Thứ Năm, 31 tháng 1, 2019

Thơ Xuân: Sơn Thôn Vịnh Hoài của Thiệu Ung (Bài viết của Đỗ Chiêu Đức)

Thơ Xuân: 
                       SƠN THÔN VỊNH HOÀI

                       Inline image

       Gần Tết, kính mời tất cả cùng đọc một bài thơ xuân hồn nhiên vui tươi của tuổi trẻ (Bài thơ xưa dùng để dạy cho các em bé mới học đếm!):

       山村咏懷      SƠN THÔN VỊNH HOÀI  
  
      一去二三里,   Nhất khứ nhị tam lý,
      烟村四五家。   Yên thôn tứ ngũ gia.
      亭台六七座,   Đình đài lục thất tọa.
      八九十枝花。   Bát cửu thập chi hoa.
                邵雍                      Thiệu Ung

        Inline image THIỆU UNG 邵雍 (1011-1077) tự Nghiêu Phu 堯夫, tự hiệu là An Lạc Tiên sinh 安樂先生, người đất Phạm Dương tỉnh Hà Bắc, là nhà tư tưởng, nhà giáo dục và là một triết gia dịch học thời Bắc Tống. Sau 30 tuổi về ở đất Hà Nam, ẩn cư ở Tô Môn Sơn, người đời xưng tụng là Bách Nguyên Tiên Sinh 百源先生. Sau khi chết, tên thụy là Khang Tiết, nên người đời còn gọi là Khang Tiết Tiên Sinh.  

Bối cảnh sáng Tác:
      Trong cảnh trí dương xuân của tháng 3, tác giả đi đến Cộng Thành ở Huy Huyện tỉnh Hà Nam. Trên đường thấy cảnh trí của mùa Xuân ở các làng miền núi rất nên thơ đẹp đẽ, nên viết bài thơ giản dị nhẹ nhàng nầy để tả cái cảnh đơn thuần mộc mạc của làng quê hẻo lánh với tâm trạng hồn nhiên của một tâm hồn tươi trẻ đang sống giữa mùa Xuân.

Nghĩa Bài Thơ:

                     Inline image

                            Vịnh Cảnh Sơn Thôn
      Hễ cứ đi trên hai ba dặm đường làng là ta thấy được bốn năm nóc gia đang ẩn hiện dưới làn sương khói mông lung, và sáu bảy tòa đoản đình trường đình bên đường với tám chín mười bông hoa đang khoe sắc thắm!

      Tác giả đã khéo léo lồng cả mười số đếm vào trong hai mươi chữ của bài thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt mà lời thơ vẫn nên thơ và tự nhiên bay bổng, khiến người đọc vừa thấy nhẹ nhàng vừa bay bổng với lời thơ mộc mạc gợi hình.

Diễn Nôm :
                  Một đi hai ba dặm,
                  Xóm nhỏ bốn năm nhà.
                  Đình đài sáu bảy cái,
                  Tám chín mười cành hoa !
 Lục bát :
              Một hai ba dặm đường làng,
              Bốn năm nhà nhỏ mơ màng khói sương.
              Đình đài sáu bảy bên đường,
              Tám chín mười đóa hoa hương đầy đồng!

                                        Đỗ Chiêu Đức

      Còn có một dị bản nữa là:

             Inline image

           一二三里,   Nhất vọng nhị tam lý,
           烟村四五家。   Yên thôn tứ ngũ gia.
           門前六七樹,   Môn tiền lục thất thọ.
           八九十枝花。   Bát cửu thập chi hoa.

Diễn Nôm :
                Một nhìn hai ba dặm,
                Xóm nhỏ bốn năm nhà.
                Sáu bảy cây trước cửa,
                Tám chín mười cành hoa !
 Lục bát :
                Một hai ba dặm đường làng,
                Bốn năm nhà nhỏ mơ màng khói sương.
                Cây trồng sáu bảy bên đường,
                Tám chín mười đóa hoa hương đầy đồng !

                                     Đỗ Chiêu Đức

Mai Xuân Thanh xin góp vui cùng anh đồ ĐCĐ
(qua diễn Nôm thơ xuân "SƠN THÔN VỊNH HOÀI - Thiệu Ung" của anh đồ Đỗ Chiêu Đức) như sau:

THƠ XUÂN GIẢN DỊ

Cứ đi mấy dặm dốc đường qua
Xóm nhỏ năm ba cái nóc nhà
Sáu bảy đình đài đang tọa lạc
Chín mười tám đóa thật thơm hoa

MAI XUÂN THANH
Ngày 23/01/2019 



Hoa Xuân Chờ Người Xa Xứ - Vkp.Phương Ngày Nay

     


  HOA XUÂN CHỜ NGƯỜI XA XỨ 
(Thương mến tặng các bạn già xa quê hương)

Rầm tháng chạp tướt lá mai (15/12/Mậu Tuất )
Tháng đầu mười chín nhằm ngày hai mươi (20/1/2019 )
Chờ người về... ngắm hoa cười
Quê mình vẫn mãi xinh tươi ngọt ngào
Dù bao lận đận lao đao
Tình thâm vẫn giữ dạt dào như xưa
Cùng nhau chào đón giao thừa
Rong chơi cho đến nắng mưa giao mùa
Kiếm tìm bạn cũ trường xưa
Tiếng đàn hát giọng cười đùa âm vang
Trời Tây thăm thẳm ngút ngàn
Kẻ quên người nhớ bàng hoàng vấn vương
Gởi người xa cách dặm trường!!!

Saigon tháng Chạp năm Mậu Tuất 
       vkp phượng ngày nay

Hoài Tưởng (Như Thị) & Nhớ Ai (Mai XThanh)


      HOÀI TƯỞNG
Lâu rồi khắc khoải nhớ xuân quê
Mỗi độ đông phong cõng én về
Đồng vọng chuông ngân bừng tánh giác
Bồi hồi mõ điểm diụ cơn mê
Mà thương vạc gọi nơi thôn dã
Để cảm chim tìm cội suối khe
Tâm tưởng thường neo miền bản quan
Thì không chất vấn cứ răng hè…
         Như Thị


           NHỚ AI  
Tha hương lữ thứ thả hồn quê
Thấp thoáng Xuân sang Tết lại về
Lễ Hội Tất Niên quà hấp dẫn
Tiệc tùng Kỷ Hợi rượu ngon mê
Hồng đào má đỏ tươi chào hỏi
Vàng cúc em ngoan đẹp nín khe
Nhớ bạn nàng thơ tình trẻ mãi
Mơ ai tri kỷ ở đâu hè... (?)

Mai Xuân Thanh
Ngày 28/01/2019

      

Đạo Khai Tâm Khởi - Mai Xuân Thanh




ĐẠO KHAI - TÂM KHỞI

( Khai Bút Đầu Xuân )

Khai bút đầu xuân gởi tới ai
Đệ huynh tỷ muội Tết vui thay
Tu thân khắc kỷ lo hành Đạo
Dưỡng tánh thành tâm công quả ngay

Sinh tử xoay vần duyên chánh khí
Sống còn chuyển hoá nghiệp oan sai
Thiện nam Thánh Thất câu kinh kệ
Tín nữ Cao Đài phụng sự chay

Xuân đến ngàn hoa tỏa ngát hương
Con người Phước Thiện ấy thiên lương
Đạo khai giáo lý soi đường mến 
Tâm khởi chân kinh dẫn lối thương 

Sửa tánh tuỳ duyên nơi đức hạnh
Rèn tâm theo phận cõi vô thường 
Con thuyền Bát Nhã... Thần Tiên Phật
Phương tiện đưa linh chốn đoạn trường...

MAI XUÂN THANH
Ngày 24/01/2019





Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

Tống Táo Thi - Lữ Mông Chính (Bài viết của Đỗ Chiêu Đức)


                            TỐNG TÁO THI
                      
         Hằng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp, thì dân Việt Nam ta có tục lệ cúng tiễn đưa Ông Táo về trời, người Hoa thì cúng vào đêm 24. Theo câu nói của dân gian là "Quan tam, dân tứ, thuyền gia ngũ", có nghĩa là: Làm quan thì đưa ông Táo ngày 23, dân thì đưa ngày 24, còn những người đi ghe theo cuộc sống thương hồ thì đưa ông Táo ngày 25.

         Bỏ qua về xuất xứ của tục lệ nầy, chỉ xét về phần cúng tế. Người Việt và người Hoa ở Việt Nam thường cúng tiễn Táo Quân bằng "thèo lèo", bánh mức, chè Ỷ... hương hoa trà nước... và giấy tiền vàng bạc kèm theo các hình cò bay ngựa chạy. Ý là để cho ông Táo cởi ngựa cởi cò về trời (trong văn học thì cho là cởi cá Chép), còn "thèo lèo" bánh mức... là để ăn cho ngọt miệng đặng báo cáo cho ngọt cho tốt với Ngọc Hoàng Thượng Đế về tình trạng gia đình nơi mà ông Táo đang cư ngụ...    
           Inline image Inline image 

        Nhớ lúc nhỏ, khi gần Tết, tôi đã đọc được một bài thơ "Tống Táo Thi" 送 竈 詩  trên báo để tiễn đưa ông Táo như sau:

     送 竈 詩                      TỐNG TÁO THI      
  麥芽糖餅餞行蹤, Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
  拜祝佯癡且作聾。 Bái chúc dương si thả tác lung.
  只有一般應開口, Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
  煩君報我一年窮。 Phiền quân báo ngã nhất niên cùng!

 CHÚ THÍCH:
    1. Đường Bỉnh: là Kẹo bánh. Đường là Đường, mà cũng có
        nghĩa là Kẹo nữa.
    2. Dương: là Giả đò.Tác: là Làm, ở đây có nghĩa là Làm bộ.
    3. Si: là Ngây, là Dại.  Lung: là Điếc.
    4. Nhất ban: là Mạo từ (Article) chỉ: Một Điều, Một Cái.
    5. Nhất niên: là Cả năm, suốt năm, chớ không phải MỘT
        NĂM.

 DỊCH NGHĨA :
       Mạch nha, Kẹo, bánh... đưa tiễn bước chân ông đi. Khi bái kiến và chúc tụng Thượng Đế xin ông giả ngây giả điếc dùm cho (đừng nói lung tung những chuyện không tốt của tôi). Chỉ có một điều ông nên mở miệng nói là... Cảm phiền ông báo với Ngọc Hoàng là sao tôi lại nghèo suốt cả năm vậy?!

 DIỄN NÔM :
                 THƠ TIỄN ÔNG TÁO
          Mạch nha kẹo bánh tiễn chân ông,
          Lên đó giả ngây giả điếc dùm.
          Chỉ có một điều nên mở miệng,
          Rằng ta nghèo suốt một năm ròng!
                             Đỗ Chiêu Đức

 TÁI BÚT:

                Image result for thèo lèo   Image result for thèo lèo
     
     Xin được nói thêm về 2 chữ THÈO LÈO.
     THÈO LÈO là phát theo âm Triều Châu của 2 chữ TRÀ LIỆU 茶料 : là Những Vật Liệu dùng để Uống Trà. VẬT LIỆU ở đây là chỉ những món đồ ngọt như: Kẹo Đậu Phộng, Kẹo mè đen, mè trắng, cốm, và những viên đậu phộng được áo một lớp đường màu trắng mà ta quen gọi là "Cứt Chuột".
    "Thèo Lèo Cứt Chuột" là món ngon dùng để uống trà và là món không thể thiếu khi cúng ông Táo ở quê tôi: Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xán, Phong Điền...

        Nhân nói đến thơ đưa Ông Táo, ta không thể không nhắc đến bài "Tống Táo Thi" của Lữ Mông Chính, người mà trong "Hàn Nho Phong Vị Phú" Nguyễn Công Trứ đã viết như thế nầy:
   
       ....Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa
             cởi dù che...

           Sau đây, ta thử tìm hiểu cuộc đời nghèo khó và bài thơ đưa ông Táo nổi tiếng của ông nhé!...

          LỮ MÔNG CHÍNH (944 & 946- 1011), Tự là Thánh Công, người đất Lạc Dương tỉnh Hà Nam, đậu Trạng Nguyên năm Đinh Sửu đời Tống Thế Tôn năm 977. Sau khi đỗ Trạng, Lữ Mông Chính đã từng giữ các chức vụ Giám Thừa, Thông Phán, Trứ Tác Lang, Tả Bổ Khuyết, Tham Tri Chính Sự. Năm 988, Lữ nhậm chức Tể Tướng. Bệnh mất năm Đại Trung Tường Phù thứ 4 (1011), hưởng thọ 67 tuổi.
      Image result for 呂蒙正  Inline image  Inline image

     Sau khi cha mất, gia cảnh ngày một suy vi, Lữ Mông Chính cùng mẹ phải tạm trú ngụ trong một lò gạch cũ, làm nghề ăn xin độ nhật.
          Một hôm, thấy trước cửa quan Tể Tướng đông nghịt những người, chen chút nhau rất náo nhiệt, Lữ cũng chen vào để xem, tình cờ một vật gì đó từ trên trời bay xuống rớt đúng vào lòng. Thì ra, thiên kim tiểu thơ của quan Tể Tướng là Lưu Nguyệt Nga đang gieo tú cầu để tìm người hôn phối. Vật bay vào lòng Lữ là trái tú cầu được Lưu tiểu thơ ném từ trên lầu xuống...
         Dĩ nhiên là ông bà Tể Tướng không chịu chấp nhận hôn sự nầy, nhưng tiểu thơ Nguyệt Nga thì lại kiên trì chấp nhận từ bỏ tất cả để đi theo Lữ về sống ở lò gạch bể, vì nàng cho đây là duyên trời định và hơn nữa không thể bội tín được.
         Cuối năm đó, đến ngày đưa ông Táo, không hiểu là Lữ Mông Chính đã năn nỉ như thế nào mà ông hàng thịt bán chịu cho một miếng thịt đem về luộc để cúng ông Táo. Nhưng khi bà hàng thịt biết được việc nầy bèn mắng cho ông chồng một trận nên thân: "Nó nghèo kiết xác, làm sao có tiền trả mà bán chịu?!" Bà ta tức tốc chạy đến lò gạch, thấy miếng thịt đang luộc dở dang trên bếp, bèn hứ một tiếng rồi vớt lấy miếng thịt đem về! Đến nước nầy, Lữ chỉ còn biết đổ nước luộc thịt vào tô mà đưa tiễn ông Táo về trời thôi.
         Trong khi thắp hương để cúng ông Táo, vì cảm khái trước cái nghèo khó của mình và cũng cảm khái trước cái nhân tình thế thái, Lữ Mông Chính đã làm bài thơ tiễn Ông Táo sau đây:

    一柱清香一縷煙, Nhất trụ thanh hương nhất lũ yên,
    灶君今日上朝天; Táo Quân kim nhật thướng triều thiên.
    玉皇若問人間事, Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
    為道文章不值錢。 Vị đạo văn chương bất trị tiền ! 

 DỊCH NGHĨA :
        Một nén nhang thanh thanh tỏa ra một làn khói nhẹ, hôm nay ta đưa tiễn Táo Quân về để chầu Trời. Nếu như Ngọc Hoàng có hỏi đến chuyện của dân gian, thì xin ông hãy vì ta mà đáp rằng, văn chương không đáng giá đồng xu cắc bạc nào cả!

DIỄN NÔM :
                  Một nén nhang thanh làn khói nhẹ,
                  Chầu Trời tiễn Táo đến cửa thiên.
                  Ngọc Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
                  Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền!
                                        Đỗ Chiêu Đức 

       Câu chót của bài thơ làm ta nhớ đến câu thơ lên Hầu Trời của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
              "Văn chương hạ giới rẻ như bèo!"

       Trở lại chuyện của Lữ Mông Chính, theo truyền thuyết dân gian thì...
    ....Năm đó, sau khi Táo của các nhà đã báo cáo xong, mà đợi mãi vẫn không thấy Táo của lò gạch nơi Lữ cư ngụ. Mọi người đang nóng ruột, thì thấy Táo của Lữ Mông Chính mặt mà xanh lè, đi cà lếch cà lếch vào chầu. Ngọc Hoàng phán hỏi tại sao, thì được trả lời rằng: "Thần chỉ uống có một tô nước thịt luộc dở dang chưa chín, đã đói lại còn bị... chột bụng nên đi không nổi", đoạn trình bài thơ của Lữ lên cho Ngọc Hoàng xem. Ngọc Hoàng phán rằng, số của Lữ sẽ đậu Trạng Nguyên vào khoa sau, đừng lo lắng quá! Thần Táo mới năn nỉ rằng: "Anh ta đói quá, sợ sống không nổi đến khoa sau đâu, thôi thì trước sau gì cũng đậu, xin Ngọc Hoàng thương tình.  Ngọc Hoàng bèn sai Nam Tào đem sổ sửa lại cho Lữ đậu ngay khoa nầy, vì thế mà Lữ Mông Chính mới đậu được Trạng Nguyên của khoa Đinh Sửu 977 là vậy!

  ...Trên đây là theo truyền Thuyết dân gian, chớ thực sự thì... Đằng sau sự thành công của người đàn ông, thường có bóng dáng của một người đàn bà, còn ở đây, đằng sau sự đậu đạt của Lữ Mông Chính, có tới  bóng dáng của 2 người đàn bà lận: một là Lưu tiểu thơ, hai là bà Tể Tướng phu nhân, vì thương con gái mà lén chu cấp đầy đủ vật chất cho con và rể sinh sống, vì vậy Lữ mới yên tâm mà dùi mài kinh sử... chứ đói meo thì làm sao đủ sức mà học hành để đậu Trạng Nguyên cho được!

         Đây là ông Tể Tướng xuất thân từ khất cái (Ăn mày)  duy nhất của lịch sử Trung Hoa: Lữ Mông Chính.

       Nói đến thơ đưa tiễn Ông Táo thì cũng không thể không nhắc tới...
        LA ẨN 羅隱(833-909 ),Tự là Chiêu Gián, người đất Tân Thành (thuộc trấn Tân Đăng, thành phố Phú Dương, tỉnh Chiết Giang ngày nay). Ông vốn tên là HOÀNH 橫, vì từ năm 20 tuổi bắt đầu đi thi Tiến Sĩ, nhưng mười lần vẫn không đậu, nên mới đổi tên là LA ẨN và đi tu theo đạo Lão, là một học giả thuộc Đạo Gia ở cuối đời Đường đầu đời Ngũ Đại. Thơ ông thường mang tính hiện thực, bất cần đời, nổi tiếng với các câu như:

          Inline image   Inline image
          今朝有酒今朝醉,   Kim triêu hữu tửu kim triêu túy,
          明日愁來明日憂。   Minh nhựt sầu lai minh nhựt ưu.

 Có nghĩa :
                Hôm nay có rượu thì hôm nay say,
                Ngày mai sầu đến thì ngày mai hãy ưu sầu!

       Ông cũng có một bài Tống Táo Thi giống như là của LÃ MÔNG CHÍNH đã nêu ở trên, như sau:

                    Inline image

     一盞清茶一縷煙,    Nhất trản thanh trà nhất lũ yên,
     灶君皇帝上青天。  Táo quân hoàng đế thượng thanh thiên.
     玉皇若問人間事,  Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
     為道文章不值錢。  Vị đạo văn chương bất trị tiền ! 

CHÚ THÍCH :
       NHẤT TRẢN: là Một Chung. TRẢN là Ly, Chén nhỏ.
       TÁO QUÂN HOÀNG ĐẾ: Là Ông Hoàng Đế ở trong Bếp mà ta quen gọi là VUA BẾP. (Xuất xứ của từ VUA BẾP là do câu thơ nầy mà ra).

DIỄN NÔM :
                 Một chén trà thơm làn khói nhẹ,
                 Chầu Trời Vua Bếp đến cửa thiên.
                 Ngọc Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
                 Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền!

       Ta thấy, chỉ có hai câu đầu là hơi khác, còn hai câu sau của bài thơ thì giống y chang như là bài Tống Táo Thi của Lữ Mông Chính, và không cần phải nói ta cũng biết là Lữ đã mượn thơ của La Ẩn để cảm khái cho hoàn cảnh của mình, vì LA lớn hơn LỮ đến 111 tuổi lận, LA ở cuối đời Đường còn LỮ ở đầu đời Tống.
  
                     TỐNG TÁO THI - LỖ TẤN

          LỖ TẤN ( 25-9-1881--19-10-1936 ), người huyện Thiệu Hưng, Tỉnh Chiết Giang, vốn tên là Châu Thọ Nhân, tự là Dự Sơn, Dự Đình, sau đổi thành Dự Tài. Ông thường mặc một chiếc áo dài giản dị theo truyền thống Trung Hoa. Đầu để trần tóc dựng đứng như bàn chải, râu mép đậm như hình chữ NHẤT viết theo theo kiểu Lệ Thư. Ông là nhà Văn học, nhà Tư Tưởng vĩ đại và là chủ tướng của nền văn hóa Trung Hoa cận đại.

          Sau đây là bài Tống Táo Thi ông làm năm Canh Tí 1901 lúc gia cảnh đang sa sút phải cầm cố đồ đạc để sống qua ngày.
  
      庚子送灶即事        CANH TÝ TỐNG TÁO TỨC SỰ
           1901年                         năm 1901
        只雞膠牙糖,          Chỉ kê giao nha đường,
        典衣供瓣香。          Điển y cung biện hương.
        家中無長物,          Gia trung vô trưởng vật,
        豈獨少黃羊。          Khởi độc thiểu hoàng dương.
               魯迅                            Lỗ Tấn

CHÚ THÍCH :
    * GIAO 膠 là chất Keo, chất Nhựa, nên...
       Giao Nha Đường là Kẹo Mạch Nha.
    * ĐIỂN 典 là Cầm Cố. Điển Y là Cầm cái Áo.
    * TRƯỞNG VẬT 長物 : Đồ vật có giá trị, Đồ Quý giá!
    * HOÀNG DƯƠNG 黃羊 : là con Dê màu Vàng. Theo sách "Hậu Hán Thư" quyển 62 có "Âm Thức Truyện《後漢書》卷62《陰識傳》kể rằng: Đời Tuyên Đế, có người tên Âm Tử Phương, rất có hiếu lại có lòng nhân từ. Tháng Chạp hăm ba, nhà chỉ có một con dê màu vàng cũng làm thịt để cúng Táo. Từ đó về sau bỗng phát tích thành cự phú. Vì thế sau này đến ngày tế Táo, mọi người đều làm dê vàng để cúng theo, lâu dần thành lệ.

NGHĨA BÀI THƠ :
                 BÀI THƠ LÀM LÚC CÚNG ÔNG TÁO NĂM
                               CANH TÝ 1901
        Chỉ vỏn vẹn có một con gà và chút đỉnh kẹo mạch nha, đó là do vừa đi cầm cái áo mà mua nhang về để cúng đó. Nhà đã không còn vật gì đáng giá nữa, chẳng phải chỉ thiếu có con dê vàng thôi không đâu! (Ý muốn nói là còn thiếu nhiều món để cúng nữa!)
         Chắc vì không có được dê vàng để cúng, nên Lỗ Tấn chịu nghèo suốt cuộc đời mình!

           Image result for 魯迅,送灶詩   Image result for 魯迅,送灶詩   Inline image

DIỄN NÔM :

                  TIỄN TÁO NĂM CANH TÝ 1901

                       Mạch nha kẹo với gà,
                       Cầm áo cúng hoa loa.
                       Nhà không còn gì quý,
                       Lấy đâu chú dê già!?
     Lục bát :
                       Con gà với kẹo mạch nha,
                 Nén nhang cầm áo hoa loa cúng Ngài,
                       Hết đồ quý giá trong ngoài,
                 Dê vàng đừng nhắc thêm hoài công thôi!
                                       Đỗ Chiêu Đức

       Để kết thúc bài viết nầy, xin mời cùng đọc câu đối hay và nổi tiếng thường thấy dán cho bàn thờ TÁO QUÂN như sau:

                  有德能司火,   Hữu đức năng ty hỏa,
                  無私可達天。   Vô tư khả đạt thiên.

Có nghĩa :
           Có ĐỨC thì mới có thể trông coi việc củi lửa bếp núc được.
           Phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời (để trình tấu mọi việc).
               Inline image  Inline image

       Như vậy là cái TIÊU CHUẨN để được làm ông Táo đâu phải dễ! Năm mới vui xuân, mong rằng mọi người rán tích đức để tương lai đều được lên CHẦU TRỜI như ông TÁO vậy!

                              Đỗ Chiêu Đức