Thứ Hai, 19 tháng 3, 2018

Đại Việt Sử Thi Q. IX (Hồ Đắc Duy) Nhà Trần: Trần Dụ Tông

       Đại Việt Sử Thi Q. IX (Hồ Đắc Duy)
                            Nhà Trần 
                                                *****
TRẦN DỤ TÔNG (1341 - 1369)
Vừa Tân Tý (1341) vua băng năm đó
Thượng Hoàng cho em nhỏ Hiến Tông
Tên là Trần Hạo nối dòng
Đổi ra niên hiệu Thiệu Phong năm đầu (1341)

Mẹ Hiến Từ, cha là Trần Mạnh
Vua Dụ Tông bị bệnh liệt dương (1339)
Loạn luân với chị trên giường (1351)
Vì Trâu Canh đã dâng phương thuốc này

Cha bên cạnh chỉ bày việc nước
Việc triều chính coi được êm xuôi
Đến khi cha đã qua đời (1357)
Trổ mòi dâm loạn ăn chơi hết điều

Cũng năm đó Hán Siêu, Trung Ngạn
Bộ Hình Thư biên soạn vừa xong
Dâng vua cùng với sách phong
HOÀNG TRIỆU ĐẠI ĐIỂN để dùng mai sau

Trương Hán Siêu ngôi sao văn học
Bạch Đằng giang bài phú của ông

Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
"Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã".
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt chi thế cường,
Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái bạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
"Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn".
Khách tòng nhi canh ca viết:
"Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh".
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mãi miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
"Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao".
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc trị an.
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
"Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!"
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
"Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao."

Áng văn thiên cổ để đời
Trong nền văn học của người Việt Nam

Từ Nhâm Ngọ (1345) đến năm Đinh Dậu
Những đổi thay ghi dấu thế này:
Có năm hạn hán lâu ngày (1343)
Có năm lụt lội vỡ đài sạt đê(1359)

Dân đói kém coi bề khốn đốn (1343, 1344 , 1345)
Tên Bảo Vy lấy trộm áo vua (1347)
Giặc thì nổi dậy lu bù (1343)
Năm nào cũng có mất mùa, hạn to

Vua xuống chiếu soát tù giảm tội
Lập đồn điền đặt sở khuyến nông
Duyệt quân, tảo giặc, an dân
Đánh tan Ngô Bệ ở gần núi Yên (1345)


Những năm đó Trung Nguyên loạn lạc
Giặc nổi lên trộm cướp nhiễu nhương
Hữu Lượng đánh với Nguyên Chương
Xưng hùng xưng Bá xưng Vương bên Tàu

Đảo Vân Đồn thuyền vào cập bến
Người bốn phương kéo đến bán buôn (1347)
Bồ Đồ rồi lại Tiểu Nhân (1348)
Tặng đồ Diêu Biến lại dâng lụa là (1349)

Nước Đại Oa cống chim trĩ đỏ (1349)
Người Vân Đồn mò trộm ngọc trai
Mùa xuân Đinh Dậu, tháng hai (1357)
Thượng hoàng băng ở cung đài Bảo Nguyên

Trần Minh Tông nhường quyền hăm tám
Hăm tám năm có lắm nhiêu phong
Cuối đời viết: Giới am Ngâm
Xét mình trong cõi hồng trần: CÓ - KHÔNG

Nước Chiêm Thành cướp dân Dĩ Lý (1361)
Vua nhà Minh sai sứ hiếu thông (1359)
Rồi Trần Hữu Lượng xin quân (1360)
Mà vua thì vẫn bình chân như thường

Vua ra lệnh thân vương, công chúa (1362)
Dâng các trò tạp hí để xem
Trò nào hay quá thì đem
Dạy cho cung nữ lập riêng một đoàn 

Tổ tuồng Tàu hàng binh họ Lý(1362)
Hướng dẩn nghề vũ kịch, ca ngâm
Diễn trò cho mọi người xem
Có đào, có kép áo xiêm đủ điều

Áo quần thêu, đánh đàn thổi sáo
Phấn son tô, đội mão mang râu
Truyện xưa, tích cũ muôn màu
Tuồng Tây Vương Mẫu diễn lâu chẳng nhàm

Vua say mê, mãi ham tuồng cổ
Việc triều đình bỏ cả cho quan
Gọi người giàu có trong làng (1362)
vào cung đánh bạc, nhàn quan một lần

Lấy đất gần bờ sông Tô Lịch (1362)
Sai cuốc lên đắp vĩa trồng hành
Trồng rau, trồng tỏi, trồng chanh
Lại làm thêm quạt vào thành bán chơi

Để có người vào nơi quán các
Thi học trò đối trát vài câu
Hỏi sang văn nghệ, ả đào (1363)
Gọi người uống rượu nối câu tang tình


Lại đào hồ khai kênh dẫn nước (1363)
Xếp đá thành một cõi núi non
Thông, tre, cỏ lá, hoa thơm
Chim muông cá cảnh một hòn giả sơn

Sống buông thả ngày càng sa đọa
Đêm rong chơi có bữa quên về (1364)
Rượu đào chạm cốc tới khuya
Say mất ấn kiếm chỉ vì tắm sông

Trần Dụ Tông chơi bời trác táng
Chơi tới cùng vong mạng chẳng hay
Chơi mà đất lở trời say
Lại truyền ngôi đế vào tay người ngoài


(Chu Văn An dâng Thất Trảm Sớ)


( Tượng thờ Chu Văn An)

DƯƠNG NHẬT LỄ (1369 - 1370)
Trước khi chết vua sai đi đón (1369)
Nhật Lễ về bất kể khuyên can
Lễ là con của Dương Khương
Mẹ là con hát đào nương diễn tuồng

Khi đào nương mang thai mấy tháng
Đại vương Dục lại muốn làm chồng
Dục là con trưởng Minh Tông
Hiến Từ không rõ nên tôn lên làm


Mới đăng quang giết ngay Thái Hậu (1369)
Cùng Nhật Hạch ước dấu với nhau
Họ Dương sẽ đổi thay vào
Vương triều chuyển họ bắt đầu qua năm

Dương Nhật Lễ ô dâm tà đạo
Quan đại thần phải chịu chết oan
May thay nhờ có Ngô Lang  (1370)
Họp cùng Vương Phủ thân vương họ Trần

 (Còn tiếp)

Không có nhận xét nào: