Thứ Năm, 27 tháng 7, 2023

GIỚI THIỆU VÀ NHẬN XÉT về bài đầu tiên trong Sách đọc bậc Tiểu học xuất bản vào năm Minh Trị thứ 6 (1873) - Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng


GIỚI THIỆU VÀ NHẬN XÉT về bài đầu tiên trong Sách đọc bậc Tiểu học xuất bản vào năm Minh Trị thứ 6 (1873)

                                Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng

Lời mở đầu

Bài viết được biên dịch dưới đây là Bài đầu tiên (第一回) trong

 sách Tiểu Học Độc Bản (Sách đọc bậc tiểu học) của Bộ Giáo 

dục Nhật Bản biên soạn và trường Sư Phạm Học Hiệu điêu khắc

 để in, phát hành vào tháng 3 năm Minh Trị thứ 6 (1873). Vì là 

tài liệu xưa hiếm nên nhân dịp này người viết cố gắng biên dịch

 sát với nguyên văn và kèm thêm tiếng Nhật chữ Hán để quý 

độc giả có thể tham khảo về cách dùng từ ngữ của Nhật Bản lúc

 đương thời nên khó đọc đối với người đọc không có mục đích

 này. Tiếng Nhật lúc đó chưa dùng dấu chấm để phân chia từng

 câu, họ chỉ dùng dấu “、” để phân chia, và xuống hàng để phân

 chia từng đoạn. Dấu chấm câu “.” trong bài viết là do phán đoán

 của người dịch. Ngoài ra họ còn dùng dấu tròn “〇”, hình như

 để liệt kê hoặc phân chia hạng mục trong mỗi đoạn văn. Ở đây 

người viết giữ nguyên như nguyên bản. Đối với các chữ hiragana

 (chữ Nhật ngoài chữ Hán), ngoài loại chữ ngày nay họ còn dùng

 loại chữ mà ngày nay gọi là “hentaikana” 変 体 仮 名 (biến thể

 giả danh).

Trang bìa và trang 1 của “Tiểu Học Độc Bản” xuất bản năm 

Minh Trị thứ 6 (1873)

1. Nội dung của Bài 1 trong sách

“Người sống trên thế giới nói chung có 5 giống người. 

Giống người Á châu. 〇Giống người Âu châu. 〇Giống 

người Mã Lai (1). 〇Giống người Mỹ châu. 〇Giống người Phi

 châu. 〇Người Nhật Bản thuộc giống người Á châu.

Việc học tập” (keiko 稽 古, kê cổ) của con người có nhiều

 loại, nhưng “việc cần phải làm” (tsutome 務, vụ) thứ nhất là

 trước tiên “học2” (manabu 学, học) biết đọc sách, chép chữ,

 đếm số. 〇Khi còn nhỏ tuổi (ấu trĩ) nhất định phải đến trường

 học để “học1” (keiko 稽 古, kê cổ). Ở trường học, bất cứ điều

 gì cũng phải nghe theo lời dạy của thầy (shishyô 師 匠, sư tượng),

 chuyên chú “gắng học” (benkyo 勉 強, miễn cưỡng ) .

Học2” bất cứ điều gì cũng phải lấy sự hết sức hết lòng làm

 trên hết. 〇 Nếu không hết lòng hết sức sẽ không “ghi nhớ”

 (obo 覚, giác) được nhiều điều.

Khi muốn “ghi nhớ” một điều gì cần phải để ý nhiều vào đó 

không được quên.

Ngay từ đầu nếu có ý tưởng muốn “ghi nhớ” nhiều điều, 

ngược lại sẽ quên nhiều đi. Do đó, (mỗi lần) chỉ nên “ghi nhớ” 

một số ít điều để một điều cũng không quên. Nếu hàng ngày 

không lười biếng chểnh mảng học tập (narau 習, tập) thì tự 

nhiên sẽ “ghi nhớ được nhiều điều.

Khi còn nhỏ tuổi (ấu trĩ), trước hết “ghi nhớ” tên của các dụng

 cụ, và phải nên biết (知t ri) cách dùng của chúng. 〇Bút là dụng

 cụ để chép (写 tả) chữ hoặc chép (写 tả) hình (họa). 〇Bàn tính

 là dụng cụ để đếm số (数 số) đồ vật. 〇Tủ sách (văn khố) là hộp

 tủ để sách vở. 〇Tủ (tansu 箪 笥, đan tứ) là đồ chứa (器 khí

quần áo (y thường).

Ngoài ra, “ghi nhớ” tên của các đồ ăn thường ngày (平 生 bình

 sinh) và cần nên biết cách chuẩn bị, chế biến (koshira-eru 拵, 

dồn (?)) (2) để làm ra thức ăn. 〇Đồ nên làm ra đồ ăn có nhiều 

loại. Thứ nhất là loại hạt (kokumotsu 穀 物, cốc vật). 〇Loại hạt

 có các loại: lúa gạo, lúa mạch (mugi 麥, mạch), đậu, lúa tắc 

(uruchikib i稷, tắc), lúa mùa (mochibiki 黍, thử). 〇Các phẩm vật

 này tất cả đều trồng ở ruộng hoặc trên rẫy, rồi lấy hột, nấu lên 

làm đồ ăn hoặc là nướng lên làm đồ ăn.

Thứ hai là các loại thịt. 〇Loại thịt có thịt thú vật, thịt gà, cá. Các

 phẩm vật này nướng lên làm đồ ăn hoặc nấu lên làm đồ ăn.

Thứ ba là trái cây. 〇Trái cây có nho, daidai (橙, đăng: một loại 

cam), lê (nashi 梨 ), mai, đào, hồng (柿 thị), quýt (mikan 蜜 柑, 

mật cam). Các phẩm vật để sống làm đồ ăn.

   Thứ tư là loại rau cải. Phẩm vật này trồng ở rẫy hoặc sống ở

 ngoài đồng. Phần nhiều là nấu để làm đồ ăn hoặc ướp muối

 làm dưa muối. 〇Nói chung, người ta lấy lá, củ, quả hạt của

 rau cải làm đồ ăn.

   “Việc cần phải làm” (tsutome 務, vụ) của con người có nhiều

 loại, và “nội dung học” (gakumon 学 文, học văn) của sĩ, nông,

 công, thương, một trong những “việc cần phải làm” này, tất cả

 đều khác biệt nhau. Tuy nhiên lúc nhỏ tuổi “nội dung học” 

(gakumon) cần phải “học tập” (narautập) thì như nhau và gọi 

là “nội dung học (gakumon)” “chung cho tất cả” (phổ thông)

 (ippan 一 般, nhất ban). 〇Nếu không “học tập” (narautập

“nội dung học chung cho tất cả” này thì không có khả năng 

học1” được nghề nghiệp (gyo 業, nghiệp) gì cả.

Do đó, con người ta khi đến 6, 7 tuổi tất cả đều nên phải vào 

trường tiểu học, “học1” “nội dung học chung cho tất cả”. 〇Trường

 tiểu học là nơi dạy “nội dung học” (gakumon) mà tất cả sĩ, 

nông, công, thương đều phải nên “học tập” (narautập).

Mặc dù con người trong đời, thông thường có người giỏi (sáng

 dạ), người dở (tối dạ) nhưng khi tuổi còn nhỏ nếu tất cả đều 

đến trường học “gắng học” (benkyomiễn cưỡng) tốt thì không

 có điều gì không “ghi nhớ” được. 〇Nếu người ta đọc một lần

 mà “ghi nhớ” được thì bản thân mình phải nên đọc 100 lần.

 〇Nếu người ta“học tập” (narautập) một lần mà biết được thì 

bản thân mình phải nên “học tập” (narautập) 1000 lần. Không

 chểnh mảng lười biếng “gắng học” (benkyomiễn cưỡng) như 

đã nói trên(4) chắc chắn sẽ trở nên “ghi nhớ” được sự việc. 

Dù cho là người dở nhưng nếu biết được nhiều điều thì sẽ trở

 thành người giỏi.(5)

Khi ở trường học, ngoài việc học (keikokê cổ) chắc chắn có 

giờ chơi (yuuho 遊 歩, du bộ). Vào giờ chơi, nên ra ngoài sân

 chơi (yuuhojô 遊 歩 場, du bộ trường) chơi theo ý muốn (nghĩa

 là chơi tự do thoải mái), phải nên vận động cơ thể để tinh thần

 được thanh thản. 〇Nếu đã “gắng học” (benkyomiễn cưỡng)

 thì chơi cũng vui thú. Khi chơi vui vẻ thì trong thời gian của “việc

 học tập” (keikkê cổ) phải nên “gắng học” (benkyomiễn 

cưỡng) không được chểnh mảng lười biếng.

Trò chơi ở sân chơi của con trai có nhiều loại nhưng nói chung 

là không được chơi các trò chơi nguy hiểm. 〇Trò chơi tốt là chơi

 đánh vòng, thả diều, ném banh. 〇Khi tập hợp chơi chung với

 nhau, phải nên chơi sao cho bản thân mình vui mà làm cho bạn

 bè cũng vui.

Trò chơi của con gái khác với con trai, không được chơi các trò 

chơi như chạy đua. 〇Khi cùng bạn bè chơi chung phải nên thân

 thiết gắn bó, bất cứ chuyện gì cũng phải nên hòa hợp với nhau.

  1. Giải nghĩa thêm nghĩa của những từ quan trọng trong
  2. bài viết

Để giúp có thể hiểu đúng nội dung và ý tưởng của tác giả trong

 bài viết trên, người viết xin dùng “Tân Minh Giải Quốc Ngữ Từ

 Điển” phiên bản thứ 4 của nhà xuất bản Sanseido phát hành 

năm 1994 để chú thích nghĩa trong tiếng Nhật ngày nay. Đồng 

thời ở đây cũng ghi chép lại nội dung giải thích nghĩa của vài từ

 điển tiếng Việt để so sánh cách hiểu của tiếng Việt và tiếng 

Nhật đối với cùng một từ tiếng Hán.

Keiko (kê cổ) 稽 古 (động từ: = học 1)

Tiếng Nhật. (Ý: tham khảo việc xưa để có bản thân có thể làm

 được). Việc “tập” học vấn hoặc kỹ thuật. (Nghĩa hẹp để chỉ việc

 “tập” võ thuật hoặc kỹ năng nghệ thuật).

Bởi vì chưa tìm ra từ tiếng Việt ngắn gọn diễn tả đúng và đầy đủ

 ý này nên ở đây tạm gọi “việc học tập” để nói lên ý “tập luyện”.

 Động từ của “keiko” ở đây viết “học1” để phân biệt với từ 

Manabu (học) 学 ぶ, viết “học 2.

Tiếng Việt. Thiều Chửu (TC): xét các sự tích xưa. Đào Duy Anh

 (ĐDA): Khảo xét học thuật văn hóa đời xưa. Lê Văn Đức (LVĐ):

 Khảo xét việc xưa, vật xưa.

Tsutome (vụ務 め (cũng viế t勤 め) (= “việc cần phải làm”)

Tiếng Nhật. (1) Việc mà làm người đương nhiên phải làm (theo

 lương tâm, theo mặt đạo đức, theo mặt xã hội). Thí dụ: tsutome 

của bậc làm cha mẹ. (2) Đến công sở, công ty làm công việc 

của nơi đó (theo đã được quy định bởi khế ước hoặc tiền lương).

 Kinmu 勤 務.

Từ này có thể hiểu là “nghĩa vụ” hay “bổn phận” nhưng trong 

nguyên văn không dùng từ Hán Hòa nên ở đây cũng tránh dùng

 từ Hán Việt và tạm gọi “việc cần phải làm” để diễn tả ý của 

“nghĩa vụ”.

Tiếng Việt. TC: (1) Việc. (2) Chuyên, chăm; còn 3 nghĩa khác. 

ĐDA: (1) Công việc. (2) Chuyên sức vào một việc. (3) Cốt phải.

 LVĐ: Việc, sự, vấn đề, công việc phải lo, phải bàn đến. Thí dụ: 

cấp vụ, công vụ, chức vụ, dân vụ, gia vụ, nội vụ, nghĩa vụ, 

nhiệm vụ, sự vụ, thuế vụ, thương vụ, vụ kiện, vụ đuổi nhà, vụ 

đánh lộn.

 

Manabu (học学 ぶ (= học 2)

Tiếng Nhật. (Từ biến đổi từ từ manebu 真 似 ぶ (nghĩa làm bắt

 chước làm giống như thật)). Việc đọc sách, hoặc suy nghĩ hoặc

 ghi nhớ các kỹ thuật kỹ năng (技 芸) theo như được giảng dạy. 

Thí dụ: “Không còn gì để cần phải manabu ở thầy” (A: Cách nói

 tỉ dụ để diễn tả sự tiến bộ quá nỗi bậc. B: Cách nói tỉ dụ để diễn

 tả tự phụ, tự mãn). “Manabu ở đại học A”: sinh viên của đại học  A. 

 “Manabu Esperanto (tiếng quốc tế)”= Narau (習 う) Esperanto.

 “Manabu kỹ pháp của Thái Tây” = “hội đắc” (lĩnh hội, hiểu) được

 phương pháp kỹ thuật của Tây phương. “Manabitoru lời giáo 

huấn”= mi ni tsukeru 身 に 付 け るlời giáo huấn: (tạm dịch) hấp

 thụ và tiêu hóa lời giáo huấn thành của mình.

   Đối với chữ Hán của 学, Từ điển giải thích: (1) Tiếp nhận lời

 dạy. Nghiên cứu. Manabu 学 ぶ. Thí dụ: học tập, hiếu học, độc

 học. (2) Học giả. Thí dụ: đốc học (lòng nhiệt tình trung thực với

 việc học), hậu học, túc học. (Không hiểu tại sao Từ điển giải 

thích là “học giả” trong khi từ “đốc học”, “hậu học” cũng nói về

 sự việc chớ đâu có giới hạn về người thực hiện hoặc có các

 sự việc này?)

   Tiếng Việt. TC: (1) Bắt chước, chịu nghe người ta dạy bảo mà

 bắt chước làm gọi là học. (2) Phàm các sự vật gì vì nghiên cứu 

mà biết tới giường mối ngành ngọn của nó đều gọi là học như

 học thuậtkhoa học. ĐDA: (1) Bắt chước. (2) Chịu thầy dạy cho

 đạo lý, tập cho nghề nghiệp. LVĐ: (1) Nhận sự dạy dỗ của người. 

(2) Bắt chước. ((3) Mách, thuật chuyện người này với người 

khác). Viện Ngôn Ngữ Học (VNNH): (1) Thu nhận kiến thức, 

luyện tập kĩ năng do người khác truyền lại. (2) Đọc đi, đọc lại, 

nghiền ngẫm cho nhớ.

Benkyo (miễn cưỡng) 勉 強 (= “gắng học”)

Tiếng Nhật. (Ý: mặc dù có cảm giác chống lại (đề kháng) nhưng

 cố hết sức vào việc học hoặc công việc trước mặt) (1) Mặc dù

 không thích làm nhưng cố gắng hết sức để có được đơn vị hoặc

 chứng chỉ, hoặc có được học lực, năng lực hoặc kỹ thuật mà 

trước đó chưa có, bằng cách nâng cao kiến thức (hoặc đào sâu

 trí thức) hoặc bằng cách dùng thời giờ hữu hiệu. (10 thí dụ).

 (2) Kinh nghiệm khó nói hữu ích cho hiện tại nhưng giúp thành 

công lớn hoặc tiến bộ nhảy vọt trong tương lai (nói ngắn gọn là

 “bài học tốt cho tương lai”) (2 thí dụ). (3) Bán rẻ sản phẩm

 không nghĩ đến lời (2 thí dụ).

(Bởi vì nếu ghi thí dụ và so sánh giải nghĩa của tiếng Việt, bài 

viết sẽ rất dài khó đọc nên xin phép trình bày trong dịp khác

 nhưng giữ lại phần trên để quý độc giả có thể thấy sự khác biệt

 cách và tinh thần giải thích nghĩa giữa từ điển tiếng Nhật và từ

 điển tiếng Việt.)

Trong bài viết trên chúng ta có thể hiểu từ “benkyo” được dùng 

với nghĩa (1) nên ở đây dịch “gắng học”.

Thật ra theo đúng tinh thần của sách Trung Dung, người viết 

thiết nghĩ phải dịch là “cố gắng học hành” để diễn tả trọn vẹn

 là “học để hành” chớ không phải “học để học” thôi.

Obo (giác) 覚 (= “ghi nhớ”)

Trong nguyên văn đối với động từ này được dùng với 2 dạng: 

obo-eru và obo-yuru. Người viết hiểu là nghĩa muốn nói giống 

nhau nhưng hình thức thay đổi do văn phạm, nên ở đây tỉnh 

lược phần sau chỉ giữ phần chữ “giác”.

Tiếng Nhật cho obo-eru. (1) Cảm giác có được bằng tinh thần

 hoặc cơ thể. (1 thí dụ). (2) Ghi nhớ lại trong lòng như điều không

 thể quên (những điều đã kinh nghiệm hoặc những điều đã học 

tập được). Ký ức (động từ). (1 thí dụ). (3) Tiếp thu thành như của

 mình (những điều đã học tập). Thể đắc (động từ). (1 thí dụ). 

(4) Tiếng của người già để diễn tả ý “được nghĩ là”.

Trong bài biết trên chúng ta có thể hiểu từ “obo” được dùng với

 nghĩa (2) nên ở đây dịch “ghi nhớ”.

Gakumon (học văn) 学 文 (学 問) (= “nội dung học”)

Chữ Hán của từ này ngày nay được viết bằng “học vấn” 学 問.

Tiếng Nhật. (1) Ghi nhớ những tri thức mà trước nay chưa biết

 (ở trường học). (1 thí dụ). (2) Tri thức chuyên môn có hệ thống

 được tích lũy từ căn bản cơ sở. (Nghĩa hẹp để chỉ khoa học

 hoặc triết học) (1 thí dụ).

Trong bài biết trên có thể hiểu từ “gakumon” được dùng với nghĩa

 (1) nhưng Từ điển giải thích là “việc học” hay “hành vi học” nhưng

 chúng ta có thể thấy ý “môn học” hoặc “nội dung học” sát nghĩa

 với nội dung bài viết hơn. Do đó ở đây dịch “nội dung học”.

Narau (tập) 習う(= “ học tập”)

Tiếng Nhật. Nghĩa nhóm 1: (1) Luyện tập theo y như được dạy,

 ghi nhớ cách làm (hoặc mẹo) (1 thí dụ). (2) Được dạy. (1 thí dụ).

 Nghĩa nhóm 2 (bắt chước) : Bắt chước thí dụ đã có trước (tiền 

lệ), làm theo y như vậy. (1 thí dụ).  

Chúng ta có thể thấy nghĩa của từ này bao gồm ý “luyện tập”

 nhiều, mạnh hơn từ “học2 学 ぶ gần giống như “học1” 稽 古 

nhưng dùng cho nội dung học rộng hơn hoặc dùng cho nhiều 

môn học hơn. Ở đây dịch là “học tập

3.Sơ lược về bối cảnh giáo dục và soạn giả

Người viết thiết tưởng trước khi nhận xét về bài viết trên cũng

 nên nắm sơ lược về bối cảnh giáo dục và tiểu sử của soạn giả 

sách (6), (7).

Vào ngày 4/9/1872 (Minh Trị năm thứ 5) chính phủ Minh Trị công 

bố chế độ học đường cận đại theo mô hình của Pháp quy định

 học chế từ bậc tiểu học đến đại học gồm tất 109 chương. Nhiều 

trường tiểu học đã được xây dựng nhưng chưa có sách giáo 

khoa để dạy.

Ông Tanaka Yoshikado 田 中 義 廉 (em của Tanaka Yoshio 田 中

 芳 男 (1838~1916), người được xem là cha đẻ bảo tàng viện

 của Nhật Bản) sinh năm 1841 và mất sớm năm 1879, không 

những tinh thông Hòa học, Hán học mà cơ bản có thể nói là một

 nhà Tây học (Lan học và Anh học). Học Anh văn ở trường 

Khánh Ứng Nghĩa Thục. Năm 1872 được Bộ Giáo Dục Nhật Bản 

giao cho công việc soạn sách giáo khoa cho bậc tiểu học. Tháng

 3 năm 1873 sách gồm 4 quyển đầu được phát hành (quyển 5 

và 6 cũng do ông biên soạn và phát hành vào 25/6/1878), và 

thôi việc ở Bộ vào tháng 12 cùng năm. Sau đó ông soạn sách

 giáo khoa do tư nhân phát hành. Năm 1878 ông thành lập công

 ty Giáo Dục Xã và làm Tổng giám đốc. Đồng thời sáng lập Nhật

 San Giáo Dục Tân Văn (báo giáo dục phát hành mỗi ngày). Năm

 1879 làm nghị viện của khu Asabu của thành phố Tokyo và đã 

tận sức trong việc phòng ngừa bệnh dịch tả với tư cách nghị 

viên đầu tiên của khu này. Tháng 10 cùng năm ông qua đời ở 

38 tuổi do bệnh não. Ngoài Tiểu Học Độc Thư, ông còn nhiều 

sách giáo khoa khác về lịch sử, khoa học và văn phạm nên có

 thể nói ông là nhà soạn sách giáo khoa khai sáng của Nhật Bản

 lúc bấy giờ.

Nội dung của 6 quyển “Tiểu Học Độc Bản” hầu hết được tham

 khảo và soạn theo 5 quyển Reader of the School and Family 

Series (1861~62) do Marcius Willson (1813~1905) biên soạn. 

Người viết đã trực tiếp so sánh cụ thể vài bài giữa sách tiếng 

Nhật và tiếng Anh thấy rõ Yoshikado không phải dịch sát mà viết

 lại cho thích hợp với học sinh Nhật Bản, các hình vẽ cũng đã vẽ

 cho phù hợp.

Bài đầu tiên trong quyển 1 mà người viết đã dịch trọn ở trên là

 do ông viết hoàn toàn không có trong The Reader của Willson. 

Chúng ta có thể thấy Bài 1 đầu tiên này gồm có 5 nội dung. Các

 bài kế tiếp cũng vậy, thí dụ bài 2 của quyển 1 gồm 9 bài (lesson)

 của sách The First Reader.  

4.Nhận xét

(1)   Như đã giới thiệu ở trên, Bài 1 của sách do chính soạn giả

 viết ra và cho chúng ta thấy soạn giả là người tinh thông cả Tây

 học và Đông học. Bài gồm có 5 đoạn nói lên 5 nội dung mà soạn

 giả nghĩ là quan trọng đối với học sinh bậc tiểu học.

– Đoạn 1 nói 5 giống người trên thế giới. Đoạn ngắn gọn này tạo 

ra ấn tượng rất mạnh cho nhiều học sinh thời đó vì mới lạ; học

 sinh chưa trừng biết trước đó hoặc hiểu khác. Nhà nhân loại 

học, khảo cổ học Torii Ryuzô 鳥 居 龍 蔵 (1870~1953) đã viết hồi 

ký, đại ý “Tôi nghĩ là đoạn đầu tiên trong sách đã ảnh hưởng việc

 tôi chọn nhân loại học làm chuyên môn mà chính bản thân tôi 

không hề biết.”

– Đoạn 2: giải thích cho học sinh biết tại sao phải học và phương

 pháp học căn bản nên như thế nào. Biết đọc biết là nghĩa vụ trên

 hết để làm người. Khi học cần phải hết sức ghi nhớ để không 

quên, và nghe theo lời thầy cô dạy.

– Đoạn 3: giải thích tổng quát nội dung mà học sinh tiểu học phải

 nên học.

– Đoạn 4: Đoạn này giải thích thêm nội dung cho đoạn 2. Có học

 phổ thông mới có thể học chuyên nghiệp. Bản thân người học

 phải cố gắng gấp 100 lần người thường. Nguyên văn chữ Hán

 trong sách Trung Dung: “Nhân nhất năng chi, kỷ bách chi, nhân 

thập năng chi, kỷ thiên chi. Quả năng thử đạo hỹ, tuy ngu tất 

minh, tuy nhu tất cường.”

Trong đoạn 1 viết, con người có 5 giống người. Lúc đương thời

 mọi người Nhật Bản thông thường đều hiểu Nhật Bản chậm trễ,

 thua kém nhiều với Âu Mỹ. Như vậy phải chăng soạn giả gián

 tiếp muốn nhắn nhủ học sinh phải gắng học 100 lần để bằng

 được người Âu Mỹ?

– Đoạn 5: Không phải chỉ học không mà cũng nên chơi vui vẻ.

 Nhưng soạn giả không quên nhắc nhở: khi chơi chung thì không

 những bản thân mình vui mà cũng nên làm cho bạn bè vui. Ôi 

hay thay cho câu “bất cứ chuyện gì cũng phải nên hòa hợp với 

nhau”! Phải chăng nhờ có những bậc thầy cô như soạn giả mà

 tinh thần đoàn kết của người Nhật Bản tốt mạnh chăng? Trong

 Reader có chủ trương chơi đùa vui vẻ cũng quan trọng như việc

 học nhưng hình như không có đề cập cụ thể nghĩ đến sự hòa

 thuận với bạn bè (Xem Lesson VI The Play – Ground của Part I 

trong The Second Reader) như soạn giả Yoshikado nhắc nhở 

trong đoạn này.

(2)   Bây giờ trở lại chuyện từ “miễn cưỡng” với nghĩa “học”. Để

 diễn tả ý “học” soạn giả đã dùng 5 từ: keiko, narau, manabu, 

gakumon, benkyo. Trong bài này soạn giả chỉ dùng từ gakumon 

trong dạng danh từ nhưng trong những bài khác, tác giả cũng

 dùng ở dạng động từ. Chúng ta hãy tìm hiểu từ “miễn cưỡng” 

với nghĩa “học” được soạn giả dùng như thế nào so với các từ

 khác trong bài viết này?

Người viết cảm nhận rằng soạn giả dùng từ “miễn cưỡng” 

(benkyo) khi muốn diễn tả ý “cố sức học”, “gắng sức học”, “chăm

 chú học”. Từ keiko, narau dùng khi muốn nói ý “tập luyện”. Từ

 manabu, gakumon khi nói đến việc học một cách tổng quát.

Trong quyển 1 trong các bài còn lại soạn giả không có dùng lại

 từ benkyo mà chỉ dùng 4 từ còn lại.

Trong một phần của Bài 1 trong quyển 2 tương ứng với Lesson

 VI The Play – Ground của Part I trong The Second Reader, soạn

 giả dùng benkyo với nghĩa như trong Đoạn 5 của Bài 1, quyển 1.

 Cụ thể “Trẻ em trai, trẻ em gái khi đến trường đều phải nên “gắng

 học” (benkyo).〇Tuy nhiên, sau khi “gắng học” thì có thể chơi

 đùa. 〇 Trẻ em sau khi “gắng học” được cho phép chơi đùa, 

và khi chơi đùa phải chơi sao cho vui vẻ.” Trong trường hợp này,

 “gắng học” tương ứng với “well learn” của nguyên bản tiếng 

Anh.

   Trong phần cuối của Bài 2 trong quyển 2 tương ứng với LessonIII

  The Idle Boy again của Part II trong The Second Reader, soạn giả 

dùng  “gắng học” tương ứng với “well learn” và manabu

tương ứng với “study” trong nguyên bản tiếng Anh.

(3)   Một điều đáng ngạc nhiên là những chữ Hán trong sách rất

 khó ngay cả đối với trình độ của học sinh tiểu học ngày nay. 

Điều này làm cho chúng ta có thể nghĩ rằng trình độ của học sinh

 tiểu học vào thời Minh Trị rất cao. Theo quy định dạy cho cấp tiểu

 học (Hạ đẳng Tiểu Học Giáo Tắc) được quy định vào tháng 5 

năm 1873 học sinh tiểu học cấp 8, 6 tuổi phải học bài 1 và 2 của 

quyển 1 trong 6 tháng, và cấp 7, 6 tuổi rưởi phải học quyển 1 và 2 )

   Không phải là nhận xét trực tiếp đối với Bài 1 trong sách “Tiểu

 Học Độc Bản” nhưng xin được ghi lại ở đây.

Trong lúc so sánh nội dung giải nghĩa của “Tân Minh Giải Quốc 

Ngữ Từ Điển” của Nhật Bản với các từ điển tiếng Việt như đã 

giới thiệu trong Mục 2. Giải nghĩa thêm nghĩa của những từ quan

 trọng trong bài viết,  người viết nhận thấy có sự khác biệt như 

sau mà người viết thiết tưởng các nhà biên soạn từ điển tiếng 

Việt nên tham khảo. Đó là, đối với những từ thường dùng (thông

 dụng) nhưng quan trọng, từ điển tiếng Nhật thường giải thích 

rất chi tiết, tỉ mỉ, dễ hiểu giúp cho người thường hoặc học sinh

 tiểu trung học cũng có thể hiểu rõ và đầy đủ. Trong khi từ điển 

tiếng Việt, đối với từ nào cũng ngắn gọn như nhau và nhiều khi

 dùng từ khó hiểu khác để giải thích nghĩa của từ đang cần giải

 thích!

Nguyễn Sơn Hùng, Viết xong ngày 8/7/2023
Xem thêm cùng tác giả: Những bài viết và dịch của Nguyễn Sơn Hùng

Trang bìa của sách The First Reader của Marcius Willson

Ghi chú và tài liệu tham khảo

(1) Nguyên văn viết “メレイ人 種”. Theo luận văn dưới đây nghĩa

 là loại người Mã Lai (Malay) tiếng Hán viết “馬 来”.

Fukawa Genichirô 府 川 源 一 郎 (2010): “Về nguồn trích dẫn 

của tài liệu dùng trong bài đầu tiên của sách “Tiểu Học Độc Bản”

 do Tanaka Yoshikado biên soạn – Đồ hình của 5 loại người và

 ý nghĩa– (tiếng Nhật)”.

(2) Trong nguyên văn không có phiên âm đọc. Các âm đọc do 

người viết ghi thêm.

(3) Thử 黍: mochibibi, dẻo (giống như nếp). Thử 黍: mochibibi,

 dẻo (giống như nếp). Tắc 稷: uruchibiki, còn gọi là awa. Có thuyết

 nói vốn là “cao lương”.粳 米: uruchimai (gạo ăn thường ngày);

 糯 米: mochikome (nếp).

(4) Nguyên văn viết “個 様 に”. Cách dùng từ này hình như hiện

 nay không còn và tra cứu tài liệu cũng không thấy. Trong Tiểu 

Học Độc Bản được dùng khá nhiều với nghĩa giống như trong 

bài viết này. Đôi khi viết 箇 様.

(5) Phần gạch dưới giống như nội dung của cụ Phan Bội Châu

 giải thích trong đoạn cuối của tiết 7. “Thành Chi Đạo” thuộc

 về “Tu Thân” của chương IV Trung Dung Chính Văn Trích Dịch

 của thiên giữa sách Khổng Học Đăng.

(6) Takeda Shingo (2004): “Khảo sát cơ sở về “Nhật Bản Sử Lược

 do Tanaka Yoshikado biên soạn” (tiếng Nhật), số 2, Lịch Sử 

Giáo Dục Sử Nghiên Cứu, Hội Nghiên cứu Lịch Sử Giáo Dục 

Sử, số 2, tr.1~18.

(7) Yasumura Kazuyoshi (2013): “Sách “Reader của Marcius 

Willson đã cống hiến giáo dục cận đại của Nhật Bản và Sách

 giáo khoa thời kỳ đầu của Minh Trị”, Kỷ yếu của Tohoku Nữ Tử

 Đại học & Tohoku Nữ Tử Đoản Kỳ Đại học, số 52, tr.159~176.









Không có nhận xét nào: