Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2018

Đại Việt Sử Thi Q. XI (Hồ Đắc Duy) Nhà Hậu Lê: Lê Thái Tổ (tiếp theo)

           Đại Việt Sử Thi Q. XI (Hồ Đắc Duy)
                           Nhà Hậu Lê
                                  *****
                       Lê Thái Tổ (tiếp theo)
Xuống chiếu sai biểu dương sĩ tử
Khuyến khích dân tiến cử nhân tài (1429)
Lắng nghe can gián của người
Lúc bàn việc nước dẫn lời thánh nhân

Với thuộc cấp định công phong tước
Chia ba bậc, phẩm trật rõ ràng
Kê khai tài sản cá nhân
Sổ điền, sổ bộ, chia ban mà làm (1430)

Vua xuống chiếu truyền quan văn võ
Họp bàn về quy củ bạc tiền (1431)
Không vì ưa thích ý riêng
Mà đem áp đặt lấy quyền bắt dân

Sai giết hết những quân phản nghịch
Giúp giặc làm những việc ác ôn
Đã không sửa lại lỗi lầm
Tụ bè kết đảng ngấm ngầm âm mưu


Sai tịch thu gia tư những kẻ
Làm lắm điều quốc tệ gia vong
Như là Nhữ Hốt, Văn Phong
Như tên Sùng, Lễ, tên Trung, tên Tồn

Vua giết oan quan Phạm Văn Xảo (1430)
Cũng như là Trần Cảo trước đây (1428)
Cũng như Nguyên Hãn sau này
Vì nghi bội phản giết ngay mấy người

Giết Tư Mã Lê Lai vì cậy (1427)
Có chiến công nói bậy khinh nhờn
Tịch thu tiền của gia trang
Chém ngay những kẻ bán buôn trữ hàng




Vua làm sách Lam Sơn Thực 
Lục
Chép lịch triều từ lúc khởi binh
Viết lên sự nghiệp kháng Minh
Ghi công chiến sĩ vô danh muôn đời

Vua lại sai xây cung Vạn Thọ (1428)
Chế tạo thêm chiến cụ, thuyền bè
Đúc tiền, biểu chế phục nghi
Định ra ấn tín, quốc huy rõ ràng

Năm Quý Sửu thượng tuần tháng tám (1433)
Vua băng hà chính tẩm Đông Kinh
Là người áo vải xuất chinh
Mười năm ròng rả kháng Minh phục thù

Khi cõi bờ không còn bóng giặc
Ngài chăm lo việc nước việc dân
Chỉnh tu luật pháp dần dần
Mở mang trường học gương chân thánh hiền (1428)

Ngoài chống giặc, trong yên vận nước
Chuyện áo cơm lo trước cho dân
Lam Sơn Thực Lục tự thân
Viết lên quan điểm trị dân rõ rang

(Còn tiếp)




Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2018

Hoa Cau Rụng Trắng Trên Cành Lan Huệ - Vkp.Phượng Tím

HOA CAU RỤNG TRẮNG TRÊN CÀNH LAN HUỆ 
                  vkp phượng tím 
    ( Xin kính tặng hương linh những người lính trẻ ngày xưa 
Lan Huệ còn được gọi là Huệ Nhung, Huệ Đỏ hoặc Hoa Tình Yêu )       

Mùi hương cau tháng Ba nghe ray rứt
Sắc Huệ Nhung lộ rõ nét đài trang
Nhớ ai ngày ấy chịu cảnh phũ phàng
Thiếu lá trầu xanh lỡ làng duyên phận!
*
Xưa... Lan Huệ cao sang nên ngoảnh mặt
Hướng đến trời xanh biển rộng núi cao...
Người lính trẻ tim quên mối tình đau
Chinh chiến dặm trường... vào lòng đất mẹ!
*
Giờ... Hoa Tình Yêu nép mình lặng lẽ
Bên buồng cau thơm  tận hưởng ấm nồng
Dòng đời trải qua bao bến đục trong
Cau Huệ vẫn không thay mùi đổi sắc...
*
Hoa tàn... Cau lão... hoàng hôn nắng tắt!!!   
       
          Tháng 3/2018—vkp phượng tím






* Thơ xướng họa/ Tứ Thất Thơ (Nguyễn Đ Thắng) & Bát Thất Thơ (Mai XThanh)


Xướng : 
        Tứ Thất Thơ

Thi sĩ nhìn đời lắm mộng mơ
Mối duyên gắn kết tự bao giờ ?
Thất tình say xỉn bên men rượu
Thất chí đăm chiêu giải cuộc cờ
Thất nghiệp đi rong tìm ý tưởng
Thất cơ gối nguyện gửi tâm chờ
Tứ thơ từ thất nhiều hương vị
U uẩn lòng người tứ - thất - thơ !

Nguyễn Đắc Thắng
 
              ****
Họa : 
        Bát Thất Thơ

Thất thân mất vốn tưởng nằm mơ
Thất thế tàn binh chạy cuốn cờ
Thất nghiệp đi rông...ngồi đó đợi...
Thất cơ chạy loạn trốn đâu giờ ?
Thất tình cạn chén say men mãi
Thất chí nâng ly xỉn rượu chờ
Thất tịch tiêu đời thôi vỡ mộng
Thất thu đói rách khổ con thơ

Mai Xuân Thanh
Ngày 24 tháng 03 năm 2018



Già Rồi Mắt Kém - Mai Xuân Thanh



    Già Rồi Mắt Kém

Nhớ tuổi thanh xuân dũng mãnh nhiều 
Vai u thịt bắp khỏe bao nhiêu 
Cao niên lụm cụm đi không vững 
Tuổi tác lom khom bước phải dìu
Tiền bối thời danh thôi hảo thủ
Hậu sinh khả úy tuyệt cao chiêu
Già rồi mắt kém mờ hư ảo
Hoa rụng còn đâu vẻ mỹ miều !

Mai Xuân Thanh
Ngày 25 tháng 03 năm 2018





Tiếc Ngọc - Mai XThanh



    Tiếc Ngọc 

Nhớ em Đà Nẵng mắt đăm chiêu
Hàng vải Chợ Cồn thấy mỹ miều
Chốn cũ còn đây thương biết mấy
Người xưa đâu tá nhớ bao nhiêu
Hiệu ăn bán phấn Tây lai vãng
Khách sạn buôn hương  Mỹ dập dìu
Trong héo ngoài tươi ai dễ biết
Trái cây hóa chất hại ta nhiều!

Mai Xuân Thanh
Ngày 24 tháng 03 năm 2018




Đôi Khi Buồn Buồn - Trầm Vân


   Đôi Khi Buồn Buồn
Đôi khi lòng thấy buồn buồn
Nhớ hàng điệp biếc mái trường mến yêu
Nhớ dòng phấn vẽ sáng chiều
Vẽ ngày vui tiếng chim reo lững lờ

Đôi khi ngồi nhớ vu vơ
Bóng ai lẩn khuất bên bờ chiêm bao
Đôi khi lòng quặn thắt đau
Tóc xanh giờ đã phai màu, tình xa

Đôi khi nhìn phía xuân hoa
Hoa vàng cứ ngỡ vàng là lá thu
Ngày xưa chiếc lá vàng mơ
Rơi vàng thắc thỏm đợi chờ bóng ai

Đôi khi nghe gió thở dài
Cánh chim lạc lõng mây bay cuối trời
Mượn ngày mấy giọt nắng rơi
Làm câu thơ đẹp chúc người xa xăm

Đôi khi nghe lá thì thầm
Những lời yêu dấu tình xuân tìm về
Thế rồi chợt tỉnh cơn mê
Thềm hoang trống vắng bốn bề hư không
 Trầm Vân


Thứ Năm, 29 tháng 3, 2018

Đại Việt Sử Thi Q.XI (Hồ Đắc Duy) Nhà Hậu Lê: Lê Thái Tổ (tiếp theo)

         Đại Việt Sử Thi Q. XI (Hồ Đắc Duy)
                              Nhà Hậu Lê
                      Lê Thái Tổ (tiếp theo)
                                    *****

                            Bình Ngô Đại Cáo


Vua cùng người nghị bàn việc nước 
Luận tội công cho được phân minh (1429) 
Lại sai Nguyễn Trải dâng lên 
Bình Ngô Đại Cáo để truyền trong dân (1428) 


Nguyễn Trải

Bản tuyên ngôn được rao khắp nước 

Cho thần dân biết được ý vua 
Nước nhà độc lập bấy giờ 
Thái bình thịnh trị cơ đồ phục hưng 
Trong tận cùng trái tim vua nói:

1. Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lê Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Vì vậy:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi

2. Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán.
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi


Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Nam Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được 

3. Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi,
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì :
Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nghìn chốn bể khơi
Tự ta, ta phải dốc lòng vội vã hơn cứu người chết đuối.


Phần vì giận quân thù ngang dọc
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi Huyện, quân không một đội

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay :
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo
Trận Bồ Đằng, sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân, trúc chẻ tro bay
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân
Thừa thắng ruỗi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại
Tuyển binh, tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về,

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động, thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm luân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan,
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy,
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại.
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong,
Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm nhăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
Thuận đà ta đưa mũi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc,
Sĩ tốt kén người hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chiêm muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng, sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội.
Thượng Thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Ảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân,
Suối Lãnh Câu, máu đào trôi chảy, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc.
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng,
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Thần vũ chẳng giết hại, thề lòng trời, ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiến thuyền
ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run!

Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng.
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức,
Chẳng những mưu kế kỳ diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay .

4. Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc.
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng, ngầm giúp đỡ mới được như vậy. 

Than ôi!
Một cổ nhung chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm,
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay." 

(Còn tiếp)





Thứ Tư, 28 tháng 3, 2018

Góc Phố Chiều Mưa Hạ - Thuyên Huy




Góc Phố Chiều Mưa Hạ

(Nhớ ngày về phố chợ Gò Dầu Hạ cuối mùa Hạ)

Cũng nơi góc phố chiều mưa Hạ
Người về tìm lại tháng ngày xưa
Đường phượng úa màu trơ ghế đá
Lối cũ ngậm ngùi vạt nắng thưa

Đứng đó một mình đò ai gọi
Áo trắng ngày xưa tuổi học trò
Bước ngập bước ngừng đường chung lối
Thương người từ đó tập làm thơ

Nắn nót mực nghiêng bài thơ vụng
Gởi người bên ấy trọn nỗi lòng
Cũng góc phố này ai lúng túng
Đưa người đưa một nửa dòng sông

Ghế đá lẻ loi chùm phượng úa
Ngồi đây mà cứ nhớ một người
Một mai Hạ không về đây nữa
Phố thôi còn được mấy lần vui

     Thuyên Huy





Thương Em - Khôi Nguyên

        

     Thương Em
Được biết cảnh em sống hiện nay,
Trải bao sóng gió thật không may.
Ngoài tươi đâu thể che tình ngắn,
Trong héo làm sao dấu nghĩa dài.
Vật chất bấp bênh nhiều chuyển biến.
Tinh thần không ổn lắm lung lay.
Thương em lưu lạc nơi xa lạ,
Mong ước gặp nhau vẫn nhớ hoài.
    Khôi Nguyên
          
                        ****
 Bài Xướng
         Sớm Mai

Bỗng thấy yêu đời buổi sáng nay
Chập chờn đôi bướm lạnh heo may.
Nụ hồng hàm tiếu sương xoa mướt,
Cỏ biếc lung linh nắng trải dài.
Nhảy nhót trên cành chim ríu rít,
Mơ màng trong gió liễu lay lay.
Bềnh bồng mây trắng trời xanh ngắt,
Đẹp quá trần gian phút cảm hoài.

            Mai Lộc


Uống Rượu Say - Hồ Đắc Duy



   UỐNG RƯỢU SAY
 Gió thổi vào nhà uống rượu say
Tri tri, tri kỷ bấy năm nay
Gieo thơ xướng họa như vàng ngọc
Tìm chữ lựa lời phải bốn chai
Thương  lắm bạn ơi lòng kính trọng
Nhớ nhau nhau nhớ vấn vương hoài
Cao cao muối tiêu như thời trẻ
Thơ nhuốm hương sen thêm chút hài  

Hồ Đắc Duy
SG ngày 22 tháng 3 năm 2018



Xướng: Thơ Thẩn

Gió mát thiu thiu giấc ngủ say
Tri âm tri kỷ bấy lâu nay
Gieo vần trau chuốt thơ châu ngọc
Tìm vận lựa lời rượu quý chai
Thương bạn người dưng mà nghĩa trọng
Nhớ ai nước lã vẫn thân hoài
Cao niên vóc hạc trông còn trẻ
Thơ thẩn vườn hoa dạo gót hài 

Mai Xuân Thanh



Nỗi Buồn Tháng Ba - Mai XThanh & Nỗi Nhớ Tháng Ba - Nguyễn Gia Khanh


Họa : 
Nỗi Buồn Tháng Ba

Làm sao gặp lại bạn quê nhà
Tay bắt mặt mừng cuối tháng ba
Bên đó trời hanh mong gió mát
Ở đây mưa lạnh nhớ tình xa
Sài Gòn hoa lệ xưa vang bóng
Đà Lạt phố buồn kỷ niệm ta
Cách trở ngàn dâu xanh vạn dăm
Chia tay cạn chén rượu quan hà...

Mai Xuân Thanh
Ngày 22 tháng 03 năm 2018

                     ******

Bài xướng:






Thứ Ba, 27 tháng 3, 2018

Đại Việt Sử Thi Q. XI (Hồ Đắc Duy) Nhà Hậu Lê: Lê Thái Tổ

        Đại Việt Sử Thi Q. XI (Hồ Đắc Duy)
                             Nhà Hậu Lê
                                *****

LÊ THÁI TỔ HOÀNG ĐẾ (1428- 1433)

Năm Mậu Tuất truyền đi các lộ (1418)
Rằng Lam Sơn Lê Lợi dấy binh
Muôn người nhất loạt tôn vinh
Đưa làm chủ tướng "Diệt Minh" báo thù


Ở dưới cờ, anh hùng hào kiệt
Cùng một lòng thề quyết đánh tan
Lũ quân xâm lược hung tàn
Giành nền độc lập giang sơn của mình


Kể từ đó dồn binh tích thảo
Gởi truền đơn bá cáo khắp nơi
Anh hùng hội tại Lũng Nhai (1419)
Chung lòng giết lũ giặc trời cứu dân


Trận đầu tiên dàn quân Lạc Thủy
Đánh Mã Kỳ như thể chẻ tre
Quân lương khí giới thu về
Ba ngàn xác giặc đầu lìa khỏi thân


Tên Lý Bân đem quân lùng sục (1418)
Bị Vương cho mai phục dọc đường
Bắn tên, giặc chết, vô vàn
Hoảng hồn vội rút binh lương chạy về 

Giặc kiệt quệ khó bề chống đỡ
Dân thừa cơ từ đó nổi lên
Cùng nhau tiến đánh ngày đêm
Thượng thư Hoàng Phúc phải xin hồi triều (1420)


Giặc đóng đâu, dân theo ở đấy
Như tàng hình, lúc thấy lúc không
Hở ra, giặc bị tấn công
Tham mưu Trần Trí buộc lòng rút lui (1421)


Người Ai Lao, quân vài ba vạn (1421) 
Cùng trăm voi giả dạng theo ta
Vào trong doanh trại chung nhà
Nửa đêm bất ý nổ ra phá thành

Vua đích thân chỉ huy cự chiến
Giữa trận tiền vung kiếm dẹp tan
Ai Lao sợ quá chạy luôn
Quân ta đuổi đến Lưu Sơn mới về 

Năm Nhâm Dần (1422) nhằm khi tháng Chạp
Người Ai Lao hẹn gặp quân Minh
Hợp tung làm thế liên minh
Đông Tây giáp lại quyết tình diệt ta 

Vua xuống lệnh xông ra đánh mạnh
Cho tiến quân một cánh mở đường
Hậu quân rút khỏi chiến trường
Rồi quay bọc hậu tìm phương đánh vào

Quân Ai Lao không ngờ phản kích
Viện binh giặc nằm tít ngoài xa
Mã Kỳ, Trần Trí xin ta
Tạm thời đình chiến vờ qua lúc này 
 

Núi Chí Linh đồn xây lán dựng
Hai tháng trời gần cạn quân lương
Giết voi và ngựa đỡ lòng (1422)
Mà quân kháng chiến vẫn không nản lòng


Rồi dùng voi tấn công đột ngột
Đánh Đa Căng, Nhữ Hốt thoát thân (1424)
Nhà Minh sai trả Lê Trăn
Xin ta ngừng chiến rút quân, trá hàng

Tướng Lam Sơn: Lê Hào, Lê Lĩnh
Với đội hình quân lính ngàn tên
Nhằm khi Lê Thạch xông lên
Chẳng may lọt hố chông ghim vào người


Bảo Lê Ngân, vua sai Lê Liệt
Đường tắt đi vây xiết Đỗ Gia
Phục binh Bồ Ải quân ta (1424)
Dưới quyền Lê Sát đánh ba hôm liền


Lấy thêm quân vua truyền vây hãm (1425)
Thành Nghệ An cùng quẫn lâu nay
Tướng giặc Trần Trí khoanh tay
Bèn cho đóng kín đợi ngày viện binh


Vây Tân Bình giao cho Lê Nỗ (1425)
Cùng Trần Nảo đánh tới Hóa Châu
Vùng đất Thuận Hóa đã lâu
Dưới ách thống trị, nay vào tay ta 

Cho chia quân làm ba mũi nhọn (1426)
Hai đạo dùng giữ chốn biên cương
Chặn binh Lưỡng Quảng tiến sang
Khởi đầu bắc tiến quyết giành lại dân

Giặc ở thành Đông Quan nao núng
Tướng Lý An, Phương Chính chạy về
Bàn cùng Trần Trí rút đi
Tây Đô khốn đốn coi bề nguy nan


Để giải vây mấy làng phụ cận
Quanh Đông Quan giặc vẫn cầm chân
Nghĩa quân vây xiết lại dần
Giết Sâm và Đại ở gần cầu Nhân

Quân viện binh của Vương An Lão
Bị Lê Khả áp đảo tơi bời
Giết đi hơn một nghìn người
Tàn quân còn lại chạy dài qua sông


Vào mùa đông trong năm Bính Ngọ (1426)
Vua nhà Minh cho cử Vương Thông
Ngã Vân Nam, thẳng đến sông
Thêm quân ba vạn đi cùng Mã Anh


Sông Yên Nguyệt vây quanh quân giặc
Giết Trần Hiệp đón bắt Vương Thông
Giặc Minh chết đuối đầy dòng
Chém tên Lý Lượng bắt chừng vạn tên 

Cho tiến lên đuổi theo Phương Chính
Bọn Mã Kỳ cố tránh thoát đi
Ta thu quân khí bộn bề
Vương Thông thoát được chạy về Đông Quan

Bình Dịnh Vương chọn nơi Phù Liệt
Đặt bản doanh trực tiếp chỉ huy
Đông Đô bốn đạo phân đi
Đặt quan văn võ dễ bề điều quân

Vương tìm được họ Trần tên Cảo
Lập làm vua bố cáo trong dân
Triện ghi danh tính rõ ràng
Hiệu là Thiên Khánh ngang hàng đế vương


Giặc bị vây lâm đường khốn quẩn
Ở nhiều nơi chúng dẫn ra hàng
Vương Thông mong được bảo toàn
Sai đưa thư đến tính toan nghị hòa


Vua bằng lòng ban ra quân lệnh
Cho từng đoàn binh lính người Minh
Mau mau tập hợp về dinh
Giải trừ vũ khí Yên Kinh cho về


Vương Thông nghe lời tên phản quốc (1426)
Nên đem lòng ngờ vực quân ta
Đắp thêm thành lũy để mà
Đợi binh tiếp viện sẽ qua cứu mình 

Giận giặc Minh đã không thành thật
Lại sai người bí mật mang thư
Xin binh cứu viện bây giờ
Nên vua quyết định đánh cho tan hàng


Bản doanh nơi Đông Quan đối mặt
Địch và ta chỉ cách sông Lô
Truyền cho Nguyễn Trải đại phu
Dự bàn việc thảo một tờ chiêu an


Giặc nhiều nơi ra hàng đồng loạt
Tướng nhà Minh hoảng hốt vô cùng
Lấy Thị Cầu chiếm Tam Giang
Diễn Châu cùng với Nghệ An quy hàng


An Viễn Hầu Liễu Thăng xuất trận (1427)
Đem theo cùng mười vạn quân binh
Tham tướng Bảo Định, Lương Minh
Đô đốc Thôi Tụ cùng mình kéo sang

Tướng Chinh Nam Q
uốc Công Mộc Thạnh
Năm vạn quân một cánh tiến qua
Đánh vào cửa ải Lê Hoa
Dừng chân nghe ngóng lấy đà tấn công

Còn Liễu Thăng vượt vòng Pha Lũy
Quân Lê Lựu lùi giữ Ải Lưu
Kế sách ta đã lập mưu
Chỉ vài ba trận giả đò thua to 

Liễu Thăng cho đại quân đánh thốc
Lọt vào vòng mai phục của ta
Bốn bên pháo lệnh nổ ra
Quân Minh tháo chạy kêu la rần trời


Chém Liễu Thăng ở đồi Yên Ngựa (1427) 
Đem bêu đầu ở giữa ba quân
Lương Minh, Lý Khánh lùi dần
Cuối cùng tử trận ở gần Chí Linh

Ngày mười lăm, quân Minh đại bại (1427)
Trói Hoàng Phúc, Thôi Tụ dẫn đi
Ta thu ấn bạc, châu phê
Hổ phù chiến khí đem về Đông Quan

Ở Vân Nam, tướng già Mộc Thạnh
Thấy rùng mình trước cảnh Liễu Thăng
Vội vàng bỏ cả ba quân
Một mình một ngựa chạy băng trốn về 

Ở Đông Quan giặc nghe đại bại
Vội vàng đem dâng sớ xin hòa
Tức tốc sai sứ mang qua
Xin vua mở lượng hải hà tha cho

Vua xuống lệnh trả tù về trước
Cấp bạc tiền, gạo nước, quân lương
Cho thuyền, cấp ngựa sẵn sàng
Lấy điều nhân nghĩa dạy quân giặc tàu 

Cho Phương Chính bắt đầu về trước (1427)
Còn Mã Kỳ thì được theo sau
Hoàng Phúc, Sơn Thọ lao xao
Xốc xếch quần áo dắt nhau trở về

Trước khi đi, đến nơi lạy tạ
Bình Định Vương trước cửa hành dinh
Vua ta khuyên nhủ giặc Minh
Từ đây, đừng dại chiến tranh với nguời

Bậc quân tử ở đời hiếm có
Vua và Thông luận cổ suy kim
Trước thù, nay lại hàn huyên
Cùng nhau giải mối thù hiềm từ lâu

Uống cạn bầu, chuyện trò tới sáng
Nghĩa hiếu hòa chuyện vãn với nhau
Vua sai đem rượu, đưa trâu
Khôn ngoan đáng bậc ngoại giao tuyệt vời 

Năm Mậu Thân, lên ngôi hoàng đế (1428)
Dời đô về ở phía Đông Kinh
Thuận Thiên niên hiệu chính danh
Đặt tên: Đại Việt, sử xanh muôn đời.

(Còn tiếp)