BÌNH là Bằng, Bình là Bèo, Bình là Bình Phong, Bình là Cái Bình...Trong Văn học cổ và Thành ngữ, ta phải xem chữ theo sau của BÌNH là chữ gì, thì mới biết chính xác nghĩa của chữ BÌNH, như:
BÌNH AN 平安: Bình là Bằng, là ngang nhau, là không có gì đặc biệt; còn AN là Yên, là Ổn, là không có gì xảy ra. nên BÌNH AN là chỉ cuộc sống yên ổn bình thường, không có biến động, không có tai nạn bệnh tật... Như câu chúc mà ta thường nghe là: Chúc cho Cuộc sống Bình An, Thượng lộ Bình An... và như câu thường nghe của các tín đồ Công Giáo, Tin Lành:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình An dưới thế cho người thiện tâm !
Bình là Bèo, thì ta có câu thành ngữ thường dùng là BÌNH THỦY TƯƠNG PHÙNG 萍水相逢. Ta nói là "Bèo nước gặp nhau". Tất cả các loại bèo đều nổi trôi trên mặt nước, nên Bèo Nước gặp nhau chỉ sự gặp gỡ hời hợt giữa đường, sự gặp gỡ tình cờ không có ý định và sắp xếp trước, sự gặp gỡ tự nhiên chẳng hẹn hò... Đây là một trong những câu nổi tiếng nhất của Vương Bột 王勃, một trong Tứ Kiệt của buổi sơ Đường đã viết trong bài Đằng Vương Các Tự 滕王閣序, nguyên văn như sau:
關山難越,誰悲失路之人;
Quan sơn nan việt, thùy bi thất lộ chi nhân;
萍水相逢,盡是他鄉之客。
BÌNH THỦY TƯƠNG PHÙNG, tận thị tha hương chi khách.
Có nghĩa :
Núi non khó vượt, ai thương người lỡ bước sa chân;
Bèo Nước Gặp Nhau, đều là kẻ tha hương đất khách.
Truyện Nôm Hoa Tiên và Bèo Nước Gặp Nhau
Trong truyện Nôm Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện, diễn tả mối tình tay ba giữa Lương Sinh (Lương Phương Châu) và Dương Dao Tiên với Lưu Ngọc Khanh cũng có câu:
May đâu Bèo Nước Gặp Nhau,
Thôi thì Hợp Phố cho Châu lại về.
Bình là cái Bình Phong 屏風, dùng để che chắn phía trước phòng khách, nên có thường có vẽ hoa văn phong cảnh với các mây màu ngũ sắc cho đẹp, vì thế còn được gọi là VÂN BÌNH 雲屏, như trong bài thơ VỊ HỮU 為有 nổi tiếng của Lý Thương Ẩn 李商隱 đời Đường như sau:
Vị hữu VÂN BÌNH vô hạn kiều, 爲有雲屏無限嬌,
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu. 鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc kim qui tế, 無端嫁得金亀婿,
Cô phụ hương khâm sự tảo triều. 辜負香衾事早朝 .
Có nghĩa :
Vì có Bình Phong đẹp lắm mầu
Kinh thành hết lạnh, sợ canh thâu
Khéo xui lấy được ngài quan lớn
Phụ bạc gối chăn, sớm phải chầu !
Lục Bát :
Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
Vô duyên lấy phải quan ngài
Gối chăn bỏ hết mặc ai… đi chầu !
Bình 瓶 là Cái Bình, cái chai lọ dễ vỡ, nên ta thường nghe câu THỦ KHẨU NHƯ BÌNH 守口如瓶. Có nghĩa: Giữ mồm giữ miệng như giữ cái bình dễ vỡ. Ý nói là đừng phát ngôn bừa bãi hay là phải giữ kín một chuyện gì đó, theo như một câu nói trong Minh Tâm Bửu Giám:
守口如瓶, Thủ khẩu như bình,
防意如城。 Phòng ý như thành.
Có nghĩa :
Giữ miệng như giữ miệng bình được nhét kín,
Đề phòng mọi việc như tướng giữ thành đề phòng quân địch.
Câu nói trên có xuất xứ từ đời Tống, tập hạ của "Quý Tân Tạp Thức Biệt Tập" cuả Chu Mật: "Phú Trịnh Công có câu nói: Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành" 宋·周密《癸辛杂识别集》下:“富郑公有‘守口如瓶,防意如城’之语.” Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, khi Thúy Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả là Hoạn Thư đã dặn Thúc rằng: "Đôi ta chút nghĩa đèo bồng, đến nhà trước liệu nói sòng cho minh!" Nhưng khi "Chàng về xem ý tứ nhà, Sự mình cũng rắp lân la tỏ bày. Mấy phen cười nói tỉnh say, Tóc tơ chẳng động mảy may sự tình", nên Thúc mới:
Nghĩ đà Bưng Kín Miệng Bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
守口如瓶 Thủ khẩu như bình
Nhưng, thường thì BÌNH 平 là BẰNG, như Bình Địa 平地 là Đất Bằng, là cuộc đất bằng phẵng, yên ổn, không lồi lõm, không biến động, khác với thành ngữ mà ta hay gặp phải trong văn học cổ là BÌNH ĐỊA BA ĐÀO 平地波濤. BA 波 là những gợn sóng nhỏ, ĐÀO 濤 là những đợt sóng lớn, nên Bình Địa Ba Đào ta nói là ĐẤT BẰNG NỔI SÓNG! Chỉ đang sống yên ổn bỗng đột nhiên xảy ra những tai nạn hoặc nguy hiễm không thể lường trước được. Như gia đình của Vương Viên Ngoại đang sống yên ổn, bỗng bị thằng bán tơ đổ oan cho phải tội, đến nổi Thúy Kiều phải bán mình chuộc tội cho cha mới nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, để đến khi đoàn tụ, lúc "Tàng tàng chén cúc dỡ say" thì Thúy Vân lại kể lể:
Gặp cơn Bình Địa Ba Đào,
Lại đem duyên chị buộc vào duyên em.
... và khi Thúc Sinh đã chuộc Thúy Kiều từ lầu xanh về, đang sống hạnh phúc bên nhau, bỗng Thúc Ông về đến "Phong lôi nổi trận bời bời, nặng lòng e ấp tính bài phân chia" Thúc Sinh không chịu, cho nên "Sốt gan ông mới cáo quỳ cửa công", để đến nổi:
Đất Bằng Nổi Sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra .
BÌNH còn là BÌNH KHANG 平康, không phải là Bình An Khang Thái (bình yên mạnh khỏe) mà là tên của một phường trong thành Trường An đời Đường. Bình Khang thuộc phường thứ 5, nằm từ bắc sang nam, đông giáp Đông Thị, bắc giáp phường Sùng Nhân, nam giáp phường Tuyên Dương, đều là những phường ăn chơi náo nhiệt, nằm quanh khu Thượng Thư Quan Thự, nơi chuyên tiếp các sứ thần, quan lại, sĩ tử... về kinh ứng thí hoặc công vụ, nên rất nhộn nhịp. Căn cứ ghi chép của "Khai Nguyên Thiên Bảo Di Sự" quyển 2: Trường An có phường Bình Khang là nơi ở của các kỹ nữ và các chàng du hiệp đều tụ tập nơi đây... Người đương thời gọi đó là Phường Phong Lưu trác táng. Cho nên gọi phường Bình Khang là Khu Lồng Đèn Đỏ. (据《开元天宝遗事》卷二载:“长安有平康坊者,妓女所居之地,京都侠少,萃集于此。……时人谓此坊为风流薮泽。”所以说平康坊是红灯区).
Trong Truyện Kiều, khi Thúc Sinh muốn chuộc Thúy Kiều về làm vợ, Kiều biết thân biết phận của mình nên đã nói với Thúc Sinh rằng:
Bình Khang nấn ná bấy lâu,
Yêu hoa yêu được một mầu điểm trang.
Rồi ra nhạt phấn phai hương,
Lòng kia giữ được thường thường mãi chằng?!
BÌNH THÀNH 平成 là Địa bình Thiên thành 地平天成, theo sách Thượng Thư Đại Vũ Mạc《尚书·大禹谟:Điạ bình thiên thành, lục phủ tam sự doãn trị, vạn thế vĩnh lại, thời nãi công “地平天成,六府三事允治,万世永赖,时乃功。Có nghĩa: "Khiến cho đất được bình trị, trời được lập thành, sáu phủ ba việc đều được ổn định, muôn đời sau đều nhờ vào đó, đó chính là công của nhà ngươi đó!" Vốn chỉ công lao của vua Hạ Vũ trị thủy thành công, làm cho vạn vật được ổn định mà sanh sôi nẩy nở. Sau thường dùng để chỉ chế độ vua chúa nào đó có công lao làm cho đất nước được thịnh trị, dân chúng có được đời sống yên ổn, an cư lạc nghiệp.
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã dùng tích nầy để cho Thúy Kiều lấy cớ mà khuyên Từ Hải về với triều đình đừng làm một loạn tướng nữa:
Rằng: “ Ơn Thánh đế dồi dào,
Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
BÌNH THÀNH công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
Vua Vũ trị thủy Kiều khuyên Từ Hải quy hàng
Bình Nguyên 平原 là Đồng Bằng, nhưng Bình Nguyên Quân 平原君 là một nhân vật nổi tiếng thời Xuân Thu Chiến Quốc...
BÌNH NGUYÊN QUÂN 平原君 (?-251 TCN) Họ Triệu tên Thắng, con trai của Triệu Võ Linh Vương, em trai của Triệu Huệ Văn Vương, làm Tể Tướng của hai đời vua Triệu Huệ Văn Vương và Triệu Hiếu Thành Vương, là một chính trị gia nổi tiếng của thời Chiến Quốc, rất hào hiệp và biết trọng kẻ sĩ, trong nhà luôn luôn nuôi ba ngàn thực khách, cùng nổi tiếng ngang hàng với Mạnh Thường Quân Điền Văn của nước Tề, Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ của nước Ngụy, và Xuân Thân Quân Hoàng Yết của nước Sở. Bốn người được hợp xưng là Chiến Quốc Tứ Công Tử. Đứng đầu Tứ Công Tử là Mạnh Thường Quân hay cứu khổn phò nguy, cứu giúp người trong cơn nguy biến, nên ba chữ MẠNH THƯỜNG QUÂN còn được sử dụng cho đến hiện nay để chỉ những người nhiệt tâm hay làm từ thiện. Còn Bình Nguyên Quân là người luôn biết lắng nghe người khác và hiểu được năng lực tài trí của đối phương. Trong một bài thơ Thất Ngôn cổ phong của nhà thơ Cao Thích đời Đường có câu:
未知肝膽向誰是, Vị tri can đãm hướng thùy thị,
令人卻憶平原君. Lệnh nhân khước ức Bình Nguyên Quân.
Có nghĩa :
Chưa biết phải đem gan ruột gởi gắm cùng ai đây, nên...
Khiến cho người ta lại nhớ đến Bình Nguyên Quân.
( Nỗi lòng biết tỏ cùng ai,
Bình Nguyên Quân khiến cho người nhớ xưa )
Khi Kiều gặp Từ Hải với tướng mạo uy vũ hiên ngang đã đoán rằng "Tấn Dương được thấy mây rồng có phen" (Ý nói Từ có thể làm nên nghiệp đế), thì cụ Nguyễn Du nhà ta cũng đã mượn ý hai câu thơ của Cao Thích nêu trên để cho Từ Hải tỏ lòng tri kỷ với Thúy Kiều là:
Từ rằng: "Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.
Lại đây xem lại cho gần,
Phỏng tin được một vài phần hay không?"
Cuối cùng, xin mời cùng đọc một giai thoại văn chương có liên quan đến chữ BÌNH của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến, như sau:
Tương truyền, có một anh nhà quê dốt đặc, nhưng nhờ đi lính cho Tây, có công trấn áp các lực lượng yêu nước người Việt, nên được Tây đề nghị triều đình sắc phong cho hàm cửu phẩm. Phú qúy về làng, vênh váo với bà con chòm xóm, đãi tiệc ăn mừng. Có rất nhiều người a dua chúc tụng, có một anh mang lễ vật đến nhờ cụ Tam Nguyên làm cho một câu đối để mừng. Được dịp cụ Tam Nguyên bèn viết câu đối chữ như sau:
兵平西於斯赦賜, Binh bình tê ư tư sắc tứ,
歸貴喝嗚呼懸弧。 Quy qúy hát ô hô huyền hồ.
Có nghĩa :
- Vế đầu: Loạn binh đã được bình định, Thằng Tây vì việc nầy mà ban cho sắc phong, (Chữ TÊ là đọc trại đi của chữ TÂY 西, Ư TƯ 於斯 là Ở đây, là Vì việc nầy, SẮC 赦 là Sắc phong, TỨ 賜 là Ban cho).
- Vế sau : Trở về được phú qúy, nhưng than ôi như cây cung bị treo lên (vì hết công dụng rồi!) HÁT 喝 là Tiếng hét, Ô HÔ 嗚呼 là tiếng than, HUYỀN 懸 là treo, HỒ 弧 là Cây cung.
Câu đối thâm ở chỗ nhạo anh nhà quê kia nhờ đàn áp đồng bào ruột thịt mà được Tây đề nghị sắc phong, và bây giờ thì đã hết công dụng rồi bị treo lên như là cây cung khi đã hết chim vậy; câu đối còn hay ở chỗ cười nhạo anh ta mới lõm bõm học đánh vần chữ Quốc Ngữ, thứ chữ mà lúc bấy giờ mọi người đều căm ghét vì cho là chữ ngoại lai của quân xâm lược.
Phần trên đây là kể theo "Giai thoại văn chương Việt Nam" của Thái Bạch do Nhà xuất bản SÀI GÒN xuất bản năm 1957. Nhưng ...
Theo "thoduongdatviet.com › Tin tức › Vui với Đường thi" trên web. thì câu đối trên đây là của cụ Bùi Bằng Đoàn, lúc đó đang làm Tri phủ Thái Bình, mà ở Thái Bình có một tay lính đi Tây về sau khi có dự phần vào Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918), được vua ban hàm Bát phẩm, tay ấy liền mở tiệc để ăn khao. Bà con khách khứa tới dự rất đông, có người đến nhờ cụ Bùi Bằng Đoàn làm câu đối để mừng. Cụ đã viết câu đối như thế nầy:
Tiếp tiệp hoan hoàn, tê ư tư sắc tứ;
接捷歡還,西於斯赦賜;
Binh bình thoái thoại, hát ô hô huyền hồ.
兵平退話,喝嗚呼懸弧。
Có nghĩa :
TIẾP 接 là Tiếp theo, TIỆP 捷 là Thắng trận, HOAN 歡 là Vui, HOÀN 還 là Về, nên
- Vế đầu : Tiếp theo sự thắng trận vui vẻ về quê, Thằng Tây vì việc nầy mới ban cho sắc phong;
BINH BÌNH 兵平 là Việc binh đã được bình định, THOÁI 退 là Lui về, THOẠI 話 là Nói năng (ở đây có nghĩa là Khoe Khoang), nên
- Vế sau : Việc binh đã yên nên lui về để khoe khoang, (đâu biết rằng) Hỡi ôi, mình như cây cung đã bị treo lên rồi!
GTVCVN Thái Bạch Cụ Bùi Bằng Đoàn
Truyện kể thì theo các tư liệu nêu trên, nhưng phần chú thích giải nghĩa là của Đỗ Chiêu Đức chịu trách nhiệm.
Hẹn bài viết tới !
Đỗ Chiêu Đức