CHỮ NHO ... DỄ HỌC (14)
Các Bộ 4 Nét (tiếp theo)
Như thường lệ, trước khi học bài mới, ta giải đáp câu đố của bài cũ trước nhé !
Gia hữu tứ thất ti, 家有四匹絲,
Tàng tại phá quỷ lý. 藏在破櫃裡。
Túc túc nhất cân trọng, 足足一斤重,
Cấp thời khả hoán mễ. 急時可換米。
Có nghĩa :
Nhà có 4 xấp tơ, là có 4 Bộ YÊU 幺 幺 幺 幺 .
Cất trong ngăn tủ bể, là Bộ PHƯƠNG 匚 không có Nét trên.
Cân đúng đủ một cân, lấy chữ NHẤT CÂN 一斤.
Khi gấp rút có thể đem đổi thành GẠO, lấy chữ MỄ 米.
Ta ghép :
4 bộ YÊU 2 trên 2 dưới vào bộ PHƯƠNG không có nét trên (ngăn tủ bể), rồi thêm chữ NHẤT vào giữa 4 bộ YÊU và viết chữ CÂN ở kế bên phải là ta sẽ có chữ 斷 ĐOẠN. Khi cần viết nhanh (Cấp thời) thì 4 bộ YÊU có thể đổi thành bộ MỄ như sau 断, đây là chữ ĐOẠN 断 giản thể mà ta đã học ở bài trước trong phần bộ 斤 CÂN.
ĐOẠN 斷 là Đứt đoạn, là NGẪU ĐOẠN TY LIÊN 藕斷絲連, là Củ sen, ngó sen tuy đã bị gãy đôi, nhưng khi kéo ra thì những sợi tơ vẫn còn dính ở 2 đầu, như cụ Nguyễn Du đã viết trong Kiều khi cô đang ở với Từ Hải mà còn nhớ về Kim Trọng :
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa NGÓ ý còn vương TƠ lòng!
Người yêu xưa, tình nhân cũ... tuy đã chia tay rồi mà còn quyến luyến chưa dứt hẵn, quên hẵn, thì nói là "Ngẫu đoạn ty liên."
20. BỘ KHUYỂN 犬 ( 犭) :
KHUYỂN 犬 ( 犭) : là CHÓ. Ta đã biết bộ KHUYỂN với hình thức nầy 犭 ở phần các bộ 3 nét, dùng để ghép tên gọi của các động vật có 4 chân và chạy trên mặt đất như... CHÓ ! Ví dụ.
LANG 狼 : là Con Sói, từ kép là SÀI LANG 豺狼.
MIÊU 猫 : là Con Mèo. Theo đề 36 ngày xưa thì GIA MIÊU 家猫 là con Mèo Nhà số 18, tên chữ là Thiên Thân. Còn SƠN MIÊU 山貓 là con Mèo Rừng số 14, tên chữ là Chỉ Đắc. Ta có thành ngữ :
MIÊU KHỐC LÃO THỬ 猫哭老鼠 : Ta nói là " Mèo khóc Chuột " để chỉ sự giả dối của người đời.
TRƯ 猪 : là Con Heo. Heo rừng là DÃ TRƯ 野猪. Con heo nổi tiếng trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là TRƯ BÁT GIỚI 豬八戒.
DÃ TRƯ LÂM 野豬林 : là Rừng Heo Rừng, cánh rừng nổi tiếng trong truyện Thuỷ Hử, nơi là Giáo đầu của mười vạn cấm quân là Lâm Sung được nhà sư Lổ Trí Thâm giải cứu để rồi sau đó cùng gia nhập vào 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.
HỒ 狐 : là Con Chồn, từ kép là HỒ LY 狐狸. HỒ LY TINH 狐狸精 : theo truyền thuyết, loài chồn tu lâu năm có thể biến thành gái đẹp để mê hoặc người khác. Như Đắc Kỷ trong truyện Phong Thần chẳng hạn, và các cô chồn Hồ Tiên 狐仙 đẹp như tiên của Bồ Tùng Linh trong truyện Liêu Trai Chí Dị, chuyên hớp hồn các chàng thư sinh thức đêm để vùi mài kinh sử.
(Lỗ Trí Thâm cứu Lâm Xung) |
(Hồ Ly tinh Đắc Kỷ)
Tiêu biểu cho bộ KHUYỂN 犬 có chữ :
THÚ 獸 : Chỉ chung các con vật chạy bằng bốn chân trên mặt đất. Có cánh bay trên trời là CẦM. Nên CẦM THÚ 禽獸 là các loài thú vật chung quanh cuộc sống của con người.
THÚ TÍNH 獸性 : là Tính tình ham muốn và hung dữ như thú vật.
THÚ Y 獸醫 : là Thầy thuốc chuyên trị bệnh cho thú vật.
NHÂN DIỆN THÚ TÂM 人面獸心 : Ta nói là : Mặt Người mà Lòng Thú ! Chỉ những người mất hết lương tâm lương tri của con người.
21. BỘ NHẬT 日 :
NHẬT 日 : là Mặt Trời. Đây là một trong các chữ Tượng Hình.
Hình Mặt Trời được vẽ tượng trưng với một đường tròn và một vạch ngang tiêu biểu cho các vật thể bên trong mặt trời để cuối cùng thành chữ NHẬT 日 của ngày hôm nay.
NHẬT còn có nghĩa là Ban Ngày trong từ NHẬT DẠ 日夜 là Ngày Đêm. Từ mặt trời mọc cho đến mặt trời lặn gọi là NHẤT NHẬT 一日 có nghĩa là Một Ngày. Kinh Thi có câu :
Nhất Nhật bất kiến như tam thu hề, 一日不見如三秋兮,
Huống tam thu bất kiến hề! 況三秋不見兮!
Có nghĩa :
Một ngày không gặp dài như ba mùa thu đã đi qua vậy,
Huống chi đến ba mùa thu không gặp được nhau !
Để diễn tả mối tình si của Kim Trọng đối với Thuý Kiều, cụ Nguyễn Du cũng đã viết :
Sầu đong càng khắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê!
Có tất cả 269 chữ được ghép bởi Bộ NHẬT. Tiêu biểu có chữ :
ĐÁN 旦 : là Ngày, là Buổi Sáng. Như Tết Nguyên Đán là Ngày Lễ đầu tiên trong năm. Ta có thành ngữ THÔNG TIÊU ĐẠT ĐÁN 通宵达旦 : Có nghĩa là "Thâu đêm suốt sáng."
MINH 明 là Sáng sủa, ÁM 暗 là Tối tăm, THẦN 晨 là Buổi Sáng, HÔN 昏 là Buổi Tối. Lúc mới xa nhà để đi theo Mã Giám Sinh, sau khi "Thấy trăng mà thẹn những lời non sông" với Kim Trọng, Kiều đã nhớ đến cha mẹ trong cảnh :
Rừng thu từng biếc chen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng THẦN HÔN.
..."Tấm lòng THẦN HÔN" là "Tấm lòng Sớm Thăm Tối Viếng" của con cái đối với cha mẹ già.
22. BỘ THỊ 氏 :
THỊ 氏 : là THỊ TỘC, là Dòng Họ của các Vua Chúa Quý Tộc ngày xưa, như THẦN NÔNG THỊ 神農氏, HÒA THỊ CHI BÍCH 和氏之璧, THÁI THƯỜNG THỊ 太常氏 ... Được nhiều người biết đến nhất là ...
LÃ THỊ XUÂN THU 吕氏春秋 : là Chuyện của nhà họ Lã thời Xuân Thu, nổi tiếng với con buôn Lã Bất Vi với thương vụ buôn vua bán chúa và là cha đẻ của Tần Thuỷ Hoàng.
Đọc tiểu thuyết võ hiệp của KIM DUNG ta hay bắt gặp các danh hiệu như: Triệu Thị Song Hùng 趙氏雙雄 là Hai người anh hùng của dòng họ Triệu, hay Mộ Dung Thị 慕容氏 là Dòng họ Mộ Dung hậu duệ của nước Yên trong Thiên Long Bát Bộ... Gần đây nhất, điện ảnh Hồng Kông trong thập niên 60-70 của Thế Kỷ trước có Thiệu Thị Điện Ảnh Hữu Hạn Công Ty 邵氏電影有限公司 là Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Điện Ảnh của anh em nhà họ THIỆU đã rất nổi đình nổi đám với các phim như: Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Hoa Mộc Lan, Sơn Ca Luyến... Nhưng tại sao...
THỊ 氏 trong ngôn ngữ Việt Nam hiện nay lại đổi "giới tính" trở thành từ chuyên dùng cho Phái Nữ vậy?! À, thì ra đó chỉ là Tập Quán Ngôn Ngữ do Thói Quen của ông cha ta khi viết về Lý Lịch của Phái Nữ. Ví dụ như muốn nói rõ thân thế của một người đàn bà họ LÊ, tên KIM HOA, có chồng và sống trong gia đình nhà chồng mang họ NGUYỄN, thì phải viết như thế nầy :
NGUYỄN môn, LÊ THỊ, KIM HOA, nhũ danh THỊ LÀI ....
阮 門 黎 氏 金 花 乳 名 氏 萊 ....
Có nghĩa :
Bà KIM HOA thuộc DÒNG HỌ LÊ sống trong môn tộc của nhà họ NGUYỄN, tên cúng cơm là THỊ LÀI ...
Chính vì cách nói trên mà gây nên hiểu lầm THỊ 氏 là chữ lót của tên phái nữ, nhưng vì sử dụng lâu ngày thành thói quen, hễ nhắc đến chữ THỊ là nghĩ ngay đến đó là Mấy Bà Mấy Cô... Đặt tên cho phái nữ cũng dùng chữ THỊ, như : Thị Mầu, Thị Nở, Thị Mẹt...
Tiêu biểu cho bộ THỊ có chữ :
DÂN 民 : là Những người cùng sống chung trong một nước nào đó. Các từ thường gặp như DÂN CHÚNG 民眾, DÂN TỘC 民族, DÂN QUYỀN 民權, DÂN SINH 民生, DÂN CHỦ 民主 ... Từ mấy ngàn năm trước, trong thời Xuân Thu, Á Thánh MẠNH TỬ đã nói một câu bất hủ, đi trước thời đại là :
DÂN vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
民 為 貴, 社 稷 次 之, 君 為 輕。
Có nghĩa :
Lấy Dân làm quý, đất nước là thứ nhì, vua thì nhẹ .
Nền Dân Chủ đã manh nha từ hơn 2000 năm trước rồi!
23. BỘ THỦ 手 :
THỦ 手 : là TAY. Thường chỉ từ cổ tay trở xuống. Còn Cánh Tay thì gọi là TÝ 臂. Ngoài nghĩa là TAY ra, THỦ còn chỉ CẢ CON NGƯỜI, chỉ HÀNH ĐỘNG... như :
HẢO THỦ 好手, CAO THỦ 高手: Chỉ Người giỏi về một bộ môn nào đó, như: Hảo Thủ Bóng Bàn, Cao Thủ Nhu Đạo ....
TUYỂN THỦ 選手 : là những người được chon lựa đặc biệt.
THỦ PHÁP 手法, THỦ ĐOẠN 手段 : là Cái cách thức để làm việc. Riêng từ Thủ Đoạn trong tiếng Nôm còn có nghĩa là Mánh Khóe.
HẠ THỦ 下手 : là Xuống tay, có nghĩa Bắt tay làm việc gì đó. Ta có thành ngữ : TIÊN HẠ THỦ VI CƯỜNG 先下手為強 : có nghĩa là Người nào Ra Tay trước thì là kẻ mạnh, sẽ giữ thế chủ động và dễ thành công hơn. Đánh nhau cũng vậy, ai ra tay trước thì sẽ dễ dàng hạ gục đối phương hơn. Bà con lối xóm thường nói: "Thằng nào đánh trước làm cha!" Có làm cha không thì không biết chứ đánh trước thì sẽ dễ thắng hơn.
THỦ LỆNH 手令 : là Lệnh lạc được viết bằng tay rõ ràng. Trái với KHẨU LỆNH 口令 là Ra lệnh bằng miệng mà thôi. Khẩu Lệnh còn có nghĩa là những MẬT MÃ hay là những LỜI HÔ Nghiêm Nghỉ ! .... trong hàng quân đang diễn tập.
QUÂN TỬ ĐỘNG KHẨU, TIỂU NHÂN ĐỘNG THỦ 君子動口,小人動手 : là Người quân tử thì nói bằng miệng (nói lý lẽ), còn kẻ tiểu nhân thì nói bằng tay (Động Thủ : là Đánh nhau).
Tiêu biểu cho bộ THỦ có các chữ:
CHƯỞNG 掌 : là Bàn Tay.
QUYỀN 拳 : là Nắm tay. Nên ĐẢ NHẤT CHƯỞNG: là Đánh cho một chưởng, có nghĩa là Tát cho một tát tai. Còn ĐẢ NHẤT QUYỀN: là Đánh cho một quyền, có nghĩa là Thoi cho một thoi.
QUYỀN 拳 CHƯỞNG 掌
24. BỘ THÙ 殳 :
THÙ 殳 : là Một loại nghi trượng bằng tre, dài một trượng hai thước, không có đầu nhọn. Nói chung THÙ là một loại binh khí dùng để phòng vệ, thị uy hơn là để tấn công.
Chữ THÙ trong Giáp Cốt Văn là hình tượng của một người đang dang hai tay cầm một cái cây đầu có khoen móc, có thể dùng để móc đồ đạc, mà cũng có thể dùng làm vũ khí, diễn tiến dần đến chữ viết ngày nay 殳
Tiêu biểu cho bộ THÙ 殳 có chữ :
ĐOẠN 段 : là Một Khúc, một phần. PHÂN ĐOẠN 分段 : là Chia thành từng phần từng khúc một.
CÔNG ĐOẠN 工段 : là Từng phần của công việc tính theo kế hoạch hoặc thời gian.
GIAI ĐOẠN 階段 : là chỉ Một Khoảng Thời Gian nào đó.
Khi là một Họ của Bách Gia Tính thì phải đọc là ĐOÀN. Họ ĐOÀN, là họ Hoàng tộc của nước Đại Lý ở cực nam của Trung Hoa, thuộc tỉnh Vân Nam ngày nay. Đọc tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung ta hay nghe ông nhắc đến Đoàn Hoàng Gia với tuyệt chiêu võ học Tiên Thiên Công và Nhất Dương Chỉ, trong Thiên Long Bát Bộ, Nhất Dương Chỉ còn được nâng cấp thành Lục Mạch Thần Kiếm với chàng thư sinh vương tử Đoàn Dự không chịu học môn võ gia truyền nầy, vì từ bé đã được dạy cho Nhân Nghĩa làm người và Từ Bi của kinh phật.
5 hình tượng của Đoàn Dự trong 5 lần quay Thiên Long Bát Bộ.
25. BỘ THUỶ 水 (氵):
THUỶ 水 (氵): là NƯỚC. Đã được đề cập trong các bộ 3 nét với 3 chấm thuỷ (氵), chỉ nói thêm về các chữ được ghép bởi Bộ THUỶ 水mà thôi. Khi ghép với các bộ khác để thành lập một chữ mới, bộ THUỶ 水 thường được đặt ở phía trên hoặc phía dưới như sau :
ĐẠP 沓 : là chữ Hội Ý, gồm có bộ Thuỷ ở trên,, bộ Viết 曰 là Nói ở dưới, hàm ý là: Nói như nước chảy không ngừng. Nên ĐẠP có nghĩa là Trùng lắp, là Dồn dập, như trong thành ngữ :
PHÂN CHÍ ĐẠP LAI 紛至沓來 : là Hết chuyện nầy đến chuyện khác. Đưa đến một cách dồn dập.
NỊCH 氼 : Cũng là chữ Hội Ý, gồm có bộ Thuỷ ở trên, bộ Nhân là Người ở dưới, hàm ý Người bị chìm ở dưới nước, nên NỊCH có nghĩa là CHÌM ĐẮM, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng đây là chữ NỊCH xưa, chữ NỊCH ngày nay được viết như thế nầy 溺. Như:
NỊCH TỬ 溺死 : là Chết Chìm.
Trong câu đối của anh học trò Nguyễn Giản Thanh đối với câu ra của Thầy Đồ Đàm Thuận Huy, khi tan học mà trời mưa, học trò không thể về nhà được là "Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách 雨無鈐鎖能留客" (Trời mưa không cần phải cầm cọng gì cũng giữ được khách ngồi lại chơi). Câu đối của Nguyễn Giản Thanh là :
Sắc bất ba đào dị NỊCH nhân. 色不波濤易溺人。
Có nghĩa :
Sắc đẹp không có phong ba bão táp gì cả, nhưng lại dễ làm cho con người bị CHÌM ĐẮM.
Bộ THUỶ 水 còn được ghép ở bên dưới chữ như chữ :
TUYỀN 泉 : là chữ Hội Ý, được ghép bởi chữ BẠCH là Trắng ở trên, bộ THUỶ là Nước ở dưới, hàm ý là Nước chảy trắng xóa. Nên TUYỀN có nghĩa là Con SUỐI, với lối nói chiết tự chơi chữ là:
BẠCH THUỶ thành TUYỀN, tịch tịch ĐA. 白水成泉夕夕多。
Có nghĩa :
Nước chảy trắng xóa thành con suối, mỗi đêm một nhiều ra.
(Hai chữ TỊCH 夕 chồng lên nhau thành chữ ĐA 多 ).
TƯƠNG 漿 : chữ Hài Thanh, gồm có chữ TƯƠNG 將 làTương lai, ở trên chỉ ÂM và bộ THUỶ ở dưới chỉ Ý nên TƯƠNG là chất lỏng đậm đặc, hoặc hơi sệt, như HUYẾT TƯƠNG 血漿 chẳng hạn. TƯƠNG còn là một loại thức uống ngày xưa do ngũ cốc hoặc hoa qủa tiết ra, là nước cơm rượu, là nước trái cây đã lên men, nên thành ngữ :
NGỌC DỊCH QUỲNH TƯƠNG 玉液瓊漿 : chỉ Thức uống quý, một loại rượu trái cây thơm ngon, tương truyền uống vào có thể thành tiên được. Trong tích Bùi Hàng gặp tiên của điển cố LAM KIỀU, bài thơ của Phàn phu nhân đáp lại thơ tỏ tình của Bùi Hàng mở đầu bằng câu :
Nhất ẩm Quỳnh Tương bách cảm sanh, 一飲瓊漿百感生
Có nghĩa :
Rượu quỳnh tương uống vào sẽ sinh ra trăm ngàn cảm xúc!
Sau khi gặp Kiều, Kim Trọng cũng đã ...
Xâm xâm đè nẽo Lam Kiều lần sang!
và... khi tỏ tình cùng Kiều, Kim cũng đã nói :
Chày sương chưa nện Cầu Lam,
Sợ lần khần qúa ra sờm sở chăng ?!
Ngọc dịch Quỳnh tương
26. BỘ NGOÃ 瓦 :
NGOÃ 瓦 : là NGÓI, là ĐỒ GỐM nói chung.
Đại Triện, Tiểu Triện giống như hình của hai miếng NGÓI xếp chồng lên nhau, là kiểu chữ dùng Tượng Hình để Chỉ Sự. Ngoài nghĩa là Ngói lợp nhà ra, NGOÃ còn chỉ chung các loại đồ gốm nung bằng đất sét, gọi chung là NGÕA KHÍ 瓦器, kể cả đồ chơi cho các bé GÁI ( Vì bé Trai thì được chơi bằng các đồ chơi làm bằng Ngọc Chương ). Nên sanh được bé gái thì gọi là :
LỘNG NGÕA CHI HỈ 弄瓦之喜 : Thành ngữ dùng để chúc cho những người sanh con gái. Tương tự ...
LỘNG CHƯƠNG CHI HỈ 弄璋之喜 : là thành ngữ dùng để chúc cho những người sanh con trai.
Tất cả gồm có 50 chữ được ghép bởi bộ NGOÃ, tiêu biểu có các chữ sau đây :
BÌNH 瓶 : là dụng cụ miệng nhỏ bụng to, thường dùng để đựng chất lỏng. Xưa nung bằng đất, nay làm bằng thuỷ tinh, nên còn gọi là CHAI, như :
TỬU BÌNH 酒瓶 là Chai đựng Rượu. HOA BÌNH 花瓶 là Bình dùng để cắm Hoa. NGỌC BÌNH 玉瓶 là Cái Bình làm bằng Ngọc. Dù làm bằng chất liệu gì, Bình cũng là vật dễ vỡ, không khéo, rớt xuống đất là sẽ bể tan tành. Nên ta mới có câu thành ngữ :
THỦ KHẨU NHƯ BÌNH 守口如瓶 : Có nghĩa Giữ miệng mình cẩn thận như giữ cái bình quý vậy. Ý khuyên ta Không nên ăn nói tuỳ tiện, lại cũng có nghĩa là Giữ im lặng không nói gì cả ! Như lúc về với vợ nhà, thấy Hoạn Thư tỉnh khô như không biết gì, Thúc Sinh cũng đã ...
Nghĩ đà Bưng Kín Miệng Bình,
Nào ai có khảo mà mình lại cung?!
Tiêu biểu cho bộ NGOÃ còn có chữ :
TỪ 瓷 ( 甆 ) là Đồ gốm cao cấp.
ÂU 瓯 ( 甌) là Cái Chén, Cái Tô.
UNG 瓮 (甕)là Cái Tỉnh, Cái Lu, Cái Khạp...
27. BỘ NGỌC 王:
NGỌC 王 : là Đá Quý. Hình thức là chữ VƯƠNG 王, nhưng là bộ Ngọc 玉 được bỏ đi một chấm bên tay phải để ghép chữ cho đẹp. Ở đây chỉ xin đề cập đến bộ NGỌC nằm bên trái khi ghép chữ. Có tất cả 317 chữ được ghép với hình thức nầy. Tiêu biểu có các chữ sau đây :
TRÂN 珍 : là Qúi giá. Ta có từ kép TRÂN QUÝ 珍貴. cho nên từ TRÂN TRỌNG 珍重 : Có nghĩa là xem trọng và lấy làm quý giá chuyện gì đó ( như Sức khỏe, cuộc sống, nghề nghiệp ... ).
CHÂU 珠 : là Chuổi. là những hạt Trai quý giá, đi với chữ TRÂN thành từ kép TRÂN CHÂU 珍珠 : chỉ những hạt chuổi, hạt trai quý giá, ta cũng có từ CHÂU BÁU do từ CHÂU BẢO 珠寶 đọc trại ra mà thành.
LINH 玲 : là Tiếng Châu Báu va chạm nhau, từ kép là LINH ĐINH 玲玎 : là từ Tượng Thanh, chỉ tiếng Chuổi Ngọc, Cẩm Thạch, Châu Báu va chạm nhau. Nên nghĩa phát sinh :
LINH 玲 : là Cái Lục Lạc, là Cái Chuông rung. Từ này hay được dùng để đặt tên cho các cô gái, để chỉ sự lanh lợi, nhí nhảnh, dễ thương, reo vui như các viên ngọc chạm vào nhau.
MÃ NÃO 瑪瑙, SAN HÔ 珊瑚, CẦM SẮT 琴瑟, TÌ BÀ 琵琶 ... đều được ghép bằng bộ VƯƠNG (NGỌC) nầy cả... Viết đến đây, tôi lại nhớ đến câu đối của ông Độc trong Ngư Tiều Canh Độc đã ra cho Hoàng Dung con gái của Đông Tà, khi cô được Quách Tỉnh cỏng lên núi nhờ Nam Đế dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương, như sau :
CẦM SẮT TÌ BÀ bát đại vương, nhất ban đầu diện.
琴 瑟 琵 琶 八 大 王 , 一 般 頭 面。
Có nghĩa :
CẦM SẮT TÌ BÀ (3 loại nhạc cụ) đều có TÁM chữ VƯƠNG lớn ở trên đầu. Ta thấy trên đầu mỗi chữ đều có 2 chữ VƯƠNG 王. NHẤT BAN ĐẦU DIỆN là Đầu mặt đều một thứ (nhất ban), là giống nhau. Ý chỉ dù cho đờn nào thì cũng có thùng đờn và giây đờn như nhau.
Hoàng Dung đã đối lại một câu rất hay là :
SI MỊ VÕNG LƯỢNG tứ tiểu quỷ, các tự đổ trường!
魑 魅 魍 魎 四 小 鬼, 各 自 肚 腸。
魑 魅 魍 魎 四 小 鬼, 各 自 肚 腸。
Có nghĩa :
Bốn con quỷ núi SI MỊ VÕNG LƯỢNG, mỗi con bụng dạ, gan ruột (Đổ là Bụng, Trường là Ruột đều khác nhau. 4 chữ Si Mị Võng Lượng đều ghép bằng bộ QUỶ 鬼 bên trái, và trong ruột chữ QUỶ bên phải là 4 chữ khác nhau. Hoàng Dung đã ví 4 ông NGƯ TIỀU CANH ĐỘC như 4 con quỷ núi, mỗi người đều dùng mỗi cách để ngăn cản không cho nàng và Quách Tỉnh lên núi.
28. BỘ VĂN 文 :
VĂN 文 : là Vằn Vện. Sự vật bị lộn xộn, nguệch ngoạc.
Từ Giáp Cốt Văn cho đến Tiểu Triện đều là những vằn ngang dọc đan chéo nhau mà thành bộ VĂN hiện tại :文. Nghĩa chữ cũng thay đổi. VĂN bây giờ có nghĩa là: Chữ nghĩa được ghép lại thành nhóm thành câu có nghĩa riêng biệt, có tính nghệ thuật để diễn tả và ghi nhận sự việc. Còn VĂN là Vằn Vện thì phải có thêm bộ MỊCH 糸 bên cạnh như sau : 紋. Như VĂN THÂN 紋身 : là Tục Vẽ Mình của ngày xưa và là Xăm Mình của ngày nay.
Các từ thường gặp của VĂN là : Văn Học 文學, Văn Nghệ 文藝, Văn Chương 文章, Văn Thể 文體, Văn Phong 文風 ....
Chỉ thành qủa lao động và tiến hóa của con người, thì có các từ: Văn Hóa 文化, Văn Hiến 文献, Văn Vật 文物 ....
Chỉ những hiện tượng thiên nhiên thì có : Thiên Văn 天文, Thuỷ Văn 水文, Địa Văn 地文 ....
Chỉ thái độ, tác phong của con người thì có : Văn Nhã 文雅, Văn Tịnh 文静, Văn Hòa 文和 ....
Chỉ chính trị, học thuật thì có : Văn Trị 文治, Văn Chức 文職, Văn Khoa 文科, Văn Tuyển 文選 ....
Các thành ngữ thì có :
VĂN DĨ TẢI ĐẠO 文以載道 : Có nghĩa : Văn là dùng để chuyển tải đạo lý, đạo nghĩa cua Thánh Hiền, Tôn Giáo ... Ý là : Văn phải có tác dụng tích cực để xây dựng cuộc sống, chớ không phải làm văn một cách vu vơ, không có mục đích.
VĂN VÕ SONG TOÀN 文武雙全 : Cả hai thứ VĂN VÕ đều giỏi cả !
VĂN DỐT VŨ DÁT 文椊武笪 : là Văn Võ chẳng ra gì cả! DỐT DÁT 椊笪 là chữ NÔM được phát âm theo giọng miền Bắc, người Miền Nam gọi là DỐT NÁT 椊 捏. Người Hoa không biết 2 chữ nầy.
VĂN ÔN VÕ LUYỆN 文溫武練 : Văn thì phải luôn ôn tập, Võ thì phải luôn rèn luyện. Nếu không sẽ dễ bị quên lãng, lụt nghề !
VĂN PHÒNG TỨ BỬU 文房四寶 : là 4 món đồ quý gía trong văn phòng ngày xưa, đó là : Giấy, Mực, Bút và Nghiên. Còn Văn Phòng Tứ Bảo Hiện nay là : Computer, Máy in, Máy Fax và Giấy để in.
Bút Mực Giấy Nghiên
computer
Có tất cả 17 chữ được ghép bởi bộ VĂN nầy, tiêu biểu có chữ :
BAN 斑 : là Đốm, là Vằn, là Sọc . Như :
BAN BAN 斑斑 : là Lốm đốm, Vằn vện.
BAN CƯU 斑鳩 : là loại chim cu có lông lốm đốm trắng.
BAN MÃ 斑馬 : là Con Ngựa Vằn, Ngựa Rằn.
Chữ BAN 斑 nầy khác với chữ BAN 班 (bộ ĐAO 刀 ở giữa) có nghĩa là Chia cắt, nên BAN MÃ 班馬 là Con Ngựa lìa đàn. Như trong bài thơ Tống Hữu Nhân của Lý Bạch có câu :
Huy thủ tự tư khứ, 揮手自茲去,
Tiêu tiêu BAN MÃ minh. 蕭蕭班馬鳴。
Có nghĩa :
Vẫy tay từ đây gỉa biệt,
Lìa đàn ngựa hí vang vang!
Chữ BAN 班 nầy khi là Danh từ thì có nghĩa là LỚP, NHÓM, là PHÒNG BAN trong một Công Ty. Phân BAN trong trường học cũng là chữ BAN nầy. Sau 1975, có một từ mới xuất hiện trong trường học, đó là từ LƯU BAN 留班 : là Ở lại lớp, nên em nào cuối năm không đủ điểm lên lớp, thì các bạn lại nhạo rằng: "Năm nay, nó làm Hán Cao Tổ rồi!" Vì Hán Cao Tổ họ LƯU 劉 tên BANG 邦. là từ đồng âm với LƯU BAN là ở lại lớp, nên ở lại lớp là được làm Hán Cao Tổ !
Chữ BAN 班 nầy khi là Danh từ thì có nghĩa là LỚP, NHÓM, là PHÒNG BAN trong một Công Ty. Phân BAN trong trường học cũng là chữ BAN nầy. Sau 1975, có một từ mới xuất hiện trong trường học, đó là từ LƯU BAN 留班 : là Ở lại lớp, nên em nào cuối năm không đủ điểm lên lớp, thì các bạn lại nhạo rằng: "Năm nay, nó làm Hán Cao Tổ rồi!" Vì Hán Cao Tổ họ LƯU 劉 tên BANG 邦. là từ đồng âm với LƯU BAN là ở lại lớp, nên ở lại lớp là được làm Hán Cao Tổ !
29. BỘ VÔ 毋 :
VÔ 毋 : là Đừng, là Không Nên, đây là dạng chữ Tượng Hình Chỉ Sự.
Ta thấy :
Chữ VÔ là do chữ NỮ diễn tiến mà thành. Hai chữ đầu là NỮ 女, từ chữ thứ 3 trở đi, chữ NỮ được gạch thêm một nét ở giữa, hàm ý là cô gái nầy bị ăn hiếp, mà hiếp đáp phái nữ là việc không nên làm. Nên chữ NỮ 女 có thêm một gạch thọt vào là chữ VÔ 毋, có nghĩa : KHÔNG NÊN là thế. Nhưng ...
Theo đà diễn tiến của văn tự, chữ VÔ 毋 là Không Nên nầy dần dà cũng có nghĩa như chữ VÔ 無 là Không Có. Và 2 chữ nầy đều thông dụng ngang nhau. Ta có các từ thường gặp như :
VÔ VỌNG NGÔN 毋妄言 : có nghĩa là Chớ Nói Càn! là Không nên nói bậy. Người Miền Nam nói là: Đừng nói sảng!
VÔ VỌNG CHI PHÚC 毋望之福 : là Cái Phước không có mong mỏi mà lại đến. Tương tự, ta cũng có câu :
VÔ VỌNG CHI TAI 毋望之災 : là Cái Tai họa không mong mỏi mà lại đến, có nghĩa là: Tai họa ập đến bất ngờ!
VÔ DỰC NHI PHI 毋翼而飛 : Ta nói là Không cánh mà bay!
NINH VI KÊ KHẨU, VÔ VI NGƯU HẬU 寧為雞口,毋為牛後 :
Có nghĩa : Thà làm mỏ gà chớ không nên làm đuôi trâu, hay Thà làm đầu gà (nhỏ, nhưng mà là ĐẦU : Sạch sẽ) chớ không làm đít trâu (tuy lớn, nhưng mà là ĐÍT : Dơ bẩn).
Tiêu biểu cho bộ VÔ 毋 có chữ :
MỖI 每 : Đây là từ Hán Việt được Nôm Hóa hẵn, nên MỖI cũng có nghĩa là MỖI, như :
MỖI NHẬT 每日 là Mỗi Ngày. MỖI NHÂN 每人 là Mỗi Người. MỖI NIÊN 每年 là Mỗi Năm, MỖI TỔ 每组 là mỗi Nhóm...
MỖI MỖI 每每 :Trạng từ, có nghĩa : Luôn Luôn, Thường Thường.
Chữ MỖI làm ta nhớ đến bài thơ KHÚC GIANG của Đỗ Phủ, xuất xứ của câu "Nhân sinh thất thập cổ lai hi" như sau :
曲 江 KHÚC GIANG
【其一】 Bài 1.
一片花飛減卻春, Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân,
風飄萬點正愁人。 Phong phiêu vạn điểm chánh sầu nhân.
且看欲盡花經眼, Thả khan dục tận hoa kinh nhãn,
莫厭傷多酒入唇。 Mạc yếm thương đa tửu nhập thần .
江上小堂巢翡翠, Giang thượng tiểu đường xào phỉ thúy,
苑邊高塚臥麒麟。 Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân.
細推物理須行樂, Tế suy vật lý tu hành lạc,
何用浮名絆此身.? Hà dụng phù danh bạn thử thân?.
【其一】 Bài 1.
一片花飛減卻春, Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân,
風飄萬點正愁人。 Phong phiêu vạn điểm chánh sầu nhân.
且看欲盡花經眼, Thả khan dục tận hoa kinh nhãn,
莫厭傷多酒入唇。 Mạc yếm thương đa tửu nhập thần .
江上小堂巢翡翠, Giang thượng tiểu đường xào phỉ thúy,
苑邊高塚臥麒麟。 Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân.
細推物理須行樂, Tế suy vật lý tu hành lạc,
何用浮名絆此身.? Hà dụng phù danh bạn thử thân?.
【其二】 Bài 2.
朝回日日典春衣, Triều hồi nhật nhật điển xuân y,
每日江頭盡醉歸。 MỖI NHẬT giang đầu tận túy quy.
酒債尋常行處有, Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
人生七十古來稀。 NHÂN SANH THẤT THẬP CỔ LAI HY.
穿花蛺蝶深深見, Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm kiến,
點水蜻蜓款款飛。 Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi.
傳語風光共流轉, Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
暫時相賞莫相違。? Tạm thời tương thưởng mạc tương vi ?
杜甫 Đỗ Phủ.
GHI CHÚ :
(1) 减却春:Giảm khước xuân: Xuân sắc bị giảm đi.
(2) 万点:Vạn điểm: Chỉ muôn ngàn hoa rụng, rụng rất nhiều.
(3) 且: Thả: là Liên từ, có nghĩa là Hãy. 经眼:Kinh nhãn : ngang qua trước mắt.
(4) 伤:Thương: là thương cảm, xúc động. 巢翡翠:Xào Phỉ Thúy: Là Chim Phỉ Thúy làm ổ. Chữ XÀO là Cái Ổ, ở đây là Động từ, nghĩa là Làm ổ.
(5) 苑:Uyển: Là Vườn hoa (Vườn trồng toàn hoa Phù Dung cạnh bên Khúc giang) 冢 : Chủng: Gò đất cao, ở đây chỉ các phần mộ xưa.
(6) 细推 Tế suy : Là Suy luận cho cặn kẽ, tới nơi tới chốn.
(7) 物理:Vật lý : Cái Lý lẻ của sự vật, sự việc.
(8) 浮名: Phù danh : Là Hư danh.
(9) 朝回: Triều hồi : Là Đi chầu Vua về. 典:Điển : Cầm cố.
(10) 债 : Trái : là Nợ. Tửu trái : là Nợ Rượu chè ( Chớ không phải Nợ Cơm áo). 行处:Hành xứ: là Khắp nơi.
(11) 蛱蝶: Giáp Điệp: Các loài bướm nhỏ thường bay lượn, tìm hút nhụy trong các khóm hoa .
(12) 蜻蜓: Thanh Đình: Con Chuồn Chuồn.
(13) 风光: Phong Quang: Quang cảnh của mùa xuân. 共流转 Cộng Lưu Chuyển: Cùng qua lại, chuyển động, Có nghĩa là cùng thưởng ngoạn cảnh trí đẹp đẽ.
(1) 减却春:Giảm khước xuân: Xuân sắc bị giảm đi.
(2) 万点:Vạn điểm: Chỉ muôn ngàn hoa rụng, rụng rất nhiều.
(3) 且: Thả: là Liên từ, có nghĩa là Hãy. 经眼:Kinh nhãn : ngang qua trước mắt.
(4) 伤:Thương: là thương cảm, xúc động. 巢翡翠:Xào Phỉ Thúy: Là Chim Phỉ Thúy làm ổ. Chữ XÀO là Cái Ổ, ở đây là Động từ, nghĩa là Làm ổ.
(5) 苑:Uyển: Là Vườn hoa (Vườn trồng toàn hoa Phù Dung cạnh bên Khúc giang) 冢 : Chủng: Gò đất cao, ở đây chỉ các phần mộ xưa.
(6) 细推 Tế suy : Là Suy luận cho cặn kẽ, tới nơi tới chốn.
(7) 物理:Vật lý : Cái Lý lẻ của sự vật, sự việc.
(8) 浮名: Phù danh : Là Hư danh.
(9) 朝回: Triều hồi : Là Đi chầu Vua về. 典:Điển : Cầm cố.
(10) 债 : Trái : là Nợ. Tửu trái : là Nợ Rượu chè ( Chớ không phải Nợ Cơm áo). 行处:Hành xứ: là Khắp nơi.
(11) 蛱蝶: Giáp Điệp: Các loài bướm nhỏ thường bay lượn, tìm hút nhụy trong các khóm hoa .
(12) 蜻蜓: Thanh Đình: Con Chuồn Chuồn.
(13) 风光: Phong Quang: Quang cảnh của mùa xuân. 共流转 Cộng Lưu Chuyển: Cùng qua lại, chuyển động, Có nghĩa là cùng thưởng ngoạn cảnh trí đẹp đẽ.
(14) 相赏: Tương Thưởng: Cùng Thưởng ngoạn. 莫 Mạc : là Đừng. 相违: Tương Vi : Cùng để lở mất. (Cái gì đó...).
DỊCH NGHĨA :
Bài 1.
Chỉ vỏn vẹn một cánh hoa bay mà thôi, mùa xuân cũng đã bị giảm mất đi rồi, huống hồ, gió thổi làm cho muôn ngàn cánh hoa cùng bay phất phơ một lúc, làm cho lòng người tiếc xuân buồn muốn thúi ruột, khi mắt trông xuân sắp tàn, ngàn hoa rơi rụng trước mắt. Thôi cũng đừng sầu thương quá mà hãy cùng mềm môi với chén rượu nầy. Hãy nhìn cảnh trí trước mắt, họa đường lộng lẫy ngày xưa, thì nay chim phỉ thúy đã làm tổ trên rường, và những gò nổng phần mộ ngày nào uy nghi, nghiêm cẩn thì nay tượng kỳ lân đã ngã đỗ nằm cạnh bên. Nên suy cho cùng về lý lẽ thịnh suy tiêu trưởng của sự vật, sự việc trên đời, thì ta nên hành lạc, vui chơi thoải mái, chớ... sao lại vì những cái hư danh không đâu mà trói buộc tấm thân nầy ?!
Bài 1.
Chỉ vỏn vẹn một cánh hoa bay mà thôi, mùa xuân cũng đã bị giảm mất đi rồi, huống hồ, gió thổi làm cho muôn ngàn cánh hoa cùng bay phất phơ một lúc, làm cho lòng người tiếc xuân buồn muốn thúi ruột, khi mắt trông xuân sắp tàn, ngàn hoa rơi rụng trước mắt. Thôi cũng đừng sầu thương quá mà hãy cùng mềm môi với chén rượu nầy. Hãy nhìn cảnh trí trước mắt, họa đường lộng lẫy ngày xưa, thì nay chim phỉ thúy đã làm tổ trên rường, và những gò nổng phần mộ ngày nào uy nghi, nghiêm cẩn thì nay tượng kỳ lân đã ngã đỗ nằm cạnh bên. Nên suy cho cùng về lý lẽ thịnh suy tiêu trưởng của sự vật, sự việc trên đời, thì ta nên hành lạc, vui chơi thoải mái, chớ... sao lại vì những cái hư danh không đâu mà trói buộc tấm thân nầy ?!
Bài 2.
Từ giả buổi chầu vua đi ra là đi cầm ngay chiếc áo mùa xuân ( để mua rượu uống ). Mỗi ngày đều say khước từ đầu sông Khúc giang đi về. Nợ rượu chè thì nơi nào cũng có được. Nhưng , người đời sống đến bảy mươi tuổi thì xưa nay rất hiếm. Hãy nhìn xem kìa, đàn bướm nhỏ đang bay lượn trong khóm hoa, và lủ chuồn chuồn đang lượn bay đùa giởn trên mặt nước. Cảnh trí đẹp là thế, sao không bảo nhau mà cùng thưởng ngoạn, đừng bỏ lở mất những giờ khắc quý giá, mà phí cả cuộc đời !
DIỄN NÔM :
Bài 1.
Một cánh hoa rơi xuân hết sang,
Muôn ngàn hoa tạ báo xuân tàn.
Mắt trông hoa rụng lòng tê tái,
Môi nhắp rượu nồng dạ xốn xang.
Phỉ Thúy chọn rường xây tổ ấm ,
Kỳ lân gò nổng ngã nghiêng tàn.
Suy cho cặn kẽ nên hành lạc,
Sao để hư danh trói buộc ràng ?.
Lục bát :
Hoa rơi một cánh xuân tàn,
Đau lòng hoa rụng muôn ngàn xót xa.
Hoa bay trước mắt la đà,
Rượu mềm môi đắng lòng già tiếc thương.
Tổ êm phỉ thúy chọn rường,
Gò cao nghiêng ngã bên vườn kỳ lân.
Ăn chơi, suy kỹ, cân phân,
Hư danh trói buộc tấm thân ích gì ?.
Bài 1.
Một cánh hoa rơi xuân hết sang,
Muôn ngàn hoa tạ báo xuân tàn.
Mắt trông hoa rụng lòng tê tái,
Môi nhắp rượu nồng dạ xốn xang.
Phỉ Thúy chọn rường xây tổ ấm ,
Kỳ lân gò nổng ngã nghiêng tàn.
Suy cho cặn kẽ nên hành lạc,
Sao để hư danh trói buộc ràng ?.
Lục bát :
Hoa rơi một cánh xuân tàn,
Đau lòng hoa rụng muôn ngàn xót xa.
Hoa bay trước mắt la đà,
Rượu mềm môi đắng lòng già tiếc thương.
Tổ êm phỉ thúy chọn rường,
Gò cao nghiêng ngã bên vườn kỳ lân.
Ăn chơi, suy kỹ, cân phân,
Hư danh trói buộc tấm thân ích gì ?.
Bài 2.
Tan chầu cầm quách áo xuân hồng,
Say khướt trở về với bến sông.
Nợ rượu khắp nơi đều có được,
Người đời bảy chục hiếm xưa không.
Kìa đàn bướm nhỏ vờn hoa dại,
Nọ lũ chuồn chuồn bởn nước trong.
Cảnh đẹp khuyên ai cùng tận hưởng,
Hoa tàn cảnh tạ khỏi hoài công !
Lục bát :
Tan chầu cầm quách áo xuân,
Mỗi ngày túy lúy đầu sông đi về.
Khắp nơi nợ rượu bề bề ,
Người đời bảy chục hiếm hề xưa nay.
Hãy xem đàn bướm lượn bay,
Chuồn chuồn giởn nước khoan thai bay về.
Thiên nhiên cảnh trí bốn bề,
Sao không thưởng ngoạn còn chê chỗ nào ?! Đỗ Chiêu Đức.
Say khướt trở về với bến sông.
Nợ rượu khắp nơi đều có được,
Người đời bảy chục hiếm xưa không.
Kìa đàn bướm nhỏ vờn hoa dại,
Nọ lũ chuồn chuồn bởn nước trong.
Cảnh đẹp khuyên ai cùng tận hưởng,
Hoa tàn cảnh tạ khỏi hoài công !
Lục bát :
Tan chầu cầm quách áo xuân,
Mỗi ngày túy lúy đầu sông đi về.
Khắp nơi nợ rượu bề bề ,
Người đời bảy chục hiếm hề xưa nay.
Hãy xem đàn bướm lượn bay,
Chuồn chuồn giởn nước khoan thai bay về.
Thiên nhiên cảnh trí bốn bề,
Sao không thưởng ngoạn còn chê chỗ nào ?! Đỗ Chiêu Đức.
Theo thống kê đời Đường(618-907)thì tuổi thọ của con người lúc bấy giờ chỉ vào khoảng 45-50 mà thôi. Nên Thi Thánh Đỗ Phủ mới hạ câu "Nhân sanh thất thập cổ lai hi" (Người đời bảy chục xưa nay hiếm). Hiện nay thì do khoa học và Y học đều tiến bộ vượt bực, nên sống đến 70 tuổi là chuyện thường tình. Nhưng do thói quen, hễ nhắc đến "Tuổi CỔ LAI, Tuổi CỔ HI hay Tuổi CỔ LAI HI" gì là người ta biết ngay là đã thọ được 70 tuổi rồi !
Để kết thúc bài viết nầy, xin mời tất cả cùng "ra tay" với câu đố chữ sau đây :
Gia hữu thất khẩu, 家有七口,
Chủng điền nhất mẫu. 種田一畝。
Túc dĩ dưỡng gia, 足以養家,
Hoàn thiêm nhất cẩu ! 還添一狗。
Có nghĩa :
Nhà có bảy nhân khẩu,
Ruộng trồng được một mẫu.
Đủ nuôi sống cả nhà,
Còn nuôi thêm con...cẩu !
Bốn câu trên ghép thành một chữ, mời tất cả cùng đoán xem đó là chữ gì ?!
Xin hẹn bài viết tới: Phần cuối của các bộ 4 nét
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét