Điển Tích Văn Học 22:
GÁC ĐẰNG
Đưa duyên nhờ gió GÁC ĐẰNG,
Đành hay con tạo nhắc bằng đồng cân.
(Truyện Trinh Thử)
GÁC ĐẰNG hay GÁC ĐẰNG VƯƠNG tức là ĐẰNG VƯƠNG CÁC 滕王閣, nơi mà Vương Bột 王勃, một trong tứ kiệt đời Sơ Đường, đã viết nên một bài Tự bất hũ, sản sinh ra rất nhiều Thành ngữ còn thông dụng đến hiện nay. Theo như tích sau đây:
Bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC TỰ của Vương Bột được viết bằng chữ Hành
Vương Bột 王勃 (650-676), tự là Tử An 子安, người đất Giáng Châu, Long Môn (tỉnh Sơn Tây ngày nay) cha là Vương Phúc Cơ làm huyện lệnh Châu Hoan Giao Chỉ. Lên sáu tuổi đã nổi tiếng thần đồng, thuộc làu kinh sử. 14 tuổi đoạt khôi nguyên kỳ thi đối sách của triều đình. Năm 16 tuổi trên đường đi thăm cha, hay tin Đô Đốc Diêm Bá Dư trấn nhậm Hồng Châu trùng tu Đằng Vương Các mở cuộc thi thơ văn và khoản đãi tân khách bốn phương. Chủ ý muốn khoe tài con rễ là Ngô Tử Chương, nên đã cho Chương trau chuốt sẵn một bài phú thật hay để ngày hôm đó viết lại. Bột hay tin muộn, thời may có cụ già mách cho Bột rẻ thuyền vào Chương Giang sẽ có gió giúp đưa đến Đằng Vương Các. Bột nghe theo lời, đến đêm quả có gió lớn nổi lên chỉ trong một đêm mà vượt qua 800 dặm đường (có thể là nhờ gió của đêm Trùng Cửu mùng 9 tháng 9). Kịp lúc Đằng Vương Các vừa phát giấy bút chiêu đãi khách làng văn. Thấy Bột chỉ là một thằng bé con, Đô Đốc Diêm Bá Dư không muốn cấp giấy bút, nhưng Bột kiên quyết muốn làm văn. Diêm bèn cho người đứng phía sau lưng Bột, hễ Bột viết được câu nào thì chép lấy dâng đến cho Diêm xem, hễ thấy không xong là tống cổ ra khỏi buổi tiệc ngay. Khi Bột mở đầu bài văn bằng câu: Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ 南昌故郡,洪都新府 (Xưa là quận Nam Xương, nay là phủ Hồng Đô), thì Diêm cười và bảo: Cũng là sáo ngữ của các thầy Đồ Nho mà thôi. Đến câu: Tinh phân Dực Chẩn, Địa tiếp Hành Lư 星分翼軫,地接衡廬 (chỉ địa thế của Đằng Vương Các: Phân chia giữa sao Dực và sao Chẩn, còn đất thì nối tiếp giữa Hành Sơn và Lư Sơn) thì Diêm lặng thinh. Lại đến câu: Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu đẩu chi Khư. Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp 物華天寶,龍光射牛斗之墟;人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻 (Của đẹp báu trời, ánh long quang chiếu sao Ngưu sao Đẩu; Đất linh người giỏi, cao nhân Từ Trĩ hạ giường Trần Phồn) thì Diêm lại tỏ ra vô cùng kinh ngạc. Kịp đến câu: Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc 落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色 (Ráng chiều cò trắng cùng bay, Long lanh thu thủy nước mây một màu) thì ông không còn dằn được cảm xúc, vỗ bàn đứng dậy khen là tuyệt cú! Rồi giấu nhẹm luôn bài phú làm sẵn của con rể không dám trình làng. Vương Bột nổi tiếng luôn từ đấy và bài Tự của Vương Bột cũng được lưu truyền thiên cổ với các câu trở thành Thành Ngữ như:
* Lão Đương Ích Tráng 老當益壯 : Già mà còn mạnh khỏe.
* Cùng Thả Ích Kiên 窮且益堅 : Nghèo mà biết kiên trì phấn đấu.
* Thiên Cao Địa Quýnh 天高地迥 : Trời cao đất rộng.
* Hứng Tận Bi Lai 興盡悲來 : Hết vui tới buồn.
* Quan San Nan Việt 關山難越 : Núi non khó vượt.
* Bình Thủy Tương Phùng 萍水相逢 : Bèo nước gặp nhau .....
Vì tích của Vương Bột, nên trong Tăng Quảng Hiền Văn lại có câu:
Thời lai phong tống Đằng Vương Các 時來風送滕王閣
Có nghĩa :
Khi thời đã đến rồi thì sẽ có gió đưa đến Đằng Vương Các ngay.
Ý của câu trên chỉ khi thời vận tốt đã đến, thì con người sẽ rất dễ dàng mà có cơ hội để phát tích về mặt tiếng tăm hay công danh sự nghiệp. Nhưng khi qua đến Việt Nam ta, thì lại chuyển sang ý chỉ về tình duyên thuận lợi, may mắn, mà gọi là Duyên Đằng, như ...
Trong Truyện Kiều để tả cuộc tình duyên thuận lợi của Hoạn Thư với Thúc Sinh, cụ Nguyễn Du cũng mượn tích nầy:
Duyên Đằng thuận nẽo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc se tơ những ngày.
Ngay cả trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập với sự chủ xướng của vua Lê Thánh Tông cũng mượn từ GÁC ĐẰNG để chỉ dịp may hiếm có, cơ hội thuận lợi cho tình duyên như:
Thương nhĩ, Hồng nhan nguyền khéo lỗi,
Gác Đằng nhờ gió những ai vay!
Hay như hai câu thơ mở đầu cho bài viết nầy trong Truyện Trinh Thử:
Đưa duyên nhờ gió Gác Đằng,
Đành tay con tạo nhắc bằng đồng cân.
... và như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, bài thứ 8 tả lại mối tình giữa Công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử có câu:
Tiên-Dung gặp buổi đi chơi,
Gió đưa Đằng-Các, buồm xuôi Nhị-Hà,
Hay như trong Bích Câu Kỳ Ngộ, tả lại mối tình tiên tục giữa Tú Uyên và Giáng Kiều cũng có câu:
Gác Đằng Vương mấy dặm khơi,
Có duyên đành đã gió trời thổi đưa.
Trong truyện Quan Âm Thị Kính thì đổi từ Gác Đằng thành Gió Đằng, nhưng cũng cùng một ý dùng để chỉ tình duyên:
Gió Đằng kể khéo đưa duyên,
Chàng Lưu dung dủi đến miền Thiên Thai.
Trong bài Văn Tế Nguyễn Thị Tồn, viết để tế vợ mình, cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa đã diễn cái ý của tích nầy bằng bốn chữ GIÓ THẦN ĐƯA GÁC với ý nghĩa giống như nghĩa gốc lúc ban đầu là:
Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần sấm đất tan bia,
Bay kịp chúng, nhảy kịp người, mới đặng hưởng Gió Thần Đưa Gác.
Ta thấy, khi được sử dụng rộng rãi trong dân gian, nhất là khi đã qua nhiều thời đại hay địa phương, một số Thành Ngữ Điển Tích đã tự động thay đổi ý nghĩa và dụng ý của lúc ban đầu, như điển tích Gác Đằng mà ta vừa biết ở trên.
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét