguyện sinh phong vạn hộ hầu/ Đản nguyện nhất thức Hàn Kinh Châu”, anh Vinh “tạm chuyển ngữ: “Chẳng ước được phong vạn hộ hầu/ Chỉ mong cầu biết Hàn Kinh Châu”; còn anh An thì: “Theo thiển ý, hai câu thơ ấy có lẽ được hiểu như sau: “Chẳng muốn trong đời được phong tước hầu hưởng lộc một vạn nhà/ chỉ muốn một lần được quen biết với Hàn Kinh Châu”. Anh An cho biết đã tra cứu nhiều bộ từ điển nhưng chưa “tìm thấy nhân vật Hàn Kinh Châu”.

và có những bài dịch Đường thi của tiên sinh ta thấy không kém gì nguyên tác.

Viết đến đây, tôi thấy hình như tôi chưa nói gì về thơ của Liên Hồ tiên sinh cả. Vì thơ của tiên sinh cần phải đọc luôn cả toàn tập thì mới nhận chân được hết giá trị của nó. Tôi chỉ là một kẻ rất mến tài của tiên sinh và muốn nhân cơ hội này nói lên tất cả tấm lòng ái mộ của mình.

Huế, ngày đầu Xuân Bính Ngọ (1966)

Kính đồ,

Phan Văn Dật”

Thầy Võ Như Nguyện, Chủ Sự văn phòng, không dạy, trực tiếp quản lý Viện Hán Học. Thầy trông rất oai vệ, từng làm Tỉnh Trưởng và phụ trách an ninh cả Miền Trung. Thầy thường đi làm bằng xe hơi có tài xế vừa là cận vệ do chính quyền phái qua. Một lần tôi với một số bạn Sinh viên đến gặp trực tiếp Cha Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại học kiêm Giám Đốc Viện Hán Học, đưa đơn xin Cha cho Thầy Phan Văn Dật, nguyên Giám Học Viện Hán Học, đã bị “đẩy” xuống làm dịch thuật ở Thư Viện Huế, được dạy lại. Đơn trả về Viện Hán Học và Thầy Nguyện gọi tôi xuống văn phòng bảo là tôi đã làm một việc thiếu nguyên tắc hành chánh, vượt hệ thống. Thầy đã la tôi. Dù vậy, lúc nào tôi cũng kính mến Thầy Nguyện. Rồi chính sự rầy la đó mà tôi tìm đến “người cháu gái của Thầy” đang học ở Hán Học Viện. Tôi thử áp dụng câu chuyện Le Cid mà Thầy Cao Hữu Hoành đã dạy tôi. Ai dè cuộc tình đến quá nhanh chóng và mỗi ngày mỗi khắng khít giữa những bất trắc đang bủa vây bên ngoài… Và lúc tôi đang ở xa, “nghe đâu” chính Thầy Nguyện là người đứng ra xe kết cho “hai đứa chúng tôi”, nhưng có lẽ không phải duyên nợ nên tất cả chỉ còn là kỷ niệm…

Ba của Thầy là Cụ Võ Bá Hạp, một chí sĩ cận đại. Cụ đỗ Cử Nhân, không ra làm quan, kết giao với các nhà ái quốc. Chính Cụ đã lo liệu cho Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ xuất dương. Khi Tăng Bạt Hổ trở về và bị trọng bệnh, cũng chính Cụ Bá Hạp lo thuốc thang và  chôn cất lúc Tăng Bạt Hổ mất (1908). “Trong quyển Việt Nam Nghĩa Sĩ Liệt Truyện, nhắc đến các liệt sĩ đã hy sinh, Phan Bội Châu vẫn ghi nhớ sự đóng góp của Võ Bá Hạp. Trên báo Tiếng Dân, Huỳnh Thúc Kháng cũng nhắc đến ông (Võ Bá Hạp) với lòng quý mến, cảm phục”. (Nguyễn Q. Thắng- Nguyễn Bá Thế: Từ điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam).

Xuất thân trong một gia đình có truyền thống cách mạng, thầy Võ Như Nguyện cũng hoạt động chính trị nên trong cuốn 2 “Tuấn, Chàng trai nước Việt” của Nguyễn Vỹ đã nhắc đến tên Thầy khi Thầy bị Pháp bắt giam “tại một nơi rừng thiêng nước độc của dân thiểu số Raddhé thuộc huyện Củng Sơn, tỉnh Phú Yên, Trung Kỳ”. Thầy cũng luôn tưởng nhớ và hết sức trân trọng những nhà ái quốc ái quần chân chính. Thầy đã di dời mộ Cụ Tăng Bạt Hổ và mộ Cụ thân phụ Thầy về khuôn viên lăng mộ Cụ Phan Bội Châu. Lần nọ, anh sinh viên đồng khóa 2 Viện Hán học với tôi “xúc phạm” đến Cụ Phan Bội Châu- “chê” một tác phẩm của Cụ -, Thầy rất tức giận và “cảnh cáo” cậu ta dưới cột cờ… Hôm Thầy từ Pháp qua Mỹ chơi, anh chị em cựu Hán Học ở California đã họp mặt đón Thầy. Chị Võ Hồng Phi (Khóa 2) cho tôi biết nhân có anh Phan Cảnh Lãng (Khóa 2) sắp về Việt Nam, Thầy đã đưa tiền cho anh Lãng và yêu cầu anh lên chùa Châu Lâm (ở Huế) “nhờ quý thầy hướng dẫn để tìm và thăm ngôi mộ song hồn của hai vị tiền bối liệt sĩ: Trần Cao Vân và Thái Phiên. Nếu cần phải xin phép chính quyền địa phương để tu sửa và xây dựng…” ( Thư của Thầy Võ Như Nguyện gởi cho anh Trần Khánh Tiếu, Khóa 3). Nhưng về Việt Nam, anh Lãng lại nhờ anh Trần Khánh Tiếu đảm trách công việc ấy. Và anh Tiếu cho biết: “Nhà nước đã xây dựng năm 1990 rất chỉnh đốn và trang nghiêm. Tôi đã gởi thư và ảnh để phúc đáp đến Thầy “kính tường” để thầy yên tâm” (Trần Khánh Tiếu – Thắp lửa song hồn chí sĩ…!).

Chúng ta hãy đọc mấy vần thơ sau để thấu được phần nào tâm sự của Thầy Võ Như Nguyện trong tuổi già ở nơi phương trời xa lạ:

Thuật Hoài

Tám chục lẻ năm suốt cuộc đời

Trầm, thăng, vinh, nhục… - một trò cười!

Chức quyền năm bận tham gia thử

Luy tiết bốn lần thách thức chơi!

Nghĩa nặng gia đình không trọn vẹn

Ân sầu quốc tổ khó đền bồi!

Phong trần huyễn mộng dằng dai kiếp

Hổ với non sông, thẹn với người!

Võ Như Nguyện

Canh Thìn (2000)


       Hoài Cựu (Nhớ bạn xưa)

Tương thức, tương tri khuất bóng rồi!

Hồng trần quạnh quẽ kiếp đơn côi…

Tơ chùng phiếm lạnh  đàn im  tiếng

Thơ cũ vần xưa giấy lạnh hơi.

Trưa nắng bồi hồi nghe quốc gọi

Chiều tà thờ thẫn ngắm mây trôi

Tình quê thổn thức bao cơn mộng

Ngừng bước phong sương, khép cánh đời!

Võ Như Nguyện.

v.v..

Thầy và gia đình hiện định cư ở Pháp. Năm nay (2014) Thầy đã gần 100 tuổi!

Thầy Võ Như Nguyện và Thầy Phan Văn Dật là những đầu tàu của Viện Hán Học khi mới thành lập. Thời gian học ở đó, tôi hay lui tới nhà Thầy Dật, vì nhà thầy là một “thư viện” nho nhỏ, đầy sách quí hiếm. Thầy là thi sĩ thời Tiền chiến, có tên trong Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân . Thầy cũng viết tiểu thuyết và được phần thưởng của Tự Lực Văn Đoàn. Lúc đầu Thầy làm giám học. Ở lớp tôi, Thầy dạy Sử Địa năm Nhất và Quốc văn năm cuối khi Thầy trở lại Viện Hán học. Một hôm, tôi chép một số bài thơ của tôi tặng Thầy. Ý của tôi là muốn nhờ Thầy cho ý kiến. Tôi làm thơ mà thiếu tự tin. Bài đầu trong tập thơ nhỏ đó là:

                      Xuân Với Lòng Tôi

              Đã mấy Xuân đi Xuân lại về

              Lòng tôi còn đắm giữa sông mê…

              Thuyền đời vẫn lướt bên hờ hững

              Và chuốc cho mình những tái tê…


              Người ta cười đón mùa Xuân mới

              Tha thướt xiêm y sáng rực đường

              Tất cả triều vui đương ngóng đợi

              Tôi tìm Xuân với ý buồn thương!


              Ray rứt tháng ngày cho số phận

              Thiệt thòi, thất vọng, vấn vương theo…

              Xuân quang thêm gợi niềm ân hận!

              Định bến nơi nao một cánh bèo!?


              Tiếng pháo đêm Xuân nổ chuyển trời

              Cô phòng, làm xé nát tim côi…

              Hồn kinh như lạc vào hư động

              Tôi kéo chăn trùm kín lấy tôi!


              Tôi phải vì đâu khổ thế này ?

              Bao giờ mới hết nỗi niềm tây?

              Sầu miên chẳng thứ đêm trừ tịch

              U ám tâm tư phủ tháng ngày…

Ngày hôm sau đến nhà Thầy, tôi thấy tập thơ của mình ở trên bàn mà bài “Xuân Với Lòng Tôi” có mấy câu thầy gạch đỏ bên dưới. Tự nhiên tôi hơi lo, chẳng biết có phải Thầy chê các câu ấy dở không, mới hỏi và Thầy cười trả lời đó là những vần thơ, ý thơ hay, đạt! Nghe Thầy nói mà tôi  vui sướng làm sao! 

Thời gian ở Viện Hán Học, thỉnh thoảng Thầy Dật cho tôi sách văn học. Ra trường, đi dạy, tôi vẫn liên lạc với Thầy và thư hồi âm nào, Thầy cũng giới thiệu cho tôi những tác phẩm mới, hay. Ở Huế, Thầy dạy khá nhiều trường (lúc Viện Hán Học không còn) như Đồng Khánh, Cao Đẳng Mỹ Thuật, Đại học Văn Khoa… Sau 1975, tất cả đổi thay, tôi mất liên lạc và chẳng biết Thầy ở nơi nào. Gia đình tôi từ Quy Nhơn vào Vĩnh Long. Mãi đến năm 1983, tình cờ tôi biết Thầy vẫn còn ở Huế, tìm được địa chỉ và từ đó, Thầy trò lại thư từ qua lại. Trong một lá thư gởi cho tôi, Thầy cho biết vừa hoàn tất một hồi ký. Tôi viết thư xin Thầy một tập để đọc và để kỷ niệm, nhưng Thầy bảo tập này “chẳng văn chương gì” nên Thầy không gởi cho. Nhà văn Nguyễn Đắc Xuân có lẽ nhân đọc hồi ký ấy hay được Thầy kể mà biết những chuyện riêng tư thầm kín của Thầy: “Lúc ra đời, ông (tức Thầy Dật) vào làm việc ở Đà Nẵng và yêu một cô đào hát bội tên Liên. Cô này hát hay nhưng do trình độ hiểu biết và cuộc sống đi hát của cô không thích hợp với phong cách của ông nên hai người xa nhau. Sau ông yêu một người con gái nền nếp ở Huế, ông đề nghị gia đình đi cưới cho ông. Bà mẹ ông rất sốt sắng đã giúp ông tìm hiểu người ông yêu và gọi ông từ Đà Nẵng về Huế cưới vợ. Ông phấn khởi về nhà lo cưới vợ. Đến khi cưới thì mới hay bà mẹ đã nhầm, bà đi hỏi và cưới cho ông một người mà ông chưa hề quen biết. Thế nhưng ông vẫn bằng lòng với số phận và người con gái chưa quen biết ấy về ăn ở với ông đến đầu bạc răng long, gia đình hạnh phúc, sinh con đẻ cháu đông đúc, bà đã giúp ông trên mọi lãnh vực của cuộc đời”. (Nguyễn Đắc Xuân- Chuyện Tình Và Thơ Tình Xứ Huế).

Ngoài ba bài thơ “Tiễn Đưa”, “Bi Xuân Nương”,“Nàng Con Gái Họ Dương” (trong “Bâng Khuâng”, xuất bản 1935) mà Hoài Thanh- Hoài Chân trích đăng ở “Thi Nhân Việt nam”, chúng ta đọc thêm bài thơ sau rút trong tập “Những Ngày Vàng Lụa” (chưa xuất bản) của Thầy:

                  Cho Địa Chỉ

Nhà anh có bến Đợi Chờ,

Có đình dựa nguyệt có thơ nhớ nàng.

Xuân về có gió đông sang,

Thu qua có cảnh lá vàng rụng bay.

Lâm tuyền có thú đổi thay,

Có đêm huyền hoặc có ngày nhớ nhung.

Có giàn hoa lý bên song,

Có con đường sỏi đi vòng giếng khơi.

Món quê hoa quả có thời,

Tháng giêng có hạnh tháng mười có cam.

Có khi ngồi ngắm trên am,

Mây hồng dựng sớm sương lam tỏa chiều.

Hư thân có mãi cái nghèo,

Tùy lòng ai có muốn theo thì về.

(Trong bài “Những Tháng Ngày Khó Quên” đăng ở “Đặc san kỷ niệm 50 năm thành lập Viện Hán học Huế”, tôi viết nhiều về Thầy Phan Văn Dật).

Thầy Nguyễn Văn Dương dạy lớp tôi hơn ba niên khóa. Thầy là một trong những giáo sư trẻ, dạy rất nhiều môn: Quốc văn, Hán văn, Triết học… Thầy chỉ cho sinh viên cách thức đọc sách, ghi chép tài liệu và thường giới thiệu sách này sách nọ. Thầy gửi những tác phẩm văn học hay Thầy hiện có mà chưa được xuất bản lại, vào Sài Gòn, thuê đánh máy, in ronéo (bấy giờ chưa có photocopy) đóng thành tập rất đẹp, gửi về Huế. Thời đó mà có những tập như “Thơ Thơ”, “Gửi Hương Cho Gió” của Xuân Diệu, “Dưới Mắt Tôi” của Trương Chính… sinh viên chúng tôi mừng lắm. Thầy chịu khó học tập, nghiên cứu, nên tuy còn trẻ mà đã có tác phẩm xuất bản. Đầu năm thứ tư, chúng tôi học với Thầy hơn một tháng thì thầy đổi qua Quốc Học rồi Đại học Huế. Vừa dạy vừa học, Thầy lấy xong Cao học Văn chương Trung Hoa (Đại học Văn khoa Sài Gòn, 1971),  rồi Tiến sĩ Ngữ văn (Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 1991). Năm 1981, Thầy vào  Sài gòn dạy Hán Nôm, tiếng Hoa, tiếng Nhật ở Đại học Sư Phạm. Thầy viết Từ điển tiếng Việt, Hán Việt, Pháp Việt, Anh Việt, nghiên cứu sử học và dịch thuật. Tất cả đều đã xuất bản. Tôi vinh dự được Thầy tặng cho các tác phẩm chính của Thầy. Ở Vĩnh Long, tôi giới thiệu và bán một số sách của Thầy viết. Một hôm vào bán cho trường Cao Đẳng Sư Phạm, họ đòi hóa đơn đỏ, tôi không có, họ bắt tôi xác nhận là “Tác giả bán”. Tôi phải ghi: “Tôi, Tiến sĩ Nguyễn Văn Dương, tác giả…”. Viết mà lòng thấy áy náy, xấu hổ… Vì mình đâu phải tiến sĩ! Tôi kể lại cho Thầy nghe và Thầy trò đều cười…

Một số tác phẩm chính của Tiến sĩ Nguyễn Văn Dương: Thử Giải Quyết Vấn Đề Dịch Giả Chinh Phụ Ngâm (NXB Đại học Huế, 1964; NXB Văn Hóa Thông Tin, 2009). Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (dịch) (Viện Đại học Vạn hạnh, 1968; NXB Thanh Niên, 1999). Khuất Nguyên, Cuộc Đời và Tác Phẩm (Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, 1971); Tuyển tập Phan Châu Trinh (NXB Đà Nẵng, 1995; NXB Văn hóa Thông tin, 2006) v.v..

  *          *

        *

Trong cuộc đời học sinh, thầy nào đã dạy mình, không nhiều thì ít, đều có những kỷ niệm riêng. Bây giờ tôi trên tuổi “thất thập”, trí nhớ đã mỏi mòn nên chỉ ghi lại được chút ít thôi…

Kính thưa quí Thầy,

Khi con ngồi viết những dòng này thì phần lớn quý Thầy đã ra người thiên cổ! Nhưng ở đâu, dù chỉ dạy cho con một chữ (nhất tự), nửa chữ (bán tự), quí Thầy vẫn mãi mãi là Thầy của con. Quí Thầy không những truyền thụ cho con kiến thức mà còn dạy cho con cách đối nhân xử thế. Và chính nhờ những điều này mà con đã đứng vững giữa cuộc đời đầy sóng gió, cả về tinh thần lẫn vật chất…

                                                                  Sài Gòn, 5.10.2014

        Trần văn Dật




Không có nhận xét nào: