Tống Nhân - Nguyễn Du
1. Nguyên bản chữ Hán cổ của bài thơ:
送人 TỐNG NHÂN
香芹官道柳青青, Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh,
江北江南無限情。 Giang bắc giang nam vô hạn tình
上苑鶯嬌多妒色, Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc
故鄉蓴老尚堪羹。 Cố hương thuần lão thượng kham canh.
朝庭有道成君孝, Triều đình hữu đạo thành quân hiếu,
竹石多慚負爾盟。 Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh.
惆悵深宵孤對影, Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh
滿床滯雨不堪聽。 Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh.
阮攸 Nguyễn Du
2. Chú Thích :
* Tống nhân : là Tiễn người đi.
* Hương Cần : là Tên một làng cách Huế chừng bốn cây số về phía bắc. Con đường thiên lý chạy ngang qua đó. Làng nổi tiếng về quýt.
* Quan Đạo : là Đường cái quan.
* Đa Đố Sắc : là Nhiều sắc thái ganh tị nhau; Hay ganh ghét nhau vì sắc đẹp. Ám chỉ các quan triều nhà Nguyễn thời bấy giờ, vì ganh tị nhau mà hãm hại nhau. Như vụ Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, vụ Lê Chất, Đặng Trần Thường, v.v...
* Thuần Lão : là Rau Thuần đã già. Thuần là một loại rau bình dân như rau đắng, rau ngổ hiện nay. Trong Truyện Kiều tả lúc Thúc Sinh về nhà thăm Hoạn Thư lâu ngày nên cũng chán, cụ Nguyễn Du đã viết:
Thú quê Thuần Hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
* Thành Quân Hiếu: là Thành toàn cho sự hiếu thảo của anh. Theo ý câu này thì người bạn của Nguyễn Du đưa tiễn được triều đình cho cáo quan về phụng dưỡng cha mẹ già.
* Trúc Thạch: là Tre với Đá, là Thú ẩn dật. Đã cùng khóm trúc tảng đá hẹn hò chung sống với nhau thế mà đành phụ để ra làm quan. MINH 盟: là Hứa hẹn, là Hẹn ước nhau.
* Trù Trướng : là Thẩn thờ, Bồi hồi, Do dự không quyết.
* Mãn Sàng Trệ Vũ : là Mưa nặng hạt nên nước mưa còn đọng lại trên giường ngủ.
3. Nghĩa Bài Thơ :
TIỄN NGƯỜI ĐI
Trên đường cái quan Hương Cần liễu rũ xanh xanh. Kẻ phía bắc sông, người phía nam sông, ta tiễn người đi với cái tình vô hạn. Mặc cho những con oanh kiều diễm trong vườn vua ghen ghét nhau vì sắc đẹp. Ta vẫn cứ khư khư với rau thuần già nơi quê cũ vẫn còn nấu được canh. Triều đình có đạo nghĩa mới khiến cho anh tròn chữ hiếu. Còn ta, ta rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi lời thề cùng nhau ở ẩn. Nên thẩn thờ ảo não một mình đối bóng trong đêm khuya. Không buồn nghe tiếng mưa dầm đầy giường cứ rả rít mãi trong đêm.
TIỄN NGƯỜI ĐI
Trên đường cái quan Hương Cần liễu rũ xanh xanh. Kẻ phía bắc sông, người phía nam sông, ta tiễn người đi với cái tình vô hạn. Mặc cho những con oanh kiều diễm trong vườn vua ghen ghét nhau vì sắc đẹp. Ta vẫn cứ khư khư với rau thuần già nơi quê cũ vẫn còn nấu được canh. Triều đình có đạo nghĩa mới khiến cho anh tròn chữ hiếu. Còn ta, ta rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi lời thề cùng nhau ở ẩn. Nên thẩn thờ ảo não một mình đối bóng trong đêm khuya. Không buồn nghe tiếng mưa dầm đầy giường cứ rả rít mãi trong đêm.
Bài thơ này vừa tả tình biệt ly vừa tả nỗi lòng chua xót cho thân phận. Lại vừa tả cảnh đêm tiễn bạn đi, vừa tả cảnh tác giả đương sống ở kinh đô vì buộc lòng phải ra làm quan... Qủa là một tình cảnh và tâm lý hỗn độn như cõi lòng của tác giả đang hỗn độn vậy.
4. Diễn Nôm :
TIỄN NGƯỜI ĐI
Hương Cần quan đạo liễu xanh che,
Giang bắc giang nam tình chẳng e.
Thượng uyển oanh vàng ganh tiếng hót,
Cố hương rau dại nấu canh me.
Triều đình nhân đức thương người hiếu
Trúc thạch thẹn thùa phụ nghĩa tre.
Trù trướng canh chầy đèn đối bóng,
Mãn sàng mưa dột chẳng buồn nghe !*
Lục bát :
Hương Cần đường liễu xanh xanh,
Giang nam giang bắc tiễn anh lên đường.
Oanh ca Thượng Uyển tranh thương,
Rau Thuần già cỗi cố hương vẫn tình.
Triều đình thương kẻ hiếu kinh,
Thẹn cùng trúc thạch đã minh ước nguyền.
Thẩn thờ một bóng không yên,
Chẳng buồn nghe tiếng mưa xuyên ướt giường!
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét