Thứ Bảy, 5 tháng 8, 2023

Bến Xuân & Cảm đề (Nguyễn Lý Tuỏng)

                            BẾN XUÂN

Bọn con Thu, con Huê, thằng Quảng, thằng Báu ở trong  khu vườn bà Đỏ đang chơi “ù mọi” trước bờ sông thì con Hoài  bỗng đâu chạy đến về phe với bọn con nít vườn nhà bà Cả,  làm cho phe con Thu yếu thế hẳn đi. Kiểm đứng ở ngoài nhìn  vào, không nhập cuộc. Chàng để ý mỗi lần con Hoài “ù ù”  chạy qua lằn ranh thì không một đứa nào bắt được nó. Hoài  chạy đến đâu, cả bọn đều dạt ra. Hoài vừa lanh lẹ vừa có sức,  có hơi ù thật dài, tay của nó đụng phải đứa nào thì đứa đó bị loại ra khỏi cuộc chơi ngay lập tức. 

“Ù mọi” là trò chơi của con nít trong xóm, mỗi bên mấy  đứa, chia hai phe. Ở giữa sân vạch một lằn ranh, một đứa  phe bên này chạy qua bên kia, miệng kêu “ù ù” liên tục. Nếu  ngừng để lấy tiếp hơi thứ hai thì thua cuộc và bị loại gọi là  “mọi chết”. Lúc đó phải có đứa thứ hai chạy qua tiếp sức.  “Mọi” qua sông, vớ được đứa nào thì đứa đó “chết”, bị loại.  Phe bên kia phải làm sao bắt được “mọi” và giữ lại trên phần  đất của mình thì mới thắng cuộc. Nếu bắt không được mà tay  hay thân mình đã chạm trúng “mọi” rồi thì cả bọn đó đều bị “chết” và phe đó thua. 

Giữa vườn nhà bà Đỏ và bà Cả có một con đường thẳng  ra sông. Phía trên đường rầy xe lửa, có một xóm chuyên nuôi  trâu để bán thịt. Cứ mỗi buổi sáng hay chiều, người ta dẫn  trâu xuống tắm ở bờ sông. Trâu đi thành từng đàn, hàng chục  con, da đen láng như mực Tàu, thỉnh thoảng cũng có con có  lông trắng gọi là trâu bạc. Lúc nhỏ, Kiểm thường nghe người  ta nói “sừng trâu bạc, gạc trâu đen” mà không hiểu. Thực ra  sừng và gạc chỉ là một thứ mà thôi, gạc nai tức là cái sừng của  con nai. Chỗ trâu thường xuống tắm gọi là Bến Trâu, cạnh đó  

có một khu đất trống trên bãi sông là nơi mỗi đêm bọn con nít  ở xóm nhà bà Đỏ thường ra chơi “ù mọi” tranh thắng với bọn  con nít bên xóm bà Cả. 

Kiểm mới đến ở trong khu vườn bà Đỏ nên chỉ quen mặt,  biết tên bọn trong xóm như con Thu, con Huê, thằng Báu,  thằng Quảng mà không biết tên, biết mặt bọn kia. Thời chiến  tranh, trước 1954, dân quê vì mất an ninh nên đã kéo nhau về 

thành phố, thuê đất trong vườn bà Đỏ làm nhà để ở. Họ làm  đủ nghề để sống như giặt quần áo, thợ mộc, thợ nề, đi bán  bún bò, trứng lộn, chè, bánh v.v... Kiểm để ý đến Hoài vì nó là  đứa khá nhất trong bọn. Không một đứa nào trong đám con  Thu có thể thắng được Hoài, kể cả con trai là thằng Báu, thằng  Quảng. 

Kiểm đứng ở ngoài nói vào: 

- Bên phe con Thu có thằng Báu yếu quá, để tao vào thay  thế cho. 

Không thấy bên kia có ý kiến gì, Kiểm gọi thằng Báu ra và  chàng tự động nhảy vào cuộc. Kiểm ở phía sau, đợi khi Hoài  chạy sâu vào giữa trận liền nhảy ra, đưa chân cản cho Hoài  ngã té xuống rồi xông vào ôm ngang, đè lên người, không cho  nó cựa quậy. Cả bọn tức tốc xúm nhau lại, ôm chặt lấy Hoài  khiến cho nó không còn vùng vẫy được nữa. 

Hoài chơi rất hăng nên người nóng bừng, mồ hôi vã ra  ướt cả áo. Hoài vào khoảng mười tuổi, đang học lớp nhì Tiểu  Học (tương đương lớp 4) nhưng Kiểm thì đã học đến năm thứ hai, thứ ba bậc Trung Học (tương đương lớp 7 lớp 8) và đã 13,  14 tuổi rồi. Chàng thấy bọn con nít trong xóm mình thua luôn  nên nhảy vào bênh. Kiểm không quen Hoài vì nó mới về ở xóm bà Cả ít lâu nay thôi. Sở dĩ chàng biết tên, biết mặt nó vì  mỗi đêm, khi bọn trong xóm bị thua, kéo nhau trở về, thường  nhắc đến Hoài và bàn tính với nhau phải có cách gì trị nó mới  được. 

Bị thua luôn mấy lần, Hoài giận: 

- Không thèm chơi với anh Kiểm nữa...  

Nói xong, nó chạy thẳng một mạch về nhà bà Cả. Bọn  con Thu vỗ tay reo mừng chiến thắng, còn bọn kia cũng giải  tán luôn. Kiểm ngạc nhiên thấy con Hoài gọi ngay tên mình  mặc dù chưa quen. Tuy đã 13, 14 tuổi nhưng Kiểm vẫn không 

có bạn cùng trang cùng lứa nên hay đi chơi với đám trẻ con.  Chàng ôm con Hoài và nằm đè lên người nó mà không hề có một ý nghĩ gì gọi là bất chính hết. Bọn con nít vui đùa với  nhau rất tự nhiên. 

Trong xóm của Kiểm, có con Thu khá xinh, năm đó Thu  đã học lớp nhất Tiểu Học (lớp 5), cha chết, mẹ lấy một người  lính Pháp có một đứa con trai. Thu nhờ đó mà có ăn có mặc,  lại được học trường Pháp. Thu thường mặc đồng phục trường  Tây, áo sơ mi trắng, váy đầm màu xanh trông rất xinh. Thu  chơi thân với thằng Quảng trong xóm. Hôm mẹ Thu dời nhà  về khu chợ Bến Ngự, bọn trong xóm đưa tiễn Thu đi, Kiểm  cũng theo bọn đó. Thằng Quảng có lồng chim chích chòe,  mang tặng Thu. Thu cảm động rươm rướm nước mắt. Cuối  tuần sau, nghỉ học, Thu qua chơi, gặp Kiểm, liền khoe với  chàng: 

- Anh Kiểm ơi! Chim em có lông rồi...  

Kiểm bật cười làm cho Thu e thẹn, từ đó không thấy Thu  qua chơi nữa... Thu đã biết mình lỡ lời... Mỗi lần kể lại chuyện  đó cho bọn con trai, Kiểm không nhịn được cười. 

Từ ngày gia đình Thu dọn đi, Kiểm không thấy bọn con  nít trong xóm chơi “ù mọi” nữa. Một hôm đi học về, ngang  qua nhà bà Cả, Kiểm nhìn vào trong vườn thấy Hoài lăng  xăng xách nước tưới mấy chậu hoa trước sân. Thấy Kiểm,  Hoài bỗng ngừng tay nhìn ra mỉm cười không nói gì. Hình  ảnh của Hoài lại rộn lên trong lòng Kiểm, chàng tự trách phải  chi hôm đó mình đừng về phe bọn con Thu thì Hoài đã không  giận mà bỏ về. 

Chiều thứ Năm sau đó, Kiểm được nghỉ học bèn mang  quần áo ra sông định tắm giặt luôn nhưng thấy trên bến người  đông quá nên chàng bèn ngồi đợi. Hoài ở bên trong vườn bà  Cả chạy ra cửa gọi: 

- Anh Kiểm...  

Rồi đứng phía bên trong cổng chính nhìn ra, chẳng nói  gì thêm... Thấy Hoài ở đó, Kiểm mạnh dạn đến gần hỏi thăm: - Hoài ở trong này à? Hoài ở với ai trong đó? 

- Hoài ở một mình. 

- Cha mẹ Hoài đâu? 

- Ở chỗ khác.

- Thế ai nuôi Hoài? 

- Bà Cả. 

- Hoài là gì của bà? 

- Cháu. 

- Vậy à? 

Kiểm nói xong rồi để ý quan sát. Bà Cả không cho ai thuê  đất làm nhà trong vườn như bên bà Đỏ, tất cả nhà cửa, cơ ngơi  đó là của riêng bà. Kiểm nghe nói, chồng bà chết sớm, chỉ có  một đứa con gái, học trường Pháp tại Đà Lạt. Bà rất giàu và là  một trong những nhà kinh doanh vật liệu xây dựng và thầu  xây cất lớn nhất miền Trung lúc đó. Nhà có xe hơi, có tài xế riêng, có thư ký, quản lý... để trông coi công việc làm ăn cho  bà. Trong nhà không có trẻ con, ngoại trừ Hoài. Bọn con nít  xóm bà Cả đều ở các nhà lân cận bên ngoài khu vườn. 

Bà Cả thường ở trong nhà, ít khi xuất hiện, thỉnh thoảng  đi dạo trong vườn phía trước nhưng không thường xuyên  lắm. Bà thường tiếp khách ở nhà trên, đó là một biệt thự lầu,  xây kiểu Pháp, mái cao và nhọn để mùa Đông khỏi bị tuyết  phủ. Trong nhà trưng bày đồ đạc quý giá làm bằng gỗ quý,  những cổ vật trị giá bạc triệu như ngà voi, đồ sành sứ, những  bức bình phong lá ngọc cành vàng...  

Hoài ở nhà dưới, khu dành cho thư ký, quản lý và nhà  bếp. Mỗi buổi tối, khi đèn trên phòng riêng của bà đã tắt thì  Hoài mới dám chui hàng rào ra ngoài chơi với bọn trẻ lối xóm.  Cũng may mà bà thường đi ngủ sớm và hay dậy trễ. Mỗi ngày  đi học về, Hoài lo săn sóc cây cảnh, quét nhà, phụ giúp đầu  bếp bưng dọn thức ăn lên nhà trên, mang nước nóng cho bà  rửa mặt buổi sáng khi thức dậy hay rửa chân buổi tối trước  khi đi ngủ. Tuy được gọi là cháu nhưng Hoài làm việc chẳng  khác nào một người đầy tớ trong nhà. Dù sao thì Hoài cũng có  chỗ ăn, chỗ ở, được học hành, có áo quần lành lặn khỏi phải  đói rách như những đứa trẻ khác. Gia đình Kiểm ở tỉnh xa,  một mình vào Huế đi học, trọ nhà người ta ăn cơm tháng, đôi  khi chàng cũng ước mơ được chỗ ở tốt như Hoài. 

Là chủ nhân, thừa hưởng một cơ nghiệp lớn do chồng  để lại, thường hay tiếp xúc với những người có thế lực trong  chính quyền hay trong giới làm ăn nên bà Cả rất nghiêm. Bà là  người có học và nghe đâu cũng xuất thân từ con nhà quan nên 

tác phong có vẻ đạo mạo, uy nghi, nói năng chững chạc, nhã  nhặn nhưng kiêu kỳ. Bà phục sức rất sang trọng bằng những  thứ hàng vải đắt tiền nhưng không lòe loẹt. Mỗi khi gặp bà,  Hoài không dám nhìn thẳng mặt, chỉ biết cúi đầu vâng dạ. 

Từ ngày làm quen với Hoài, Kiểm chưa bao giờ được  bước chân vào bên trong sân nhà bà Cả nhưng chàng vẫn để ý tìm hiểu đủ mọi thứ chẳng hạn vườn nhà đó rộng hẹp bao  nhiêu, trồng những thứ cây hoa gì, có bao nhiêu dãy nhà, bao  nhiêu người ở, các thứ vật liệu như cây, gỗ, sắt thép, xi măng,  đá sỏi, cát... chàng đều quan tâm... Chàng thường gợi chuyện  để ông Cảnh, chủ nhà Kiểm đang ở, nói về bà Cả, từ đó tìm  hiểu về người chồng của bà đã chết, về những người đàn ông  có quan hệ làm ăn với bà được xem như người yêu không  chính thức của bà... Đối tượng cuối cùng mà Kiểm nhắm đến  là tìm hiểu lý lịch của Hoài. 

Một hôm, ông Cảnh có việc đến nhà bà Cả mua bán vật  liệu, Kiểm lợi dụng cơ hội đó xin đi theo để ghi chép sổ sách,  tính toán tiền bạc cho ông vì ông tuy có tay nghề cao nhưng  chữ nghĩa không biết nên thường nhờ Kiểm giúp. Ông Cảnh  quen nhiều thợ rừng làm nghề gỗ ở vùng Lăng Cô thuộc quận  Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên nên mỗi khi có gỗ về, thường đến  gặp thầy thư ký hay quản lý kế toán của bà Cả để bán gỗ...  Kiểm để ý quan sát cách bố trí nhà cửa, cây cảnh trong vườn,  cơ sở làm ăn cũng như nhân sự làm việc trong nhà bà Cả.  Hôm đó không có Hoài ở nhà nhưng Kiểm cũng đoán được  chỗ ở của Hoài gần khu nhà bếp và nhà kho. Tình cờ bà Cả xuất hiện, Kiểm thấy bà có vẻ cao sang, ít nói và thường dùng  tay để chỉ bảo người làm. Việc quan trọng lắm bà mới trực  tiếp giải quyết, thông thường hai thầy quản lý và thư ký thay  mặt bà trả lời cho khách. Khi ra về, ông Cảnh tiết lộ cho Kiểm  đời tư của bà: Nguyên chồng bà xuất thân từ một gia đình  giàu có, trí thức nhưng giữa hai vợ chồng có chuyện lục đục  vì bà là một người đàn bà thích tổ chức, chỉ huy, thích cướp  quyền của chồng, dần dần mọi việc buôn bán làm ăn đều do  bà quyết định hết. Bà ham làm giàu nên luôn bận rộn tính  toán, sự nghiệp hiện nay phần lớn là do bàn tay của bà làm  nên. Đàn bà mà tính đàn ông nên không quan tâm gì đến mặt  tình cảm và tỏ ra lạnh nhạt với chồng, do đó ông chồng cảm thấy cô đơn, buồn chán rồi đâm ra nghiện rượu... Một hôm  ông bị lên cơn sốt và bác sĩ cho biết ông bị bệnh lao phổi, từ đó, bà tìm cách tránh xa ông. Đến thời kỳ bệnh nặng, ông phải  vào điều trị tại bệnh viện bài lao, mọi việc săn sóc cho ông đều  do một người đầy tớ gái đảm trách hết. Bà sợ lây bệnh nên  không hề bén mãng đến và cũng tránh xa bệnh viện. May còn  có một người thư ký trung thành để giúp ông về tiền bạc, giao  dịch thư từ với bên ngoài...  

Kiểm có hỏi về lý lịch của Hoài, cha mẹ là ai? Ông Cảnh  cho biết thiên hạ đồn rằng Hoài là con riêng của ông Cả...  Nghe nói mẹ của Hoài tuy xuất thân nhà nghèo nhưng nhan  sắc không kém ai, vì thế ông Cả mới mê cô ấy. 

Kiểm thắc mắc, nếu quả thật Hoài là con riêng của ông Cả thì tại sao thân phận của Hoài ở trong nhà này chẳng khác gì  một con ở, một đứa đầy tớ. Bên dòng họ của ông Cả, anh em  đều là người trí thức, giàu có, mỗi người một cơ nghiệp lớn,  làm ăn ngang ngửa với thiên hạ. Bà Cả lại chỉ có một đứa con  gái duy nhất, bao nhiêu tài sản đều dành cho cô ấy, còn Hoài  thì sao? Không lẽ bên nội của Hoài không có ai lên tiếng bênh  vực cho nàng? Có người khác cho Kiểm biết Hoài là con nuôi,  bà Cả xin từ Viện Dục Anh Kim Long đem về mới mấy năm  gần đây mà thôi. Thân phận con nuôi là con không cha không  mẹ, không có ai thừa nhận mới đem cho bà Sơ ở Viện Dục Anh  nuôi. Chẳng lẽ con riêng của ông Cả mà phải đem đi cho các  Sơ hay sao? Tiền của nhà đó thiếu gì? Tại sao không để cho  mẹ nó nuôi hay thuê người khác nuôi riêng cũng được, cần gì  phải cho vào Viện Mồ Côi! 

* * 

Hoài mỗi ngày một lớn, mười một... rồi mười hai tuổi...  trông xinh đẹp hẳn lên. Hai năm Kiểm trọ nhà ông Cảnh, mỗi  buổi chiều đi học về chàng thường ra ngồi bờ sông nhìn vào  nhà bà Cả mong sao thấy được gương mặt của Hoài. Thỉnh  thoảng Hoài cũng đứng ở trong cổng chính nhìn ra mỉm cười  với Kiểm... Hoài đang tuổi mới lớn lên, sống trong môi trường  toàn người lớn, không có trẻ con cùng lứa tuổi, không có bạn  bè ngoại trừ bạn học ở trường. Hoài cũng biết thân, biết phận,  biết hoàn cảnh của mình chỉ là con nuôi nên không dám dẫn  

bạn về nhà chơi. Kỷ niệm một đêm chơi “ù mọi” với Kiểm đã  in sâu vào trong con tim của Hoài. Những khi tưới hoa trước  sân, thấy không có ai nhòm ngó mình, Hoài thường ra đứng  trước cổng hy vọng gặp Kiểm đang đợi mình ở đó... Hoài chỉ nhìn ra mà không dám nói gì. Kiểm cũng vậy, mỗi đêm ôm  sách ra cột đèn trước nhà bà Cả ngồi học hay mỗi chiều Thứ Năm, Thứ Bảy, nhất là vào mùa Hè, ra bến tắm, ngồi đợi ở bờ sông nhìn vào, mong sao có Hoài thấp thoáng bên trong... 

Thế rồi vì hoàn cảnh, hiệp định Genève 20-7-1954 ra đời,  hòa bình được tái lập tại Đông Dương, Việt Minh rút về miền  Bắc, miền Nam trao cho chính quyền của Thủ Tướng Ngô  Đình Diệm, gia đình ông Cảnh quyết định trở về quê ở Phú  Vang, Phú Thứ... Kiểm phải dọn nhà đi ở chỗ khác. Năm đó,  chàng đang dọn thi Trung Học nên không có thì giờ trở lại  Bến Trâu ngồi đợi giờ phút Hoài xuất hiện như trước nữa.  Chuyện học hành đã lôi kéo chàng đi theo dòng thời gian. Ba  năm sau ngày xa Hoài, Kiểm đã học xong chương trình Tú Tài  và bước chân vào năm thứ Nhất Đại Học thì Hoài cũng đã thi  đậu Trung Học và vào được lớp Đệ Tam (lớp 10) trường Đồng  Khánh. Hoài bây giờ trổ sắc thêm duyên, mỗi lần gặp lại nàng  Kiểm càng thấy nhớ, thấy thương. Hoài bây giờ đã mười sáu  tuổi rồi nhưng Kiểm vẫn chưa dám viết thư cho nàng vì sợ làm cho nàng xao lãng việc học hành. Đôi lúc Kiểm có ý nghĩ nếu mình không ngỏ ý trước, lỡ có anh chàng nào đến với  nàng sớm hơn mà nàng nhận lời thì đau khổ cho mình biết  mấy! 

Tuy không được ở gần Hoài như trước nhưng Kiểm cũng  tìm đủ mọi cách theo dõi tình hình, nhờ người này, người  khác tìm hiểu xem Hoài đã có nơi nào chưa? Một hôm Kiểm đi  ngang qua nhà bà Cả, thấy có đám cưới thật linh đình, Kiểm  nghĩ dại, không lẽ đây là đám cưới của Hoài nhưng không  phải, đó là đám cưới của con gái bà Cả, mới 19 tuổi, đang học  ở Đà Lạt, vừa đậu Tú Tài II chương trình Pháp thì được gả cho  một ông chồng giàu có, thế lực ở trong chính quyền Sài Gòn.  Tuổi của tân lang xấp xỉ tuổi của bà Cả, một cuộc hôn nhân  môn đăng hộ đối theo sự quyết định của dòng họ chứ hoàn  toàn không có vấn đề tình cảm, yêu đương gì hết. Hoàn cảnh  các cô gái con nhà giàu ở Huế vẫn thường có những cuộc hôn nhân cưỡng ép như thế chỉ vì bốn chữ “môn đăng hộ đối” mà  thôi. 

Sau đám cưới đó được ít lâu lại đến đám tang bà Cả. Bà  chết rất trẻ, mới ngoài bốn mươi với một chứng bệnh nan y.  Đám tang bà Cả cũng to lớn không kém gì đám cưới con của  bà trước đây, chỉ khác một điều là đám cưới thì nhiều hoa,  nhiều pháo, nhiều dù lọng, nhiều quần the, áo gấm... , còn  đám tang thì nhiều hoa cườm, liễn đối phúng điếu, nhiều  khăn tang, nhiều người bận áo quần đen đi theo quan tài...  

Sau khi bà Cả chết được một năm thì một biến cố chính  trị to lớn xảy ra... cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 tại Sài Gòn  đã ảnh hưởng đến những nhà giàu có, thế lực ở Huế. Phần lớn  bị bắt, bị tịch thu tài sản, bị buộc tội là cơ sở kinh tài của đảng  Cần Lao... Nhiều người trong dòng họ của ông Cả, bà Cả phải  bỏ nhà cửa, cơ sở làm ăn ở Huế để chạy vào Sài Gòn lánh nạn  hoặc làm lại cuộc đời, tạo dựng cơ sở mới. Nhân cơ hội đó,  Hoài cũng dọn đi ở chỗ khác để thay đổi không khí vì nàng đã  chán ngấy cái khung cảnh ngột ngạt, cửa đóng then cài, đầy  tử khí tại nhà bà Cả. 

Hoài muốn thay đổi không khí để trút bỏ cái mặc cảm  mình là con nuôi, con rơi, con không cha, không mẹ, phải ăn  nhờ ở đậu, phải nương tựa vào kẻ khác. Hoài cũng chán cái  không khí phân biệt đối xử của họ hàng và muốn từ chối tất  cả mọi quyền lợi đáng lý ra nàng phải được hưởng từ khi mới  sinh, nếu quả thật nàng là con riêng của ông Cả theo như lời  người ta nói nhưng từ khi lớn lên cho đến ngày hôm nay, chưa  bao giờ nàng được họ hàng bên ông Cả chính thức xác nhận  ông là cha ruột của nàng. Trên giấy khai sinh mà nàng đã nộp  cho trường khi đi học chỉ ghi tên mẹ mà không có tên cha. Mẹ nàng là người họ Nguyễn thì nàng cũng mang họ Nguyễn. 

Từ ngày rời Viện Mồ Côi để về ở với bà Cả, chưa bao giờ mẹ nàng đến thăm nàng cho đến ngày bà Cả mất, mẹ nàng  mới xuất hiện để gặp lại nàng. Hôm đó mẹ nàng đến gặp thầy  quản lý và một người lớn tuổi bên họ nhà chồng bà Cả, trao  đổi với nhau vài ba điều gì đó... rồi Hoài thấy người ta trao  cho bà một khăn tang để chít lên đầu khi đưa đám bà Cả. Bà  cũng đã gặp riêng và hỏi Hoài: 

- Con có biết mẹ không?

- Biết. 

- Con có nhớ mẹ không? 

- Con nhớ mẹ. 

Thế rồi cả hai mẹ con ôm nhau khóc. 

Hoài còn nhớ, khi còn nhỏ mẹ Hoài và Hoài sống ở Cô  Nhi Viện Dục Anh (Kim Long) Huế cho đến năm Hoài lên 3  tuổi thì mẹ đi lấy chồng và năm Hoài 8 tuổi thì một hôm bà  Cả cho người đến Cô Nhi Viện đem Hoài về nhà bà và Hoài  tự hiểu là mình đã được các Sơ cho về làm con nuôi của bà Cả,  rồi sau đó Hoài cũng nghe người ta xì xào bàn tán Hoài là con  riêng của ông Cả với mẹ Hoài. Từ ngày đó, Hoài không bao  giờ gặp lại mẹ cho đến khi bà Cả qua đời. 

Mẹ Hoài đi lấy chồng, một người lính lái xe trong quân  đội Việt Nam Cộng Hòa, sinh được bốn cậu con trai rồi chồng  chết, nhà nghèo không đủ nuôi con nên Hoài phải vừa học  vừa làm để giúp mẹ, giúp em. 

* * 

Sau khi học hết chương trình Tú Tài II, Hoài thay đổi địa  chỉ mấy lần, cuối cùng dọn đến một biệt thự tương đối cổ kính  nằm trong một bức vườn vùng ngoại ô thành phố Huế, với  đầy đủ tiện nghi. Sau biến cố 1/11/1963, chủ nhân ngôi nhà  này đã chạy vô Sài Gòn, con cháu cũng không còn ai nên để trống cho các Sơ mở vườn trẻ... Kiểm phải mất công tìm tòi hết  nơi này đến nơi khác, cuối cùng mới gặp được Hoài tại đây.  Kiểm không bao giờ quên được, vào một buổi chiều mờ tối,  trời mưa gió, với không khí lạnh lẽo đầu tháng Mười, chàng  đã đến gõ cửa phòng Hoài. Căn phòng chỉ khép hờ, cửa không  khóa, Kiểm đã mạnh dạn bước vào...  

Những năm sau biến cố 1963, các phong trào tranh đấu  trong sinh viên Đại Học tại miền Nam nhất là Huế, Sài Gòn  càng ngày càng tỏ ra nguy hiểm, quá khích, vô kỷ luật đi đến  bãi khóa, đình công, bãi thị, gây trở ngại cho việc học hành  và tạo xáo trộn trong mọi sinh hoạt xã hội. Cộng Sản và các  tổ chức chính trị đều nhảy vào lợi dụng khối thanh niên, học  sinh, sinh viên để hướng họ vào kế hoạch của mình. Kiểm  không đồng ý với các hoạt động bạo động, quá khích của sinh  viên như tự động đi bắt người, đốt phá phòng thông tin Hoa Kỳ ở Huế, đốt nhà gây thương vong cho dân di cư tại hai làng  Thanh Bồ, Đức Lợi Đà Nẵng, gây chia rẽ tôn giáo, đập phá các  cơ sở công, tư, phổ biến tài liệu chống Mỹ, chống chiến tranh,  tuyên truyền cổ võ cho Cộng Sản... Vì thế chàng đã cùng bạn  bè, những người có lập trường Quốc Gia, chống lại các hoạt  động của nhóm sinh viên thiên Tả này. Qua bạn bè trong giới  học sinh, sinh viên, Hoài biết các hoạt động của Kiểm nên  nàng rất lo lắng, sợ có bề gì nguy hiểm cho chàng. 

Kiểm biết tại Cô Nhi Viện Dục Anh có một cô gái, cha là  sĩ quan Nhật, mẹ là người Việt Nam. Sau khi Nhật đầu hàng,  viên sĩ quan đó đã mổ bụng tự tử trong lúc người vợ đang có  thai. Nàng đã nhẫn nhục sống cho đến khi sinh và vì không  biết lấy gì nuôi con giữa năm đói 1945 nên đã đem đứa con  gái xinh đẹp kia gởi cho các Sơ nuôi. Những ngày còn trong  Cô Nhi Viện, Hoài và cô gái lai Nhật đó rất thân thiết với nhau  như hai chị em ruột. Hoài cũng có nét giống như gái Nhật,  mũi cao, da trắng, tóc mây rất dày, nếu không biết rõ nguồn  gốc của Hoài thì người ta cũng có thể nghĩ rằng nàng là một  cô gái lai Nhật. 

Những biến cố chính trị xảy ra liên tục tại miền Nam  từ sau 1963 đã làm cho Kiểm rất bận rộn ngày đêm để đối  phó với tình hình. Sau Tết Mậu Thân 1968, Kiểm hoàn toàn  mất liên lạc với Hoài. Chàng hỏi thăm những người quen và  không một ai biết được bây giờ Hoài đang ở đâu. 

Từ ngày gặp Hoài lần cuối cùng tại Huế đến nay, phút  chốc mà đã hơn hai năm qua. Hai năm không phải là khoảng  thời gian dài đối với một đời người nhưng với Kiểm, chỉ trong  hai năm đó, bao nhiêu biến cố xảy ra và cuộc đời của Hoài  cũng đã thay đổi không kém. Từ Huế, nàng đã vào Nha Trang,  Đà Lạt, Sài Gòn và cuối cùng nàng đã quyết định đi ra ngoại  quốc và thề sẽ không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Không một  ai trong gia đình, kể cả mẹ và các em hiểu được lý do tại sao? 

Khi nghe tin đó, Kiểm rất bàng hoàng đau xót. Chàng tự hỏi: “Liệu Hoài có thực sự tìm được hạnh phúc trong cuộc  sống mới hay không?”. Trong bao nhiêu năm, Kiểm không  tìm được câu giải đáp. 

Sau khi Hoài đi xa, mẹ nàng vì thương nhớ con nên mỗi  ngày một hao gầy, không ăn ngủ được, nỗi đau vật chất lẫn tinh thần càng dày vò... rồi bà bỗng trở bệnh nặng... Hoài là  con gái duy nhất, đứa con lớn, hiếu thảo, hy sinh, gương mẫu  nhất trong nhà, ngay từ khi mới sinh đã không thấy mặt cha,  rồi phải xa mẹ để sống một mình trong Viện Mồ Côi, khi lớn  lên, không biết cha mẹ là ai, phải khuất thân làm tôi tớ người  khác, sống nhẫn nhục trong cảnh cô đơn, vất vả, chịu khó học  hành, làm lụng để vươn lên. Bao nhiêu năm xa mẹ, xa em...  đến khi khôn lớn, có điều kiện lui tới với gia đình thì lại bỏ đi  xa... Mẹ ở nhà lỡ khi ốm đau bệnh hoạn, giây phút cuối của  cuộc đời, làm sao gặp lại con! 

Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, mẹ đã viết  cho Hoài một bức thư nhưng chưa kịp gởi thì mẹ đã ra người  thiên cổ rồi! 

* * 

Hai chục năm sau khi mẹ mất, một sự tình cờ Hoài đã  nhận được một bức thư từ Việt Nam gởi ra ngoại quốc, do một  người quen vượt biên mang theo: 

Long Khánh ngày... tháng... năm ...  

Thăm con thân mến, 

Trước khi từ giả cuộc đời để về với ông bà tổ tiên, mẹ hãy còn  một vài điều chưa nói cho con biết, nên mặc dù đang bệnh nặng, mẹ vẫn cố gắng mỗi ngày viết một vài dòng để gởi cho con. Vì mẹ sợ rằng, sau này khi mẹ không còn nữa thì chẳng có ai biết để nhắn lại  với con. 

Hoài ơi! 

Con đi xa rồi, mẹ buồn vô hạn. Đời mẹ chỉ có một mình con là  con gái mà trong tuổi trẻ, vì hoàn cảnh bất hạnh, mẹ đã không được  sống gần con, mẹ không được nuôi con khôn lớn cho tròn bổn phận  làm mẹ như lòng mẹ hằng mong ước. Đến khi có điều kiện để mẹ con gần gũi thì con lại bỏ đi xa. Vì hạnh phúc của cá nhân con mà  mẹ và các em con phải đành lòng để con ra đi, nương thân nơi xứ lạ quê người, lỡ khi đau ốm, buồn lo biết tâm sự cùng ai, biết cậy nhờ ai giúp đỡ... Mẹ biết con đã có chồng, có con nhưng mẹ vẫn không  yên tâm khi nghĩ đến con xa cách, vì thế ngày đêm mẹ chỉ biết cầu  nguyện cho con được bình yên sức khỏe, làm ăn phát đạt và được  hạnh phúc bên chồng, bên con. 

Cho đến bây giờ, mẹ chưa nói cho con biết cha con là ai? Tại sao con lớn lên không có cha, có mẹ? Tại sao con phải sống trong trại mồ côi? Tại sao con lại về làm con nuôi nhà bà Cả? Chắc con cũng đã nghe người ta nói về nguồn gốc của con, về người cha của con... nhưng nếu mẹ không chính thức nói ra thì làm  sao con có thể tin vào lời thiên hạ được, vì thế mẹ phải có bổn phận  nói rõ điều đó cho con biết trước khi mẹ nhắm mắt lìa trần. Vì chỉ có mẹ mới là nhân chứng giá trị nhất, có thẩm quyền nhất để nói về nguồn gốc của con, không một tiếng nói nào có giá trị hơn lời của  mẹ được. Năm đó, mẹ vào khoảng 17, 18 tuổi, sống ở nhà quê với ông bà  ngoại. Nơi đó là vùng Việt Minh chiếm đóng, có lực lượng kháng  chiến chống Pháp hoạt động nên lính Pháp và Bắc Phi thường mở những cuộc hành quân vào vùng này. Chúng thường đốt nhà, giết  người, cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái... , vì thế bà ngoại mới  cho mẹ lên Huế để tránh mọi sự nguy hiểm. Tuy là con gái nhà quê  nhưng mẹ cũng được đi học, biết đọc, biết viết và có nhan sắc, tư cách hơn người. Mẹ đến xin làm người giúp việc trong nhà ông bà  Cả, một người giàu có, danh giá vào bậc nhất tại địa phương. Mỗi  ngày mẹ phải đi chợ, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, săn sóc vườn tược.  Vì mẹ có nhan sắc nên sợ người ta để ý, do đó mẹ phải cải trang mặt  mày lem luốc, ăn mặc lùi xùi để cho xứng hợp với địa vị “người đầy  tớ gái” trong nhà. Một hôm bà ngoại lên Huế thăm mẹ, khi trở về thì bị Việt Minh  bắt đem đi treo cổ trên cây cao giữa cánh đồng vì nghi ngoại liên lạc  thông báo tin tức cho giặc Pháp. Hơn một năm sau mẹ mới biết tin  đó. Mẹ rất đau khổ nhưng không dám về thăm nhà và chỉ âm thầm  chịu đựng một mình. Ông Cả xuất thân từ một gia đình giàu có, trí thức, anh em đều  là những người danh tiếng, có người em trai là Bác Sĩ ở bên Pháp,  và hai người em gái đều giàu có... Bà Cả là người xuất thân trong  gia đình quan lại và trí thức. Bà giúp chồng làm ăn, giàu có như con  thấy nhưng bà có tính đàn ông, thích chỉ huy kẻ khác và hay lấn át  quyền của chồng. Bà chỉ ham làm giàu mà không để ý săn sóc chồng,  nhất là mặt tình cảm, vì thế ông Cả rất buồn. Ông thường hay đi săn  bắn và có lần gặp cơn mưa bão, bị cảm lạnh, sau đó bị đau nặng lâu  ngày thành bệnh lao phổi, bác sĩ buộc phải vào bệnh viện điều trị. Từ đó, bà Cả vì sợ lây bệnh ho lao, nên trao việc săn sóc, liên lạc với ông  Cả cho thầy thư ký và mẹ. Mỗi ngày mẹ phải lo cơm nước, bới xách  cho ông và giặt quần áo cho ông. 

Ông Cả nằm ở bệnh viện lâu ngày nên rất buồn, chỉ đọc báo,  đọc sách và không có ai đến thăm viếng chuyện trò, ngoài mẹ và thầy  thư ký... Mỗi lần mẹ mang cơm đến, phải dỗ dành năn nỉ ông mới  chịu ăn. Mẹ nghĩ mình chỉ là phận tôi tớ nên chỉ làm đủ bổn phận  hằng ngày mà thôi, ngoài ra mẹ không tìm dịp để chuyện trò với ông  nhiều nhưng trái lại, ông thường gọi mẹ đến gần, hỏi han tình hình  gia đình, bắt mẹ kể cho ông nghe về cha mẹ anh em và hoàn cảnh ở nhà quê sinh sống như thế nào. Ông tỏ ra rất quan tâm. Nhiều lần  ông thường nói với mẹ: 

- Ẩn ơi! Ở đây buồn quá! Buồn thì bệnh khó mà lành được. Mỗi lần ông ngồi trên ghế ăn cơm, mẹ phải quỳ dưới chân để gắp thức ăn bỏ vào chén cho ông. Chỉ có cách đó mới thuận tay, nếu  đứng thì phải cúi xuống rất khó trao thức ăn ngang miệng cho ông  được. Có lần ông nói với mẹ: 

- Tại sao em để mặt mày nhơ bẩn thế. Hãy đi rửa mặt cho sạch  sẽ. Tôi không muốn nhìn thấy em như vậy. 

Vì thế, khi ở nhà thì mẹ để cho mặt mày lem luốc để cho bà Cả khỏi để ý nhưng khi đến bệnh viện thì mẹ phải đi rửa mặt sạch sẽ,  chải tóc gọn gàng mới dọn cơm cho ông ăn. Có lần ông kêu mẹ đến  gần và bảo mẹ đưa bàn tay cho ông xem. Ông cầm bàn tay mẹ hồi  lâu rồi ứa nước mắt ra và nói: 

- Mặt mày xinh đẹp như thế, bàn tay tốt như thế mà phải đi làm  đầy tớ cho nhà giàu! Người như thế này đáng lý ra phải được làm  chủ một cơ nghiệp mới phải! 

Nói xong ông ôm lấy mẹ và nói: 

- Ẩn ơi! Tôi buồn lắm. Vợ tôi không tưởng nghĩ gì đến tôi. Bà  ấy chỉ biết làm giàu và đã có người khác săn sóc cho bà rồi...  Mẹ hiểu ý liền gỡ tay ông ra rồi quỳ xuống: 

- Thưa ông, con không đáng cho ông nghĩ tới. Con là phận tôi  tớ...  

Nhưng ông nói với mẹ rằng: 

- Ẩn ơi! Em ăn ở có tình có nghĩa với tôi. Tôi không đối xử với  em như là người tôi tớ đâu! Tôi xem em như em của tôi, như bạn của  tôi. Nếu em thương tôi thì tôi xem em như vợ của tôi. Tôi quá buồn,  quá đau khổ. Xin em đừng xua đuổi tôi. 

Nói xong, ông cầm tay mẹ rồi ôm lấy mẹ mà khóc. 

Mẹ là con gái mới lớn lên, nhẹ dạ và hay nể nang, sợ làm buồn lòng ông nên mẹ chỉ ứa nước mắt rồi tự nhiên khóc nức nở. Ông  cũng khóc và ôm lấy mẹ mãi như thế. Lúc đó mẹ vào khoảng 18, 19  tuổi, còn ông thì mới ngoài 30 tuổi mà thôi, mặt mày ông rất khôi  ngô tuấn tú và tính tình rất phúc hậu. Mấy tháng sau, mẹ có thai.  Mẹ rất lo sợ và không biết phải giải quyết ra sao. Mẹ không dám  nghĩ đến chuyện phá thai vì ông bà mình thường dạy phá thai là  chuyện thất đức... Mấy đêm liền không ngủ được và cuối cùng mẹ quyết định phải nói hết sự thật cho ông biết. Nghe tin đó, ông bàn  với mẹ rằng: - Bây giờ hãy còn thì giờ để tôi lo cho Ẩn đâu vào đó. Ẩn đừng  sợ! Sau đó, ông bảo Thầy thư ký mang đến cho ông một số tiền và  thu xếp cho mẹ một chỗ ở tại làng Kim Long. Vào một buổi sáng,  như thường lệ, mẹ đi chợ mua thức ăn cho ông và mang theo một ít  quần áo cần thiết rồi đi thẳng luôn. Cho đến ngày sinh con, mẹ đem  gởi vào Cô Nhi Viện Dục Anh ở Kim Long. Được ba năm, khi con  khôn lớn thì mẹ mới về quê... Mẹ không dám lui tới với ông Cả vì sợ bà Cả trả thù. Bà là người có thế lực, chỉ cần nói với người Pháp một  tiếng là họ cho lính bắt mẹ bỏ tù ngay tức khắc. Thậm chí họ có thể xử tử mẹ với tội hoạt động cho Việt Minh Cộng Sản! Từ khi xa mẹ, ông Cả quá buồn vì quá thương nhớ nên bệnh  nặng thêm và ông đã qua đời sau đó chừng một năm. Ông dặn mẹ đặt tên cho con là “Hoài”, có nghĩa là “Nhớ”... Mẹ còn nhớ, hồi đó,  mỗi buổi sáng khi mẹ mang thức ăn đến cho ông thì ông thường nói  với mẹ: 

- Ẩn ơi, đêm qua tôi nằm mơ thấy Ẩn, tôi thương Ẩn nhiều  lắm, tôi nhớ Ẩn nhiều lắm... Ẩn có ghét tôi không? Ẩn có giận tôi  không? Nếu mai kia tôi chết thì linh hồn tôi vẫn ở bên cạnh Ẩn mãi  mãi...  

Mỗi lần nghe ông nói như vậy, mẹ thấy thương ông quá. Mẹ biết cuộc sống của ông mong manh lắm nhưng mẹ không dành lòng  bỏ rơi ông. Bệnh viện cho ông ở phòng hạng nhất, riêng biệt, có đầy  đủ tiện nghi như ở nhà, chỉ có người Pháp mới được như vậy, người  Việt Nam ít có người được như ông. Trước khi mất, ông có viết cho  người bà con trong họ hàng của ông một bức thư nhờ người đó bảo  bọc che chở cho con. Bức thư đó đã được công bố sau khi ông chết  nhưng bà Cả làm áp lực không cho thi hành di chúc của ông. Mãi  đến khi con được tám tuổi thì bà Cả mới cho người đến Cô Nhi Viện làm giấy tờ xin đem con về làm con nuôi.

Khi bà Cả còn sống, mẹ không dám đến thăm con vì bà Cả giận mẹ đã “cướp chồng” của bà  nhưng sau khi bà Cả qua đời thì người trong họ hàng đã nhắn tin  cho mẹ biết và mẹ đã đến để được nghe kể lại những lời cuối cùng  của ông Cả trước khi mất. Mẹ đã để tang cho bà Cả cũng như trước  đây mẹ đã âm thầm để tang cho ông Cả. Dù sao đối với bà Cả thì mẹ cũng là phận nhỏ, phận làm em. 

Về nguồn gốc dòng họ của con, theo lời ông Cả kể lại cho mẹ khi ông còn sống thì mấy trăm năm trước dòng họ ông có người làm  quan lớn từ Bắc vào lập nghiệp ở tỉnh Quảng Trị rồi theo đạo Công  Giáo. Thời nhà Nguyễn bắt đạo, tổ tiên của ông bị lưu đày, phân tán  đi khắp nơi, một người vào Huế và đã sinh hạ con cháu sau này. Đời  ông Cố vẫn còn nghèo, về sau tự nhiên con cháu phát đạt, giàu có,  trí thức... Nghe nói ông cố một hôm đào ao trồng tre gặp được chum  vàng. Nhờ đó con cháu mới có tiền đi học và có vốn làm ăn. Danh  giá dòng họ này đến nỗi người Pháp cũng phải kính nể. Khi con lớn  lên, gương mặt của con cũng hao hao giống hai bà cô, em ruột của  ông Cả. Hai người đó rất đẹp và học giỏi, một thời nổi danh. Một  người có chồng là bác sĩ, sau bỏ chồng đi lấy một người ngoại quốc,  con cháu đều thành tài và hiện đang ở ngoại quốc. Dòng họ bên nội  con danh giá, trí thức nên họ khinh mẹ là người nghèo hèn, ít học, vì  thế họ cũng không có tình với con. Họ không muốn công khai nhìn  nhận con là con cháu của họ. Đó là sự thật. Dù sao thì con vẫn là  con của ông Cả và ông Cả cũng đã yêu thương mẹ một cách chân  thành, không phải chỉ là một sự lợi dụng về xác thịt mà thôi đâu. Mẹ cũng yêu thương ông mà sinh ra con. Mẹ nói điều đó cho con biết và  khuyên con đừng quên người Cha đau khổ của con đã qua đời. 

Năm con được ba tuổi, mẹ trở về làng ngoại thăm mồ mả ông  bà, thăm anh em họ hàng. Có người biết hoàn cảnh của mẹ nên đã  xin cưới mẹ làm vợ và thương yêu mẹ trọn tình nghĩa vợ chồng. Bà  con họ hàng khuyên mẹ nhận lời vì mẹ hãy còn trẻ, sau này không  biết nương tựa vào ai. Đó là một người lính lái xe trong Quân Đội  Việt Nam Cộng Hòa. Mẹ có với ông này 4 đứa con trai thì ông bị tử trận. Mẹ gắng nuôi các em con khôn lớn, hiện nay chúng cũng đã  có vợ có con cả rồi. Mẹ có chết đi cũng an tâm. Chỉ buồn một điều là  không được gặp lại con trước khi nhắm mắt. 

Thư này mẹ để lại cho các em, khi nào liên lạc được với con,  các em sẽ gởi cho con. Mẹ cầu mong gia đình con hòa thuận, hạnh  phúc. Nếu sau này con trở về, xin nhớ đến thăm mộ của mẹ và cầu  nguyện cho mẹ. 

Mẹ vĩnh biệt con. 

Nguyễn Thị Ẩn... ” 

* * 

Đọc xong thư, Hoài bỗng lặng người đi. Nỗi khổ tâm  mang nặng trong lòng nàng từ hơn hai chục năm nay bây giờ lại bùng lên một cách sôi nổi. Mẹ nàng và anh em nàng cũng  thừa biết nàng là người con chí hiếu, chí tình, nàng đã từng hy  sinh làm lụng vất vả để giúp mẹ, giúp em, đã từng vươn lên từ trong cảnh khó nghèo để trở thành một người có học, có khả năng. Nỗi khổ tâm của nàng chỉ có một mình nàng biết, một  mình nàng hay. Sau khi nhận được thư mẹ, Hoài quyết định  trở về, dù chỉ để thắp cho mẹ một nén hương trên mộ, nàng  cũng phải làm. 

Hoài đã tìm hỏi nơi này, nơi nọ trong số bạn bè đã từng  về Việt Nam để làm giấy tờ, thủ tục và để biết đường đến  nhà các em hiện ở vùng kinh tế mới thuộc tỉnh Long Khánh  cũ (nay là tỉnh Đồng Nai). Hoài đã đến phi trường Tân Sơn  Nhất vào dịp lễ Giáng Sinh, ở lại Sài Gòn đợi chờ liên lạc được  người quen dẫn đi thăm các em. 

Gặp lại bà con, bạn bè, Hoài rất mừng. Ai cũng khen  Hoài đã ngoài bốn mươi rồi mà trông còn trẻ đẹp như xưa. Bề ngoài, Hoài vẫn nói cười vui vẻ. Nàng kể cho mọi người nghe  về cuộc sống của nàng bây giờ ổn định, có nhà cửa tài sản lớn,  lương cao. Hoài xa Việt Nam đã hơn 20 năm rồi, với thời gian  dài làm việc nhiều, nàng đã dành dụm được chút vốn liếng và  bắt đầu nghỉ ngơi để đi du lịch nơi này nơi khác, trong đó có  chương trình về thăm quê hương. Con cái của nàng bây giờ cũng đã lớn, đang học những năm cuối của chương trình Đại  Học, tương lai sẽ có cuộc sống ổn định nên nàng cũng không  còn phải lo lắng gì... Thấy nàng ăn nói vui vẻ, hồn nhiên nên  anh em, bạn bè ai cũng mừng cho nàng. 

Hoài đã được các em dẫn đi thăm mộ mẹ và nàng đã xúc  động quỳ bên mộ khóc nức nở. Sau đó, nàng đã thuê thợ xây  cho mẹ một ngôi mộ thật đẹp và đã gắn lên đó bức hình của  mẹ với mấy hàng chữ: “CON NHỚ MẸ”, ở dưới ghi tên Hoài và các em... Hoài cũng thuê xe cho các em đi thăm Huế và nhờ người hướng dẫn đến thăm khu lăng mộ của gia đình bên  nội. Lần đầu tiên, nàng đã quỳ trước mộ của ông Cả, người  cha đau khổ mà nàng mới biết rõ về người qua bức thư của  mẹ để lại. Nàng đã đi thăm Đại Nội, cung điện của các vua  nhà Nguyễn, thăm các lăng tẩm ở vùng núi hai bên bờ sông  Hương, đi thăm các nhà thờ, chùa, thưởng thức các món ăn  Huế, đi thuyền trên sông Hương, nghe ban cổ nhạc trình bày  các bài ca, điệu hò ngày xưa... Trong dịp đó, Hoài đã gặp lại  Tường Vi, một người bạn thân, học cùng lớp ngày xưa. Tường  Vi đã cho Hoài biết tình trạng của Kiểm sau 1975 đã bị Việt  Cộng bắt và bị buộc vào tội “hoạt động lật đổ chính quyền”...  , hiện đang bị giam giữ tại vùng Thanh Hóa cùng chung vụ với Liêm, chồng của nàng. Ba tháng một lần, Tường Vi thường  xin giấy phép đi thăm chồng và nay đã sắp đến kỳ hạn rồi...  

Dịp đó, Hoài đã đi theo Tường Vi ra Thanh Hóa để thăm  Kiểm. Hai người đã thuê xe hơi khởi hành từ Huế. Mùa Tết,  trời lạnh, đường sá hư hỏng, đi mất một ngày mới tới nơi...  Tường Vi chính là cô gái lai Nhật ngày xưa ở trong Cô Nhi  Viện với Hoài, hai người có vóc dáng, khuôn mặt hơi giống  nhau, nên ai cũng tưởng là hai chị em. Hoài thân với Tường  Vi từ nhỏ, cùng cảnh ngộ nên dễ thông cảm nhau. Đọc đường,  Hoài đã tâm sự nhiều với Tường Vi về mối tình giữa Kiểm và  Hoài ngày xưa... Hoài cho rằng Kiểm vì quá đam mê chính  trị, đã chạy theo con đường danh vọng mà bỏ rơi Hoài... nên  Hoài giận mà bỏ đi xa, không liên lạc với Kiểm nữa. Bây giờ nghĩ lại, Hoài thấy mình đã quá sai lầm khi chấp nhận kết hôn  với một người ngoại quốc, đã không đem lại hạnh phúc cho  nàng... Trái lại nàng đã mất cả bà con, anh em, bạn bè, mất cả quê hương, đất nước. Con cái cũng không biết nói tiếng mẹ đẻ, không biết gì về văn hóa lịch sử Việt Nam, không biết gì về họ hàng bên ngoại... Vì quá bận công việc làm ăn, vì phải sống  cho cá nhân mình, nên nàng đã thiếu sót không dạy cho con  tiếng nói và văn hóa Việt Nam. Nàng phải chịu trách nhiệm  về điều đó. 

Ban Giám Thị Trại không cho Hoài được gặp Kiểm vì  không có giấy tờ liên hệ gia đình. Hơn nữa, hiện Kiểm đang  ở trong tình trạng bị kỷ luật không cho thăm gặp thân nhân, không cho nhận quà cáp thư từ trong vòng sáu tháng vì lý do  đã xúi giục anh em tù chính trị đứng lên đòi hỏi chuyện này  chuyện nọ ở trong trại... Tường Vi đã nhận Hoài là chị em cô  cậu nên Hoài cũng có mặt trong lúc Tường Vi nói chuyện với  chồng tại phòng khách của trại tù. Liêm đã cho Hoài biết thời  gian sống chung với Kiểm trong tù, chàng đã được Kiểm tâm  sự nhiều về Hoài. Cho đến bây giờ Kiểm vẫn còn thắc mắc  không hiểu tại sao tự nhiên Hoài xa Kiểm và cắt đứt mọi liên  lạc... Hoài chưa bao giờ trả lời cho Kiểm, Hoài có đồng ý để cho Kiểm đi hỏi nàng làm vợ hay không, nên Kiểm vẫn chờ đợi cho đến khi được tin Hoài đã đi ngoại quốc, mới lập gia  đình với người khác. Bây giờ Hoài mới biết rằng mình đã nghĩ oan cho Kiểm... nhưng mọi việc đã lỡ rồi, không còn thay đổi  được nữa! 

* * 

Hoài đã cùng Tường Vi trở về thăm ngôi nhà xưa, nơi  Hoài đã sống gần chục năm, nơi cha của nàng đã xây dựng  nên vườn tược, nhà cửa nguy nga đồ sộ... Nơi mẹ Hoài đã  từng nương thân trong thời loạn lạc, nơi mà mỗi đêm Hoài  thường chạy ra cổng để mong ngóng xem Kiểm có đến ngồi  cạnh bến tắm hay không? Nơi đó, người ta thường gọi là “Bến  Trâu”... nhưng Kiểm thì gọi đó là “Bến Xuân”, một cái tên thơ mộng, nơi đã phát sinh ra mối tình lãng mạn của đôi bạn học  trò thời thơ ấu: Kiểm và Hoài! 

Trong những ngày chờ đợi Tết, hai cây bạch mai, hoàng  mai trước sân nhà đã ra hoa. Những cây mận, cây đào trong  vườn vẫn còn đó, các chậu kiểng vẫn còn đó, hoa hồng, hoa  sói, chậu lan, chậu cúc... vẫn còn đó nhưng ông Cả, người chủ nhà, người cha mà Hoài chưa hề biết mặt, đã ra đi gần nửa  thế kỷ trước rồi; bà Cả cũng đã vắng bóng gần ba chục năm  nay; mẹ nàng, Nguyễn Thị Ẩn, cũng đã ra đi từ ngày dan  díu với cha nàng... và Kiểm cũng không còn đó để chờ đợi  cái mỉm cười kín đáo và duyên dáng của Hoài từ bên trong  cánh cửa... Giang sơn đã đổi chủ, kẻ thù đang ngự trị trong  ngôi nhà này... Hoài chỉ là người khách xa lạ, một người mang  quốc tịch nước ngoài, một khách du lịch tình cờ đi qua đây,  dừng chân ngắm cảnh... 

“Quốc phá, sơn hà tại”, nước mất nhưng sông núi vẫn  còn đó...  

Nguyễn Lý Tưởng 


CẢM ĐỀ 

* Sau khi viết xong truyện “BẾN XUÂN” 

Nước mất, sông núi vẫn còn (1), 

Đường về nhà cũ, hoàng hôn xuống rồi. 

Trước vườn một gốc lão mai, 

Nghe tin Xuân đến, ngậm ngùi ra hoa. 

Giang sơn này của mẹ cha, 

Giờ đây đổi chủ, người ta chiếm rồi. 

Thân em là trẻ mồ côi, 

Tình duyên trắc trở, suốt đời lênh đênh. 

Thương anh trong chốn ngục hình, 

Dù xa xôi mấy, một mình đi thăm. 

Chốn xưa, nhớ một đêm rằm, 

Em ra trước ngõ, âm thầm chờ anh. 

Anh thường khen em rất xinh, 

Như trúc kia mọc đầu đình tốt tươi. 

Thương em duyên dáng nụ cười, 

Anh thương “chỉ có một người”, “thương anh... ” 

Ai ngờ hai mái đầu xanh, 

Tội tình chi mấy mà đành trái ngang. 

Thế rồi, mỗi đứa mỗi đàng, 

Thế rồi, mang tiếng “phụ phàng” với nhau. 

Em đâu có chuyện sang giàu, 

Bốn mùa trong cảnh mưa Ngâu sụt sùi. 

Dưới cầu nước vẫn trôi xuôi, 

Thời gian đâu có trở lui bao giờ. 

Tại sao anh vẫn đợi chờ? 

Tại sao anh vẫn còn mơ một người? 

Tuổi Xuân, mình đã qua rồi, 

Hoa mai đã rụng, trên đồi Xuân đi...  

Bây giờ em mới trở về, 

Bến Xuân thuyền đậu, để nghe câu hò... 

Ngày xưa có cậu học trò, 

Yêu cô con gái bơ vơ lạc loài. 

Thế rồi, anh chẳng yêu ai, 

Ngoài cô con gái trọn đời anh mơ...  

15 tháng 1, 1999 

Nguyễn Lý Tưởng 

Chú thích: 

1. Quốc phá sơn hà tại: Nước mất nhưng sông núi vẫn  còn


(Trích tập truyện Đàn Bướm Lạ Trong Vườn , tác giả Nghuyễn Lý Tưởng)










Không có nhận xét nào: