Thứ Năm, 29 tháng 3, 2018

Đại Việt Sử Thi Q.XI (Hồ Đắc Duy) Nhà Hậu Lê: Lê Thái Tổ (tiếp theo)

         Đại Việt Sử Thi Q. XI (Hồ Đắc Duy)
                              Nhà Hậu Lê
                      Lê Thái Tổ (tiếp theo)
                                    *****

                            Bình Ngô Đại Cáo


Vua cùng người nghị bàn việc nước 
Luận tội công cho được phân minh (1429) 
Lại sai Nguyễn Trải dâng lên 
Bình Ngô Đại Cáo để truyền trong dân (1428) 


Nguyễn Trải

Bản tuyên ngôn được rao khắp nước 

Cho thần dân biết được ý vua 
Nước nhà độc lập bấy giờ 
Thái bình thịnh trị cơ đồ phục hưng 
Trong tận cùng trái tim vua nói:

1. Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lê Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Vì vậy:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi

2. Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán.
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi


Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Nam Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được 

3. Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi,
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì :
Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nghìn chốn bể khơi
Tự ta, ta phải dốc lòng vội vã hơn cứu người chết đuối.


Phần vì giận quân thù ngang dọc
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi Huyện, quân không một đội

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay :
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo
Trận Bồ Đằng, sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân, trúc chẻ tro bay
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân
Thừa thắng ruỗi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại
Tuyển binh, tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về,

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động, thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm luân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan,
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy,
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại.
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong,
Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm nhăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
Thuận đà ta đưa mũi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc,
Sĩ tốt kén người hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chiêm muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng, sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội.
Thượng Thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Ảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân,
Suối Lãnh Câu, máu đào trôi chảy, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc.
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng,
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Thần vũ chẳng giết hại, thề lòng trời, ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiến thuyền
ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run!

Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng.
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức,
Chẳng những mưu kế kỳ diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay .

4. Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc.
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng, ngầm giúp đỡ mới được như vậy. 

Than ôi!
Một cổ nhung chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm,
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay." 

(Còn tiếp)





Không có nhận xét nào: