Vhp.Hạ Vũ
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra."
Ca
dao
Không biết lúc tôi còn nhỏ, cha tôi như thế nào nhưng
từ khi tôi có chút trí khôn, tôi thấy cha mẹ tôi hơi khác với cha mẹ của mấy
đứa bạn trong trường và trong xóm của tôi. Thường thường các bài văn thơ
toàn ca tụng "nghiêm phụ, từ mẫu". Trong gia đình tôi, phải
nói ngược lại: "từ phụ, nghiêm mẫu" mới đúng.
Tôi có phúc hơn một số bạn bè của
tôi có cha là chiến sĩ ở chỗ cha tôi là sĩ quan không quân, không phải đi
hành quân xa nhà lâu ngày, nên chúng tôi gần gũi với ông hằng ngày.
Ngày nào không lúc ra đi thì cũng lúc về nhà, anh em chúng tôi đều được cha tôi
ôm hôn y như trong mấy phim Âu Mỹ mà tôi được xem. Rồi thì chúng tôi
bá cổ, đu vai cha tôi. Ông nhấc từng đứa lên, ôm xoay vòng
vòng. Những biểu lộ tình cảm công khai và ồn ào kiểu này hiếm
thấy trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Chiều về, lần nào ông
cũng có kẹo hay bánh trái cho chúng tôi. Mẹ tôi thì hay rên rỉ: "Anh
ơi, đừng để chúng nó lờn mặt, khó dạy dỗ lắm." Lần nào cha tôi cũng chỉ có
một câu: "Anh biết rồi. Anh sẽ chừng mực mà." Sau đó thì
ông nháy mắt với chúng tôi, và cha con tôi tạm thời tan hàng. Từ khi tôi
vào lớp một, cha tôi là người thầy dạy vỡ lòng cho tôi tập đọc, tập viết.
Ông đã viết nhiều trang chữ a, b, c... bằng bút chì cho tôi đồ lên để tập
viết, từ ngày này qua ngày khác cho đến khi tôi có thể viết một mình. Bởi vậy cho nên nét chữ của tôi hao hao giống
chữ của cha tôi. Những khi cha tôi trực đêm ở phi đoàn thì tôi phải học
với mẹ. Tôi không thích học với mẹ lắm vì mẹ tôi rất nghiêm khắc với
chúng tôi, nhưng là một cô giáo vui vẻ, dễ mến, dễ thương ở trường. Sau này lớn lên tôi mới biết sở dĩ mẹ
tôi nghiêm khắc với chúng tôi là vì cha tôi quá dễ dãi. Mẹ tôi
phải đóng vai "nghiêm mẫu" để kềm bớt chúng tôi, không
cho đi quá đà. Chưa bao giờ cha tôi la mắng hay phết vào
mông anh em chúng tôi cả. Những lúc chúng tôi bị mẹ phạt hay bị nghe
"giảng luân lý", cha tôi thường lánh mặt, ra ngoài sân len lén nhìn
vào. Chờ chúng tôi thi hành hình phạt được một lúc, cha tôi vào bắt chúng
tôi xin lỗi mẹ. Lần nào cũng vậy, cha nói nhỏ vơi mẹ một câu là mẹ
tôi đành "tha Tào."*
Buổi tối, sau khi học
bài xong là cha kể chuyện đời xưa hoặc những chuyện vui của các
chú, các bác trong phi đòan cho chúng tôi nghe. Chưa bao giờ cha
kể những chuyện buồn, thương, chết chóc mà cha đối diện hằng
ngày cho chúng tôi biết. Sau này
lớn lên, tôi mới hiểu được rằng: vì sinh mạng của cha treo đầu sợi
tóc, nên cha lúc nào cũng giấu kỹ trong lòng chuyện buồn, chuyện chết
chóc, chuyện lo âu... mà sống trọn vui với vợ con.
Câu mà cha thường bỏ nhỏ cho mẹ là: "Em ơi, cho anh sống vui vẻ
với con và em được lúc nào hay lúc ấy."
Một lần cha bị thương phải nằm Bệnh Viện Cộng
Hòa. Mẹ tôi đã khóc sướt mướt trên đường đến thăm cha, làm chúng
tôi cũng khóc theo. Khi thấy chúng tôi,
cha đã cười lớn và nói: "Chỉ bị kiến cắn một phát thôi, làm gì mà mấy
mẹ con khóc dữ vậy?" Mẹ tôi nắm lấy tay cha lặng lẽ rơi nước
mắt. Cha tôi lại là người an ủi mẹ:
- Mạng anh lớn lắm. Em đừng lo. Tử vi nói
anh thọ đến 90 tuổi, giống ba của anh.
Chúng tôi lại nhào lên giường, níu áo lôi
tay, đòi ông về nhà với chúng tôi. Mẹ tôi phải ngăn
cản chúng tôi sợ đụng đến vết thương của ông. Khi ra về
chúng tôi làm trận làm thượng đòi ông về chung mới chịu. Cha
lại hứa hẹn, chúng tôi mới chịu ra về. Cha nhìn theo chúng tôi,
miệng cười nhưng mắt đỏ chạch.
Chúng tôi sống hạnh phúc bên
cha tôi như thế không được bao lâu. Vào Tháng Tư năm 1975, cha
thường xuyên ở trong phi đoàn, ít về nhà. Mỗi lần về
qua nhà, vẻ mặt ông vô cùng nghiêm trọng, và vắng đi nụ
cười. Ông thường to nhỏ với mẹ. Cả hai đầy lo âu, sợ
hãi. Hàng xóm chúng tôi có những người chộn rộn việc ra
đi. Đi đâu, tôi không biết. Họ đi mà không
mang theo của cải. Họ bỏ lại nhà cửa, những đồ vật có
giá trị như Ti vi, tủ lạnh, bàn ghế... Có những đứa bạn cùng xóm
với tôi, hôm trước còn đi học, đột nhiên sáng hôm sau vắng mặt, và không
thấy chúng nó đi học nữa, nhà cửa đóng im ỉm. Mẹ tôi cũng thu dọn
quần áo cả gia đình vào va-li, và ngóng chờ cha tôi về. Lần
nào ông về, cũng nói ít câu với mẹ rồi tất bật ra đi.
Rồi một ngày... cha tôi về nhà
sớm hơn mọi hôm với dáng mỏi mệt. Cha không cười. Chúng tôi ôm
lấy ông chờ đợi những nụ hôn như ngày nào, nhưng ông chỉ ôm chúng tôi và
chảy nước mắt. Lần đầu tiên tôi thấy cha tôi khóc. Tôi, lúc đó 7
tuổi rồi, biết có chuyện quan trọng vô cùng nên ông mới buồn như
vậy. Hai em tôi vẫn nũng nịu đòi ông bế và hôn như mọi ngày.
Cha miễn cưỡng làm theo, chợt thấy tôi đứng lặng lẽ một góc nhìn, ông ôm
lấy tôi giọng sũng nước mắt:
- Cục Cưng của ba lớn rồi. Nếu một mai
không có ba ở nhà với các con, con thay ba giúp đỡ mẹ và chăm sóc em, nghe con.
- Ba đi đâu. Con không cho ba đi đâu
hết.
- Ừ, thì ba cố gắng ở bên các con.
Thế rồi từ ngày đó trở đi, trông cha buồn và thiểu
não, cha không vào phi đoàn nữa. Các chú, các bác đồng đội của cha thỉnh
thoảng cũng ghé qua nhà. Người nào cũng mất đi dáng vẻ tươi vui ngày
trước. Vào lớp học, tôi bắt đầu nghe những chữ lạ tai: "nguỵ
quân, nguỵ quyền, Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa..." Thầy cô giáo
của tôi ai cũng có vẻ mặt bơ phờ, dáng đi mỏi mệt.
Sau đó không bao lâu, vào một buổi
sáng trước khi tôi và đưá em kế đi học, cha tôi ôm lấy chúng tôi
thật lâu và hôn anh em chúng tôi nhiều lần. Nước mắt cha
thấm ướt áo chúng tôi. Cha tôi khóc. Lần thứ
hai tôi thấy cha tôi khóc. Em tôi ngây thơ hỏi:
- Ba, chúng con ngoan lắm, sao ba lại buồn?
- Ba biết các con của ba ngoan lắm. Nghe lời
mẹ và chăm học nghe các con. Mẹ sẽ cho điểm các con. Ai
ngoan nhiều ba sẽ cho quà nhiều.
Các em tôi nhao nhao:
- Chiều nay con ăn cà-rem.
- Con ăn chôm chôm.
Tôi nhìn ông và rơm rớm nước mắt. Ông hỏi tôi:
- Trưởng nam của ba, ăn gì?
- Con không thích gì cả. Con chỉ muốn ba vui
vẻ thôi.
Ông nhoẻn miệng cười và nói:
- Ờ... thì ba đang vui đây nè, vì ba có ba đứa con
ngoan và học giỏi.
Thế rồi... chúng tôi đến trường.
Trưa hôm đó, anh em tôi đi học về, quà của chúng tôi cha đã để sẵn trong
tủ lạnh. Chúng tôi chờ ông về để ăn. Chờ mãi đến chiều... đến
tối cũng không thấy. Mẹ tôi nói gạt chúng tôi là cha phải trực ban đêm.
Đêm về, tôi thấy mẹ không ngủ mà ngồi khóc. Lúc đó,
tôi còn nhỏ nhưng cũng linh cảm chuyện gì quan trọng lắm đang xảy ra
cho cha, cho gia đình tôi. Em gái út của tôi, khóc tỉ tê đòi cha về
ngủ với nó. Tiếp theo cả nhà cùng khóc vì nhớ cha. Chắc cha tôi
cũng khóc vì nhớ chúng tôi.
Cha tôi đi một ngày,
hai ngày, ba ngày... rồi một tháng, hai tháng, ba tháng... một năm, hai
năm, ba năm... liên tục không về. Cả nhà chúng tôi buồn thảm vì
thiếu cha. Chúng tôi không còn những
tiếng cười dòn tan ngày trước nữa. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng nhận được
thư của cha. Mẹ nói cha ở xa lắm, không về được. Lúc đầu, tôi ngạc
nhiên vì có lần cha nói, máy bay của ông có thể bay tới bất cứ nơi nào
trong nước dù xa xôi cách mấy. Tôi thắc mắc sao lần này cha không lấy máy
bay lái về với chúng tôi, nhưng tôi không dám hỏi mẹ, vì mẹ tôi đang
buồn. Mỗi lần nhắc tới cha là mẹ khóc. Lớn lên một chút nữa, tôi
biết cha tôi đang bị ở tù. Cha tôi hiền lành và vui vẻ lắm, tôi
chưa thấy ông nặng lời với ai. Cha tôi phạm tội nặng
lắm hay sao mà phải ở tù? Mẹ tôi vất vả kiếm
sống. Đồ đạc trong nhà tôi lần lượt ra đi. Mỗi một
món ra đi là mẹ khóc nhớ cha. Mẹ nhắc lại kỷ niệm của mẹ và cha gắn bó với
những vật đó. Mẹ tôi dù là "nghiêm mẫu" đi nữa
vẫn là đàn bà, và vẫn chảy nước mắt nhiều lần. Từ ngày vắng cha,
mẹ tôi ít nghiêm khắc với chúng tôi. Khi mẹ viết thư cho cha, mẹ bắt
chúng tôi cùng viết thư chung với mẹ. Thư của cha gởi về, cái nào
cũng nói là cha khoẻ mạnh. Lần nào ông cũng nhắc nhở tôi
là anh lớn trong nhà, phải giúp mẹ mọi việc lớn nhỏ, các em phải nghe lời mẹ và
tôi. Cha khẳng định lúc nào cũng thương nhớ chúng tôi.
Nhận được thư cha, cả nhà vui vẻ vô cùng, vì biết cha còn sống, tuy rằng sống
xa chúng tôi muôn trùng. Nhưng đêm đó, mẹ tôi ôm lá thư vào giường để
khóc lẻ loi một mình.
Lớn thêm một chút nữa, tôi hiểu vì
sao cha tôi ở tù và ở tù khổ sở như thế nào. Tư trang của mẹ tôi bán
hết thì tới ti vi, tủ lạnh, tủ thờ, bàn, ghế... vĩnh biệt chúng tôi,
mà cha thì vẫn biền biệt ở núi rừng Trung du Miền Bắc. Hè về, mẹ đi
thăm nuôi cha, tôi phải ở nhà trông nom, cơm nước cho hai em, và mưu sinh với
những tấm vé số. Trước nhà, mẹ tôi đặt một cái bàn để bán vé số.
Tôi và đứa em kế thay phiên nhau bán phụ mẹ những lúc không ở trường. Tôi nhớ
tới câu ca dao mà mẹ tôi đã từng hát ru cho em tôi ngủ khi
còn bé mà đau xót và nhớ thương ông vô cùng:
"Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha mất, gót con đen xì."
Ngày xưa, có cha bên cạnh,
tuy rằng cha phải đối diện với lằn tên mũi đạn hằng ngày, nhưng chúng tôi chưa
từng thiếu ăn, thiếu mặc, đói khổ như thế này. Cơm tuy không cao
lương mỹ vị nhưng đủ ăn mà còn có thịt cá ngon lành, áo quần chẳng những
đủ mặc mà còn mặc đẹp. Không khí gia đình chúng tôi vui vẻ, đầm
ấm. Chúng tôi sống hạnh phúc bên nhau. Bây giờ chỉ còn một
mình mẹ bên cạnh, tôi cảm thấy hụt hẫng. Bốn mẹ con tôi thiếu
đi một điểm tựa vững chắc trong đời. Có nhiều lúc tôi thấy cần
vô cùng một người cha bên cạnh để được tâm sự. Nhìn
những đứa trẻ khác có cha bên mình tôi thèm thuồng vô hạn.
Mười năm trôi qua...
Mười năm bị đày ải trong lao tù, cha tôi được
ra về với thân xác còm cõi, gầy đét, đen đúa, tay chân chai cứng. Ngày
xưa, cha tôi đẹp trai và oai phong biết bao nhiêu. Cha là thần tượng của
tôi. Đã có nhiều lần cha hỏi tôi:
- Cục Cưng của ba, lớn lên làm nghề gì nào?
- Con sẽ lái máy bay giống ba vậy.
- Lúc đó, hết chiến tranh rồi. Kiếm nghề
khác làm đi, con.
- Không, con chỉ thích giống ba thôi.
- Ừ, cũng được. Nhưng phải hơn cha mới là nhà có
phúc.
Bây giờ hết chiến tranh rồi,
nhưng tôi không bao giờ được lái máy bay để bảo vệ vòm trời Tổ Quốc
như cha tôi. Tôi đang ngồi bán vé số đây, không biết tuơng lai rồi
ra sao. Trước viễn ảnh tôi bị gọi đi nghĩa vụ quân sự,
và bị đưa đi Campuchia để xâm
lăng nước láng giềng và bỏ thây nới xứ lạ, cha tôi tìm cách đưa
tôi cùng vượt biên với ông. Cha tôi có người cùng quê cần người biết xem
hải đồ và định tọa độ, nên cho cha tôi đi miễn phí. Cha tôi đã nài nĩ chủ
ghe thêm tôi và em trai kế đi cùng. Nhiều lần nằm bờ, núp bụi, lội sình,
lội sông, ém bãi... thất bại hoàn thất bại, lại thêm các trại tị nạn đóng cửa,
cha tôi đành bỏ cuộc, lo đi theo diện H.O. Trong thời gian chờ đợi, cha
lo chuyện kiếm sống, bắt anh em tôi lo việc học hành, bỏ bán vé số. Nhìn
dáng cha ốm yếu, gầy còm đạp chiếc xe cũ kỹ "chạy sô" dạy Anh
Văn tại các tư gia, tôi thật muốn bỏ học để cùng cha mẹ lo cho gia đình.
Cha nhịn ăn, nhịn mặc gom góp tiền "cúng" cho bọn
chính quyền điạ phương để hoãn nghĩa vụ quân sự cho tôi, tôi vô cùng
chua xót. Có những buổi tối về tới nhà, cha uể oải, ngồi vào bàn cơm đạm
bạc, tôi đau lòng. Đã vậy cha còn dạy
thêm cho anh em chúng tôi Anh văn. Tuy thế, tôi chưa thấy cha
tôi lớn tiếng hay nặng lời với ai, lúc nào ông cũng ăn nói hoà nhã, vui vẻ
với mọi người.
Rồi cũng tới những ngày
chúng tôi sắp rời bỏ quê hương xóm làng, bỏ người thân và bạn bè
để đi Mỹ. Tinh thần chúng tôi phấn chấn, tuy nhiên mặt mày cha
mẹ tôi hiện vẻ u sầu. Quê hương này cha tôi đã từng đổ máu để bảo vệ mà
đành phải bỏ lại ra đi. Còn ông bà nội tôi nữa. Ông bà tôi già
lắm rồi, bỏ lại ông bà cũng là một quyết định đau lòng
của cha tôi. Tôi biết cha tôi đã chọn tương lai của chúng tôi
mà đành đoạn bỏ lại quê hương và cha mẹ. Cả tháng trước
khi đi, cha tôi nhiều lần ngồi hằng giờ và nhắc kỷ niệm ngày cha còn bé
với ông bà nội. Cha tôi là người vui vẻ lạc quan là vậy mà ngày ra
phi trường Tân Sơn Nhất, tôi thấy mắt cha tôi đỏ hoe.
Ở nước người, cha là cột
trụ của gia đình. Lúc đầu, ông làm hai việc một lúc: một toàn
thời gian ở một xưởng điện tử và một bán thời gian làm vệ sinh cho một clinic
cuối tuần, để cho chúng tôi vào trường học. Mẹ tôi lãnh hàng may gia
công. Tôi thương cha vô cùng vì một phần ông mỏi mệt và không có
ngày nghỉ ngơi, một phần vì ngày xưa ông là một cấp chỉ huy của
Phi Đoàn, bây giờ làm nhân viên vệ sinh! Nhưng, lúc nào cha cũng vui
vẻ, không có mặc cảm tự ti. Ông khích lệ chúng tôi bằng cách hô
hào "cha con ta thi đua để cùng nhau đứng vững vàng
trên đôi chân của mình ở xã hội mới này." Ông thường
bảo chúng tôi: "Không có nghề hèn, chỉ có người hèn. Mình
không ăn trộm ăn cắp, mình không bán nước, hại dân, đục khoét của
chung... thì không có gì phải xấu hổ hết. Lương tâm là ông tòa công minh
nhất." Mỗi khi tôi gặp khó khăn, trở ngại trong việc học việc
làm, ông là hướng đạo viên dẫn đường chỉ lối cho tôi vượt qua, là cổ động
viên khích lệ cho tôi vươn lên.
Ngay những ngày tháng
vừa đặt chân trên nước Mỹ, anh em chúng tôi được nhà trường và xã hội
Mỹ giang rộng tay đón nhận, đùm bọc. Chúng tôi vừa học vừa
làm để đỡ đần phần nào cho cha mẹ. Chả bù ngày xưa ở VN,
cha con tôi muốn tìm một việc làm mà không ai mướn. Mẹ tôi bị
bắt buộc thôi dạy học khi nộp đơn đi nước ngoài vì "ôm
chân đế quốc, tư tưởng không vững vàng, không thể dạy học trò yêu nước yêu
Xã Hội Chủ Nghĩa được." Còn mấy anh em tôi bị bà hiệu
trưởng Bắc Kỳ 75 buộc thầy cô chủ nhiệm của chúng tôi đánh
giá đạo đức trong học bạ từ hạng tốt xuống trung bình vì
"tội" theo cha mẹ "ôm chân đế quốc." Khi qua Mỹ,
tôi vào ngay Đại Học Cộng Đồng và được hưởng chương trình giúp đỡ cho
sinh viên thuộc gia đình có lợi tức thấp là Financial Aid và Work
Study. Hai em tôi vào trung
học. Anh em chúng tôi quyết tâm vượt lên trong xã hội mới này
nên nỗ lực, chuyên cần học hành. Ngay cuối năm học đầu tiên, hai
em chúng tôi nhận được những lời khen ngợi không ngớt của thầy cô
giáo. Có một câu nhận xét và phê bình của người thầy Mỹ về đứa
em học lớp 12 làm chúng tôi nhớ đời. Đó là câu:
"Em... tiến bộ vượt bực. Gương học tập này đáng để
cho cả chính tôi noi theo." Thầy noi gương trò, nếu trò làm
tốt, nếu trò là gương sáng! Một nhận xét phê phán bình đẳng, trung
thực, không bị chi phối bởi chính trị, bởi lý lịch, bởi cha mẹ làm, con
bị ảnh hưởng lây như ở trường học XHCN VN. Chả trách đất
nước người tiến bộ như thế mà ta tuột hậu là vậy.
Dần dà cuộc sống của
gia đình tôi được ổn định. Cha tôi tìm được một
việc khá hơn. Cha khích lệ mẹ đi học lấy bằng cô giáo nhà trẻ.
Có thì giờ rỗi rãnh, cha tôi tìm gặp lại bạn bè cũ, và tham gia các
công việc trong Cộng Đồng như gây quỹ giúp trẻ mồ côi, thương binh
VNCH còn đau khổ ở trong nước, tham gia những cuộc biểu tình đòi hỏi tự do,
nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Cha tôi ở bên này bờ
Thái Bình Dương mà trái tim ông để lại bên kia bờ. Vào
những ngày lễ hội, cha thường dẫn anh em chúng tôi cùng tham dự. Cha
tôi mong muốn chúng dù tôi ở quê người vẫn không quên nguồn
cội và ao ước một ngày nào đó, khi cha không còn bên cạnh, chúng
tôi sẽ tiếp tục công việc dang dở của thế hệ ông. Ông thường nói với chúng
tôi thế hệ của ông đã không làm tròn trách nhiệm và bổn phận với quốc gia dân
tôc, đã để đất nước lọt vào tay Cộng Sản khiến dân tộc lầm than, mất những tự
do căn bản của con người, đất nước tụt hậu, mất đất, mất biển mà hàng ngàn
năm nay tổ tiên đã đổ xương máu để bảo vệ. Bây giờ gánh nặng nước
non này để lại cho thế hệ cháu con. Thật là một gánh quá sức
nặng! Bởi thế cho nên bây giờ còn hơi thở ngày nào
thì ông còn phải trả nợ cho nước non dân tộc ngày đó theo khả năng
của ông. Cha tôi đã phấn đấu, kiên cường trong bất kỳ hoàn cảnh
nào. Mỗi khi tôi gặp trắc trở trong đời, cha tôi là tấm gương để
tôi noi theo, ngẩng cao đầu mà tiến bước.
Bây giờ thì ông già yếu lắm
rồi, đi phải có gậy chống, và đầu óc không còn minh mẫn nữa,
nhưng cha tôi vẫn là tấm gương sáng để tôi noi theo, vẫn là cột trụ vững
chắc cho tôi dựa. Ông là ngọn Thái Sơn của anh em chúng tôi.
Nhân ngày Father's Day, tôi viết bài này để vinh danh cha tôi,
người cha trọn đời sống vì đất nước, dân tộc, và
gia đình, cũng để nói lên tình yêu thương vô vàn, lòng tôn kính không
cùng của anh em chúng tôi đối với Cha Tôi.
Father's Day 2010
(Viết thay cho con của một Chiến sĩ VNCH-
Trích tập truyện ngắn Ngày Xưa Chưa Xa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét