BÀI GIỚI THIỆU VÀ PHÊ BÌNH TÁC PHẨM “CHỮ HÁN, TIẾNG HÁN VIỆT, VÀ SỰ VẬN DỤNG TIẾNG HÁN VIỆT TRONG TIẾNG VIỆT” (Tiếp theo))
(Tác giả THÁI GIA KỲ)
Nguyễn Đức Cung
III.-
HÁN TỰ & ẢNH HƯỞNG TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA.
Quả
thật cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ giúp tôi trở lại với một số tác giả trước ông,
những bậc thầy trong ngành ngữ học Việt Nam tiền bối như các cụ Trần Trọng Kim,
Bùi Kỷ, Nguyễn Trọng Thuật (tức Đồ Nam Tử), Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn, Linh mục Léopold
Cadière giai đoạn đầu thế kỷ 20, rồi đến các vị như Linh mục Lê Văn Lý, Giáo sư
Trương Văn Chình, học giả Lê Ngọc Trụ, Giáo sư Nguyễn Bạt Tụy, Giáo sư Trần Văn
Toàn ở Miền Nam trước đây vốn là những người đã có công trong việc biên khảo và
xây dựng ngành ngữ học Việt Nam. Ở Miền Bắc có Đào Duy Anh, Nguyễn Tài Cẩn, Lê
Văn Quán… Tại hải ngoại có rất ít người viết về lịch sử ngôn ngữ Việt Nam, tuy
vậy một số tác phẩm cũng được biết đến như của Vũ Thế Ngọc, Duyên Hạc Lê Thái Ất
và nay có tác phẩm của Thái Gia Kỳ, cũng có thể có vài tác giả nữa mà tôi chưa
hân hạnh đọc tới.
Tuy
không đi sâu vào việc nghiên cứu, phân tích ngữ pháp tiếng Việt như sách của Giáo
sư Lê Ngọc Trụ (cuốn Chánh tả Việt ngữ)
hay của Linh mục Lê Văn Lý (cuốn Sơ thảo
ngữ pháp Việt Nam), sách của Giáo sư Nguyễn Bạt Tụy, sách của Giám Mục Hồ
Ngọc Cẩn có tính cách chuyên môn bác học, nhưng đối với độc giả bình thường, cuốn
sách của tác giả Thái Gia Kỳ đem lại nhiều hiểu biết bổ ích chẳng hạn sự du nhập
của chữ Hán vào các quốc gia Đông Á như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam cùng sự
tiếp thu loại văn tự này và ảnh hưởng của nó, thông qua tôn giáo, phổ cập trong
quần chúng tạo nên lịch sử của từng quốc gia. Sự phát minh ra chữ viết gọi là
Hangul (quốc ngữ Triều Tiên) của Thế Tông Đại đế 世
宗 大
帝 (Sejong the Great) cũng là một kỳ tích mà
người dân Triều Tiên luôn luôn hãnh diện. Vấn đề phiên thiết của chữ Hán, hệ thống
Wade-Giles hay Pingyin 拚
音 (phiên âm) hệ thống ‘lục thư’ cung cấp những
hiểu biết cụ thể cho người đọc.
Trong
cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ, tác giả đã dành rất nhiều trang để nói về sự liên
hệ giữa tiếng nói Trường An (tỉnh Thiểm Tây) với tiếng Hán Việt (trang 45, 46)
và thêm rất nhiều trang sách từ trang số 79 trở đi. Ông Thái Gia Kỳ có nhắc đến
quan điểm của một số tác giả đi trước như Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Hữu Phước, nhưng
thật ra quan điểm tiếng Hán Việt xuất phát từ tiếng Trường An cũng đã là quan điểm
của nhiều học giả, nhà nghiên cứu đã đưa ra trước đây rất lâu và cũng còn là vấn
đề cần nhiều sự phản biện, góp ý.
31.-
Chữ Hán và vai trò “văn dĩ tải đạo” trong thế giới hiện đại.
Ở
trang 30, tác giả Thái Gia Kỳ viết: “Nho
giáo chủ trương nhập thế, chủ trương con người sống trong xã hội phải biết
trung hiếu lễ nghĩa trí tín, sống để phục vụ gia đình, xã hội và trên hết là quốc
gia. Chủ trương đó lại vừa đáp ứng được sự mong muốn của các vua chúa phong kiến
muốn dùng nó làm nền tảng, công cụ cai trị dân.”
Đây
là lý do mà các chế độ chính trị ngày nay ở TQ và VN muốn dùng lại Khổng giáo
như là công cụ ổn định tình hình xã hội theo các mô thức thể chế mà nhà cầm quyền
mong muốn với những lợi thế về chữ viết, tư tưởng, văn hóa v.v…
Từ
năm 1935, trong bộ sách The Story of Civilization, sử gia Will Durant cho rằng
chữ Hán “kết hợp được tất cả cư dân của đất
nước Trung Quốc thành một khối sử dụng chung một loại chữ viết; mỗi khu vực đều
có một phương ngữ riêng, cùng một chữ nhưng mỗi tỉnh lại đọc theo một cách. Thật
là một cái lợi cả trong thời gian lẫn không gian; bởi vì văn ngôn về cơ bản không
thay đổi, trong khi ngôn ngữ nói đã chia thành cả trăm phương ngữ, cho nên cổ văn
Trung Quốc viết cách nay trên hai ngàn năm, thì ngày nay người Trung Quốc có học
nào cũng đọc hiểu được, mặc dầu không biết người xưa phát âm các chữ đó ra sao,
hoặc phát biểu các ý tưởng – mà các ký hiệu đó làm biểu tượng – như thế nào.”
(Will Durant, bản dịch Hoàng Ngọc Chiến, tr. 946).
Trong
cuốn “Chữ Hán, tiếng Hán Việt và sự vận dụng tiếng Hán Việt trong tiếng Việt”,
tác giả Thái Gia Kỳ giới thiệu lần lượt một số nhà biên khảo Trung Quốc như Lý
Quốc Kỳ, Nhậm Kế Dũ, hoặc người nước khác như bà Amanda Snellinger, Viễn Sơn Mậu…
cống hiến những hiểu biết về tôn giáo, ngôn ngữ đưa lại một sắc thái mới. Dĩ
nhiên giới thiệu một vài tác giả Trung Hoa viết về sự kết cấu của chữ Hán với độc
giả Việt Nam cũng là một điều hay nhưng thiết tưởng cũng nên nhắc đến các tác
giả Việt Nam gồm nhiều học giả, nhà nghiên cứu sử học, văn học tên tuổi có viết
đến nhiều ít về nguồn gốc Hán tự hay nền văn chương bác học Việt Nam cũng là một
hình thức “bày hàng” làm tăng thêm giá trị và vẻ bề thế của cuốn sách. Có vài nơi,
tác giả TGK chưa lưu ý đến phương pháp sử học khi dẫn chứng một tư liệu, chẳng
hạn, nên ghi tên nhà xuất bản, năm xuất bản,trang dẫn tư liệu v.v… giúp cho độc
giả tiện kiểm chứng nơi mình đang viết, đã đọc.
Cuốn
sách của TGK tuy chỉ có 313 trang nhưng đề cập đến rất nhiều vấn đề không dễ cập
nhật hoặc giải quyết khi tiếp cận với chân lý lịch sử. Điều này nói lên thiện
chí và khả năng của tác giả.
Qua
cuốn sách này, độc giả có dịp thấy rõ vai trò quan trọng của chữ Hán trong việc
tạo dựng một phần lớn nền văn minh cho nhân loại nói chung và Đông Á nói riêng.
Tác giả phải lược qua sự hình thành của chữ Hán trong nhiều giai đoạn lịch sử mà
ở phần trên chúng tôi đã có góp ý. Khi tác giả nêu ra những đề mục như chữ Hán
với Tam giáo (Nho, Phật, Lão) ở Trung Quốc, chủ ý của TGK là muốn nêu lên đời sống
tinh thần của dân tộc Trung Hoa nói chung trong đó có chính quyền và người dân
mà Hán tự được dùng như một công cụ hữu hiệu để chuyển tải nội dung.
Trong
phần nói về chữ Hán ở Triều Tiên và Nhật Bản, tác giả chỉ đề cập tới Phật giáo ở
hai nước này mà không lưu ý đến Lão giáo nằm trong hệ thống Tam giáo rất có ảnh
hưởng ở hai quốc gia này. Một thí dụ là quốc kỳ của Hàn Quốc (Nam Triều Tiên) gồm
hình vẽ Thái cực ở giữa và bốn góc là bốn quẻ dịch lấy trong Kinh Dịch vốn được
các đạo gia thời cổ dùng làm sách bói toán. (Jill DuBois, sách đã dẫn, tr. 74).
Cảm
nhận đầu tiên khi chợt thoáng lướt qua nhan đề cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ là
cảm nhận khô khan khi tác phẩm dẫn người đọc đi vào một lãnh vực kỳ khu, rắc rối
đó là phạm trù ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ chữ Hán. Với vai trò là “văn dĩ tải đạo”
(văn chương dùng để chuyên tải việc đạo đức) chữ Hán ngày xưa dùng để nói về luân
lý, đạo đức tức nghệ thuật sống để làm người cho nên cũng dễ đọc, dễ dạy và cũng
dễ tiếp thu tuy nhiên đó là đối với những người quyết dùng chữ Hán làm con đường
tiến thân qua khoa cử. Trong tác phẩm Chính
đề Việt Nam, ông Ngô Đình Nhu (Tùng Phong) đã viết rằng: “Hoa ngữ là một sinh ngữ biểu ý, mỗi một chữ
ghi một ý niệm. Vì thế cho nên, một người Tàu muốn xử dụng được Hoa ngữ một cách
trung bình phải nằm lòng một số tối thiểu là từ ba ngàn đến bốn ngàn chữ. Sự cố
gắng về lý trí, vượt mức thông thường đó, đã tạo ra một sự tôn sùng nhà nho,
trong xã hội Trung Hoa và xã hội Việt Nam khi xưa. Hoa ngữ hoàn toàn bất lực
khi phải đóng vai trò dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng cho văn hóa” (Nhà
xb. Hùng Vương, Los Angeles, mùa thu 1988, tr. 154). Trong cuốn sách của ông Thái
Gia Kỳ, tác giả cũng đã nêu ra các lý do vì sao “Nho giáo lại được trọng vọng”
nào là chủ trương nhập thế con người phải trung hiếu lễ nghĩa, dạy con người biết
sống lương thiện, lấy Nho giáo làm căn bản giáo dục… (trang 30) mà quên mất một lý do rất thực tế mà ông
Ngô Đình Nhu đã nêu ra, đó là “phải nằm
lòng một số tối thiểu là từ ba đến bốn ngàn chữ. Sự cố gắng về lý trí, vượt mức
thông thường đó.” Người bình dân ít chữ, không được học hay không thể học
được, vì chữ Hán quá khó, nên dành cho người học được Hán tự (nhà Nho) một niềm
trọng vọng, thực tế là như vậy. Đây cũng là quan điểm của một chính khách gần sáu
thập niên về trước, ngày nay so với sự tiến bộ của khoa học trong kỹ thuật máy
vi tính
có thể lỗi thời nhưng qua cuốn sách của tác giả Thái Gia Kỳ, cũng chứng tỏ vẫn
có những con người chịu khó cặm cụi với nghiên cứu, với sách vở để trình bày những
điều mình mong muốn, cũng là một hình thức “văn dĩ tải đạo” vậy là “đạo” đã trở
thành kích thích tố thúc đẩy họ bước theo con đường khó khăn, gai góc này. Nhưng
“đạo” trong cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ là đạo gì và một vấn đề đặt ra chung
cho mọi người Việt Nam là thử hỏi “đạo” của chính quyền TQ hôm nay là “đạo” gì?
Trong tác phẩm Văn Minh Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Huyên có viết: “Mục đích của Nho giáo là trị dân tốt. Đấy là
cái đức của vua, cái ảnh hưởng vua nhận được từ “thiên mệnh” làm cho dân tốt
hay xấu. Khổng Tử nói rằng: “Vua đến gần dân mà nghiêm trang, thì dân sẽ kính cẩn,
vua hiếu thảo và thương người, thì dân sẽ trung thành, vua nâng đỡ người tốt và
dạy dỗ kẻ kém cỏi, thì dân sẽ gắng sức.” Sự thanh bình chỉ có trong xã hội nếu
mỗi người lúc nào cũng làm tròn vai trò mình được giao, và các trách nhiệm của
mình phải gánh vác, “vua phải ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. (Nguyễn Văn Huyên, Sách đã dẫn, tr. 287).
Qua cuốn sách có tên Viết Vu Vơ, ở phần Đọc Đứng Vững Ngàn Năm của Ngô Nhân Dụng, nhà
văn Nguyễn Hưng Quốc có tóm lược quan điểm của Ngô Nhân Dụng về Trung Quốc như
sau: “ Ông nhấn mạnh: Trước thế kỷ 20, Trung Quốc không phải là một dân tộc-quốc
gia (nation-state) và người Trung Quốc cũng không có ý thức về dân tộc. Chữ “quốc”,
trong chữ Hán, được dùng để chỉ một triều đại. Có thể nói, người Trung Quốc tự
bản chất và ngay từ khởi thủy, một mặt, đã có tinh thần “quốc tế chủ nghĩa” không
nhằm xây dựng quốc gia chỉ trên nền tảng sắc tộc; mặt khác, đã mang máu đế quốc,
muốn xây dựng đất nước trên nền tảng tư tưởng “bình thiên hạ”. Tư tưởng dựa trên
“thiên hạ” ấy có ba hệ quả: Một, không bị ngăn cản bởi những sự phân biệt chủng
tộc và sắc tộc, văn minh Trung Hoa dễ bành trướng; hai, người Trung Hoa tương đối
dễ chấp nhận sự thống trị của các dân tộc khác (ví dụ, người Mông Cổ hoặc người
Mãn Thanh) (ít nhất “dễ” hơn so với người Việt Nam); và ba, khi chiếm và đô hộ
Trung Hoa, dưới quan điểm “thiên hạ vi công” (thiên hạ là của chung) như thế,
giới thống trị từ nước khác đến rất dễ mất cảnh giác về bản sắc văn hóa gốc của
mình; hậu quả là, qua nhiều thế hệ hoặc nhiều thế kỷ, dần dần bị tan hòa vào nền
văn hóa của người Hán, nghĩa là bị Hán hóa, và cuối cùng, mất luôn cả nước (đó
là số phận của cả người Mông Cổ lẫn người Mãn Thanh). (Nguyễn Hưng Quốc, Viết Vu Vơ, (Miscellaneous Writings), Người
Việt xb. California, 2014, tr. 250).
Ở đoạn kế đó, Nguyễn Hưng Quốc nhắc đến
sự phân hạng của Ngô Nhân Dụng về ba loại đế quốc: loại dựa trên vũ lực, loại
trên tôn giáo và loại dựa trên văn hóa và cho rằng không loại nào “lâu dài và chắc chắn cho bằng kiểu bành trướng
và thống trị dựa trên văn hóa với những định chế chính trị và xã hội riêng.”
(tr. 251).
“Đạo” như định nghĩa của nhiều người vừa
là đạo lý, luân thường vừa là con đường, có khi được đề cao cũng có khi bị phản
đối và con đường có khi thẳng, lúc quanh co, khi lên đồi lúc xuống lũng, cũng
như Khổng học vậy.
Trong
tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh”
(The clash of civilizations), Samuel P. Huntington ghi lại những sự thực oái oăm
về nền văn minh Nho giáo như sau: “Đầu thế
kỷ XX, trí thức Trung Quốc xác định Khổng giáo là nguồn gốc của lạc hậu. Cuối
thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo chính trị Trung Quốc, cùng các nhà khoa học xã hội
phương Tây hân hoan chào đón Khổng giáo là nguồn gốc của tiến bộ. Trong những năm
1980, chính phủ Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh quan tâm đến Nho giáo là “xu thế chính”
của văn hóa Trung Hoa. Khổng giáo cũng trở thành động lực nhiệt thành của ông Lý
Quang Diệu, người nhìn nhận Khổng giáo là nguồn gốc cho thành công của
Singapore, và tự biến mình thành kẻ truyền giáo cho đạo Khổng ra khắp thế giới.
Vào những năm 1990, chính phủ Đài Loan tuyên bố là “người thừa kế tư tưởng Khổng
giáo” và Tổng Thống Lý Đăng Huy xác định dân chủ hóa ở Đài Loan bắt nguồn từ
“di sản văn hóa” Trung Hoa có từ thời Cao Dao (thế kỷ XXI trước Công nguyên),
Khổng Tử (thế kỷ V trước Công nguyên) và Mạnh Tử (thế kỷ III trước Công nguyên).
Cho dù họ muốn biện minh cho chủ nghĩa độc đoán hay dân chủ, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc đều tìm thấy tính chính đáng trong nền văn hóa Trung Hoa chứ không
phải những khái niệm du nhập từ phương Tây.”
(Nhóm dịch: Nguyễn Phương Sửu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Phương Nam, Lưu Ánh Tuyết,
Nhà xb. Hồng Đức, 2016, trang 163)
Tuy nhiên cũng đã có khi thời cuộc xoay
vần nhắc chúng ta nhớ lại quan điểm văn hóa của đa số nhà văn Trung Quốc, dưới
ngòi bút của Nguyễn Hiến Lê trong hơn nửa thế kỷ trước, như sau: “Hiện nay văn nhân Trung Quốc đương ly dị với
văn học cổ truyền, bỏ hết những đặc sắc của họ để theo kịp phương Tây, mô phỏng
cho đúng phương Tây.” (Nguyễn Hiến Lê, Đại
cương văn học sử Trung Quốc, cuốn 3, Nhà xb. NHL, 1954, trang 215). Âm
thanh của những cuộc xuống đường của Hồng Vệ Binh giữa thập niên 60 thế kỷ trước,
dưới quyền vị chủ soái Mao Trạch Đông còn như vọng lại khắp thế giới trên những
biểu ngữ đề các đại tự “ phê Lâm, phê Khổng”
批 林, 批 孔 nói lên chủ trương hạ bệ Lâm Bưu (Lin
Piao), đả phá Khổng học của Mao lúc bấy giờ, đề cao tư tưởng Mao trong các tập
Mao tuyển trong mục đích chính là loại bỏ đối thủ chính trị và nắm giữ quyền lực.
Ngày
nay sự thành lập các học viện Khổng Tử, sáng kiến được thực hiện từ năm 2004,
trên khắp thế giới nhằm mục đích giúp cho các thế hệ cầm quyền ở Trung Quốc bành
trướng chủ nghĩa Đại Hán và mới đây sự hô hào của Tập Cận Bình về chiến lược “Con
đường tơ lụa trên biển” hay lộ trình “Một vành đai, một con đường” (Nhất lộ, nhất
đới) mà Phó Tổng Thống Mike Pence gọi là “Vành
đai trói buộc và con đường một chiều” cũng nói lên số phận thăng trầm của một
học thuyết mà Khổng học là đại diện.
Trong
một cuốn sách chính luận một thời gây sôi nổi ở hải ngoại có tên Tổ Quốc Ăn Năn, (lấy bốn chữ này từ cuốn
“Người Hoa tại Việt Nam” của Nguyễn Văn
Huy, in tại Paris năm 1993, trang 223) ra đời từ đầu thiên niên kỷ thứ ba, tác
giả Nguyễn Gia Kiểng đã dành nhiều trang sách để tấn công vào nền văn hóa Khổng
giáo từ trang 265 đến trang 307 với nhiều tiêu đề như “Thua kém và nguyên nhân”,
“Khổng Giáo và Khổng Tử”, “Sự nghiệp và nhân cách Khổng Tử”, “Đạo lý thánh hiền”,
“Việt Nho”, và từ trang 309 đến 371 với các tiêu đề “Mặt thật của ai”, “Giết hại
công thần’, “Ưu đạo bất ưu bần”, “Tổ quốc của kẻ sĩ”, “Một chân dung tráng lệ của
kẻ sĩ”, “Chuyện cổ tích”. Những điều ông NGK đề cập tới có một vài chỗ đúng nhưng
cũng có rất nhiều chỗ quá cực đoan, sai lầm cần phản biện lại, tuy nhiên đó cũng
là một cuốn sách có can đảm đặt lại một số vấn đề và đọc nó để có dịp đối chiếu
với tác phẩm của ông Thái Gia Kỳ, và cũng là cơ hội nhìn về Trung Quốc qua nền
văn hóa chữ Hán của họ.
Trong cuốn sách “Death by China, Confronting the Dragon – A Global Call to Action,(Chết bởi Trung Quốc)
hai tác giả Peter Navarro và Greg Autry nhận thấy tất cả mọi hiểm độc của chế độ
Cộng Sản tại Trung Quốc nên đã kêu gọi toàn thể nhân loại cảnh giác. Hai tác giả
này đã coi Trung Quốc là “kẻ thù” ngay trong cuốn sách của họ với những dòng chữ
công khai như sau: “Tất cả chúng ta đều
phải sử dụng đa ngôn ngữ trong thế giới ngày nay, nhưng chúng ta sẽ rất thiển cận
nếu trong thế kỷ 21 mới mẻ này, nhiều trường Trung học các cấp vẫn tiếp tục bắt
học sinh chọn ngoại ngữ Pháp và Đức mà không mở lớp học tiếng Quan Thoại. Trong
thực tế, tiếng Quan Thoại nên được dạy bắt đầu ở bậc tiểu học. Đây là một trường
hợp trong đó chúng ta đã gặp kẻ thù và đó chính là hệ thống trường học.” (Nhà
xb. Pearson, 2011, bản dịch Trần Diệu Chân, Việt News, 2012, tr. 320).
Trong cuốn Người Hoa tại Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy viết: “Bản thể Trung Hoa được gắn liền với truyền
thống Nho giáo. Nho giáo là nền tảng căn bản giáo dục Trung Hoa, theo đó mỗi
người đều có một bổn phận phải thi hành: con phải sống theo đúng đạo làm con,
cha mẹ phải sống đúng cương vị làm cha làm mẹ, gia trưởng phải xử sự đúng theo
vai trò gia trưởng, bang chúng cư xử đúng cương vị bang chúng… Thêm vào đó, triết
lý Nho giáo luôn đề cao những gương Hiếu, Đễ, Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, triết lý này
được truyền tụng từ đời này sang đời nọ đã trở thành một đặc tính: truyền thống
bảo vệ văn hóa Trung Hóa.” (Paris, 1993, trang 172).
Nhìn chung lại, chính trị mang tính cách
nhất thời (sự lên xuống của một triều đại), nhưng văn hóa là muôn thuở (đạo hiếu,
lòng trung thành chung thủy, tình liên đới bạn bè, tình gia tộc v.v…) cho dù có
muốn như họ Mao, quyền hành như đảng CSTQ cũng không thể tiêu diệt được.
32.- Tiếng Hán Việt và nỗ lực xây dựng
tinh thần độc lập “giữ thơm quê mẹ”
Cuốn sách của tác giả Thái Gia Kỳ đã có
một ưu điểm trỗi vượt các sách viết trước đây như cuốn “Nghiên cứu chữ Hán và
tiếng Hán Việt” của Vũ Thế Ngọc, cuốn “Ngôn ngữ Việt Nam” của Lê Thái Ất, hay cuốn “Chính tả Việt ngữ” của Lê Ngọc Trụ trong
phần tìm hiểu về địa danh Trường An và tiếng Trường An mà ông cho là nơi xuất
phát của tiếng Hán Việt và ông đã dành nhiều trang nói về vấn đề Trường An. Nhà
thơ Đỗ Phủ đã viết một bài thi về Trường An cốt để diễn tả sự thay đổi của kinh
đô Trường An sau một đợt đổi thay một triều đại, rất giống với trường hợp của
Sài Gòn sau ngày 30-4-1975, nghĩa là tình trạng thay ngôi đổi chủ của vùng đế
đô này. Bài thi như sau:
聞
道
長
安 似 奕
棋 Văn đạo Trường An tự dịch kỳ
百
年
世 事
不
勝
悲 Bách
niên thế sự bất thăng bi
王
侯
第 宅
皆 新
主 Vương hầu đệ trạch giai tân chủ,
文
武
衣
冠 異 昔
時 Văn vũ y quan dị tích thì.
直
北
關
山
金
鼓 振
Trực bắc quan san kim cổ chấn,
征
西
車
馬 羽 書
馳 Chinh tây xa mã vũ thư trì.
魚
龍
寂
寞
秋
江
冷 Ngư long tịch mịch thu giang
lãnh,
故
國
平
居
有
所
思 Cố quốc bình cư hữu sở ti.
Thu Hứng
Nghe
nói Trường-An tựa ván cờ,
Trăm
năm thế sự đáng buồn chưa?
Vương-hầu nha-thự người
thay mới,
Văn-võ y quan kiểu khác
xưa.
Phía bắc quan hà chiêng
trống dậy,
Bình tây xe ngựa hịch
lông đưa.
Cá rồng lặng lẽ sông thu
lạnh,
Nước cũ lòng ta luống ngẩn
ngơ.
(Vô-danh dịch)
Trong cuốn sách của mình, ông Thái Gia Kỳ
đã vượt qua các tác giả trước đây khi nỗ lực đặt ra cho mình nhiều công tác phải
nghiên cứu đối với tiếng Hán Việt như định nghĩa, do lai của nó, vai trò chính
trị văn hóa của cố đô Trường An qua các triều đại của Trung Quốc nhất là đi sâu
vào nghiên cứu về tiếng Trường An với nhiều chuyến đi điền dã công phu để thực
hiện được hàng trăm bảng so sánh phát âm giữa tiếng Việt với tiếng Tàu, tiếng
Nhật, tiếng Triều Tiên hoặc tiếng Hán Việt với tiếng Trường An, tiếng Quan Thoại
và tiếng Quảng Đông, tìm ra những tương đồng trong cách diễn đạt tư tưởng và
trong tiếng nói hằng ngày giữa chữ Hán, tiếng Hán Việt và tiếng Việt (từ tr. 78
đến tr. 115). Thật là một cố gắng rất đáng thán phục của một người có khả năng
về ngoại ngữ. Ngoài ra ông cũng trình bày thêm cho độc giả biết lối “phiên thiết”
vốn là yếu tố quan trọng giữ được sự thống nhất trong cách phát âm chữ Hán. Tuy
vậy, phần quan trọng nhất có lẽ là chương II nói về tương quan trong phát âm giữa
tiếng Hán Việt và các phương ngôn chính Trung Quốc mà theo tôi tác giả đã để
nhiều công nhất trong việc lập thành khoảng 60 bảng so sánh chia làm bốn cột chữ
Hán/Hán Việt, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tràng An.
Trong cuốn sách đã được nhắc tới ở trên,
Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy có viết: “Cũng chính
vì không muốn bị đồng hóa với bản thể Trung Hoa mà các quốc gia thuộc văn minh
Trung Hoa đã sáng chế ra chữ viết riêng mặc dù vẫn lấy Hán tự làm căn bản. Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam là những quốc
gia thuộc ảnh hưởng của văn minh văn hóa Trung Hoa nhưng không muốn sử dụng chữ
viết Trung Hoa.” (Paris, 1993, tr. 169).
Trong tác phẩm Văn Minh Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên đã nhận định về tiếng Hán Việt
như sau: “Kết quả sự tiếp xúc lâu dài của
tiếng Trung Hoa và tiếng Việt là tạo ra một ngôn ngữ văn học mới, khác với tiếng
Việt nhưng cũng không phải hoàn toàn là ngôn ngữ viết cổ điển của Trung Hoa, mà
ta gọi là ngôn ngữ Hán-Việt. Chưa thể
xác định được những tính cách chủ yếu của thứ ngôn ngữ này. Dù sao, các nhà nho
nước ta cũng để lại những tác phẩm bằng chữ Hán-Việt có cảm hứng, có thi vị
thanh tao và sự việc phong phú hơn hẳn các tác phẩm bằng tiếng Việt. Có những tập
thơ hoặc văn vần, những hồi ký, biên niên, sách pháp điển, sách lễ nghĩa, văn
bia… Ông Lê Thước viết rằng, hầu như chỉ riêng các tác phẩm đó cũng đã là tất cả
gia tài trí tuệ của người Việt.” ( Nguyễn Văn Huyên, Sách đã dẫn, trang
284).
Với cuốn Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Lê Thành Khôi đã
viết như sau: “ Như trong các thời kỳ trước,
văn chương bằng chữ Hán bao gồm các biên niên sử các triều đại, các tiểu luận,
các truyện kể và các công trình thi ca. Ngoài ra, người ta còn thấy xuất hiện
những loại hình mới: sự phê phán lịch sử, trình thuật và cả những công trình kỹ
thuật (y học)… các công trình nghiên cứu của các tác giả tư nhân…các công trình
giải thích Kinh Dịch, Kinh Thư… Trong một số câu chuyện, tình yêu được đạt lên
trên hết thậm chí trở thành một lý thuyết sống.” (Lê Thành Khôi, Sđd, tr.
344).
33.- Chữ Quốc ngữ, những dặm dài đã qua
và con đường trước mặt
Bốn thế kỷ trước đây, loại chữ dùng mẫu
tự La tinh để viết tiếng Việt được gọi là chữ Quốc-ngữ do sáng kiến và công lao
bền bỉ của các nhà truyền giáo người Pháp, Bồ Đào Nha mà danh dự được nhắc đến
đầu tiên là Linh mục Alexandre de Rhodes, LM Francesco di Pina, LM Buzomi, LM
Christopho Borri v.v… Trong cuốn sách của
ông Thái Gia Kỳ, chúng ta đã thấy tác giả chịu khó viết về các giai đoạn phát
triển của chữ Quốc ngữ, các phong trào vận động của chữ Quốc ngữ… trong đó có đề
cập đến Hội Truyền bá chữ Quốc Ngữ. Sách viết: “Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ là một hội hô hào, cổ vũ, vận động nhân dân
toàn quốc học chữ Quốc ngữ. Thành lập năm 1938, với hội trưởng là ôngNguyễn Văn
Tố, cùng với sự tham gia của các trí thức yêu nước như Vũ Đình Hòe và sự tham
gia, chủ đạo “đằng sau bức màn” của các đảng viên Cộng sản Việt Nam như Đặng Thái
Mai, Bùi Kỷ v.v…” (tr. 252). Thật ra câu này chỉ đúng một nửa. Trong thời
gian 1937-38 có nhiều nhóm trí thức Việt Nam thuộc nhiều thành phần trong đó có
Đại Việt, Việt Quốc, Duy Dân, Dân Xã v.v… đã cố xin phép lập ra một hội tư để giải
quyết nạn mù chữ nhưng không được chính quyền Đông Dương cho phép. Cuối cùng nhờ
vận động với các yếu nhân trong Mặt Trận Bình Dân tại Pháp mà họ có được giấy
phép hoạt động dành cho một hội có tên Hội
Truyền Bá Học Quốc Ngữ mà hội trưởng là cụ Nguyễn Văn Tố (1889-1947) là người
giỏi tiếng Pháp và là nhân viên của Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, chủ nhiệm
tạp chí Tri Tân. Cụ Nguyễn Văn Tố được
người Pháp tin tưởng và cụ Trần Trọng Kim cũng được người Pháp hy vọng có uy tín
để giữ cho phong trào không đi tới những việc làm cực đoan. Hội có trụ sở ở một
trường tư thục do Võ Nguyên Giáp dạy (Trường Thăng Long) và Võ Nguyên Giáp mà
Giáp lúc bấy giờ là con đỡ đầu của Louis Marty, chánh mật thám Pháp, làm phó thủ
quỹ cùng một nhóm 15 người khác trong đó có tên như Đặng Thái Mai, Tôn Thất Bình,
Trần Văn Giáp… Hội tổ chức các lớp học đầu tiên từ Tháng Chín 1938 có khoảng
400 người ghi danh tuổi từ 6 đến trên 30.. Tháng Giêng 1939 tại Hà Nội có khoảng 1,300 người ghi danh,
lan tràn ra Hải Phòng, lên Việt Trì rồi bành trướng vào Huế với sự tiếp tay của
Tôn Quang Phiệt lúc bấy giờ đang điều hành Trường Thuận Hóa ở Huế. Người Pháp lúc
bấy giờ cũng thấy khuynh hướng Cộng Sản trong một vài người lãnh đại Hội này nên
đã loại trừ bớt sau Tháng Chín 1939. Khi Pháp bị Đức chiếm đóng trong Thế Chiến
2, chính quyền Pháp tại Đông Dương vẫn cho Hội Truyền Bá Học Quốc Ngữ hoạt động
mục đích là để người Việt Nam chú trọng vào nền văn hóa quốc gia vốn cũng phù hợp
với các quyền lợi chính trị của người Pháp và cũng để tách rời khỏi vòng ảnh hưởng
của chủ nghĩa Thịnh Vượng Đại Đông Á của người Nhật. Tháng Bảy 1944, một đại hội
của Hội Truyền Bá Học Quốc Ngữ được tổ chức tại Hà Nội với khoảng 700 thành viên
tham dự đại diện cho các cơ sở toàn quốc. Mười hai tháng sau đó, Hội công bố tổng
kết có 1,971 giáo viên tình nguyện và có 59, 827 học sinh theo học, có khoảng
175,000 cuốn vần Quốc-ngữ được in ra và phát cho người đi học. (David Marr, Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945, University
of California Press, 1981, tr. 180-181). Những con số ấy tuy chỉ là những con số
khiêm tốn nhưng cũng nói lên quyết tâm học chữ Quốc ngữ của người dân Việt Nam.
Ở đoạn dưới ông Thái Gia Kỳ viết: “Đây là hội tiền thân của Phong trào Bình dân
Giáo dục, mà sau này hoạt động rất mạnh trong vùng kháng chiến chống Pháp. Những
người bên “Quốc gia” hay những người sống ở vùng “Pháp thuộc”và sau này là Việt
Nam Cộng Hòa, ít biết đến phong trào Bình dân Học vụ này. Thực sự thì trong thời
gian kháng chiến chống Pháp, phong trào Bình dân học vụ đã đóng góp thành tích
to lớn trong sự nghiệp xóa nạn mù chữ cho nhân dân Việt Nam, không những cho nhân
dân các vùng đồng bằng mà cho cả các
dân tộc miền núi ở miền Bắc và miền Trung” (trang 253).
Thật ra, người ta dù ở đâu cũng biết hay
nghe nói đến phong trào Bình dân Học vụ do Hồ Chí Minh quyết định thành lập
(Nha Bình dân học vụ) với hai sắc lệnh 19/ SL và 20/SL kí ngày 8/9/1945 ở Hà Nội,
lúc bấy giờ 95% dân VN còn mù chữ. Cuối năm 1946, Bộ Quốc gia Giáo dục báo cáo có 74, 975 lớp và 95,665 giáo viên. Năm 1948, 6 triệu người
thoát nạn mù chữ; năm 1952 con số đó lên 10 triệu người. (Tài liệu lấy trên mạng).
Tuy nhiên những con số trên đây cũng không có gì chắc chắn, bởi lẽ những khó khăn
do cuộc chiến tranh Việt-Pháp gây ra từ ngày 19/12/1946 cho đến khi kết thúc với
hiệp định Genève năm 1954 nên cho dù những lớp học Bình dân Giáo dục có xúc tiến
trong các khu vực Việt Minh kiểm soát như tường thuật của ông Thái Gia Kỳ cũng
là để biết như là một chuyện “dật sự” cho vui thôi. Trong những vùng do người
Pháp kiểm soát, tại các thành phố, việc học hành vẫn cứ được tổ chức từ năm
1947 đến 1954 theo chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn cho học sinh tiểu học,
trung học và tú tài (I và II), và các trường Đại Học vẫn tiếp tục mở ở Hà Nội và
Sài Gòn, không bị gián đoạn khi có giải pháp Bảo Đại rồi cứ thế phát triển thời
Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, phong phú và đa diện chứ không ở các vùng VM kiểm soát
gọi là “vùng giải phóng” thiếu thầy, thiếu trường và thiếu mọi tiện nghi khác.
Trong phần ở trước, tôi có trích cuốn hồi
ký của Đức Giám Mục Phao-lô Lê Đắc Trọng nói về sự tôn kính “chữ thánh hiền”,
nhưng đối với các ông thầy đồ là những người dạy chữ Nho thì sao? Xin đọc một đoạn
hồi ký cũng của tác giả này viết như sau: “Chữ
Nho thì được kính là thế, song người dạy chữ Nho thì không phải lúc nào cũng được
kính trọng đâu… Song có lúc người ta cũng khinh dể thầy đồ. Tại sao? Vì có những
thầy đồ tham lam, hà tiện, câu nệ, thiên về việc kiếm tiền hơn là dạy chữ. Người
tỉnh Nghệ An làm thầy đồ đi dạy rải rác các vùng, các tỉnh rất nhiều, nên đã có
tên “thầy đồ Nghệ”. Rồi khi chữ quốc ngữ ra đời, người nhà Nho khinh dể chữ quốc
ngữ quá bình dân, tầm thường, thấp hèn, nên chỉ thích hợp với đám dân thường,
không thâm thúy như chữ Nho dành cho bậc thượng lưu, trí thức. Người thích chữ
quốc ngữ lại coi nhà Nho là lạc hậu, câu nệ, cố chấp, nhiều lúc khinh dể những người
thông Nho và coi là hủ Nho. Không biết có phải vì thế mà dân gian đặt ra bài hát
đầy vẻ khinh dể thầy đồ. Lời hát này được lấp vào điệu nhạc uy nghi hùng tráng
của bài quốc ca nước Pháp, bài Mác-xây-e (Marsellaise): Allons, enfants de la
patrie, le jour de gloire est arrivé.
Thầy đồ ngày xưa quen nuôi móng tay dài quần trễ tai hồng, Lọ
lem mực son. Đầu thì lúc lắc tựa như lên đồng được mấy trẻ ghẻ lở quá hủi phong
quát lấy điếu mang bình phóng bưng cơi trầu. Nhai đi nhai lại mấy chữ: nhân chi
sơ người chưng trước… Móng tay đầy ghét, gãi lưng. Bật toành toạch…” (trang 17).
Cũng như sau ngày 19-8-1945, sau khi Việt
Minh cướp chính quyền tại Hà Nội, dân gian đem bài Tiến quân ca tức quốc ca của CS đổi lời thành ra: “Đoàn quân tàu ô đi, sao mà gớm thế, đem ghẻ
hờm sang lây cả người Việt Nam…”
Ở trang 255, ông Thái Gia Kỳ gán cho nội
Trần Trọng Kim là một nội các bù nhìn, cũng giống như chính phủ Uông Tinh Vệ
(1940-1945) ở Đông Bắc Trung Quốc khi Nhật ủng hộ thành lập Mãn Châu Quốc.
Thật ra gán ghép và so sánh vậy là không
đúng bởi vì mặc dù cũng là do Nhật Bản lập nên nhưng Uông Tinh Vệ vốn là người
phản bội lại Tưởng Giới Thạch mà đào thoát sang phía quân xâm lược Nhật Bản, tình
nguyện làm tay sai cho Nhật Bản để muốn cạnh tranh tính hợp pháp với chính phủ
của Tưởng Giới Thạch, trong khi chính phủ Trần Trọng Kim đứng ra là để bù lấp một
khoảng trống chính trị (political vacuum) sau khi Nhật Bản lật đổ chính quyền
Pháp sau sự kiện ngày 9 tháng 3 năm 1945. Cụ không phản bội ai mà cũng chẳng cạnh
tranh với ai khi ra tham chính giúp nước theo lời mời của vua Bảo Đại. Chính
trong cuốn hồi ký Một cơn gió bụi, cụ
Trần viết: “Sau thấy có người, hoặc vì
tuyên truyền, hoặc vì không biết rõ thực nói: Chánh Phủ Trần Trọng Kim là một
chánh phủ bù nhìn, ý nói là chúng tôi ra làm việc để bọn Nhật sai khiến. Tôi dám
cả tiếng bác lời nói đó.” (Nhà xb. Vĩnh-Sơn, 1969, tr. 95).
Cụ Trần còn kể thêm: “Lúc đầu người Nhật có ý muốn đòi khi chính
phủ Việt Nam có làm việc gì quan hệ, phải hỏi trước Tối Cao Cố Vấn có thuận mới
được làm. Tôi bác đi, viện lẽ việc nội trị là việc chúng tôi, lẽ nào lại phải
xin phép rồi mới được làm. Người Nhật đã đứng vào địa vị cố vấn, khi nào có việc
hệ trọng, chúng tôi sẽ cho biết là đủ. Lúc ấy cũng được ông Yokohama là người
thạo việc ngoại giao và am hiểu tình thế, nên mọi việc đều được êm ái và ổn thỏa.”
(Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, trang 96).
Những tác giả Việt Nam ở hải ngoại như Vũ
Ngự Chiêu, Lê Xuân Khoa cũng đánh giá rất cẩn trọng về nội các của cụ Trần Trọng
Kim, thậm chí còn phản bác lại luận điệu gán ghép tính cách bù nhìn cho cả Hoàng
đế Bảo Đại nữa (Phạm Cao Dương, Đế Quốc
Việt Nam, Nhà xb. Truyền Thống Việt, 2017, tr. 130).
Ở trang 247, sau phần viết về “sự đóng góp
của Phạm Quỳnh” đáng lẽ tác giả Thái Gia Kỳ phải viết thêm vào đó công trạng của
nhóm Đông Dương Tạp Chí do các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục
là những thành viên cốt cán đã viết đều đặn từ đầu đến cuối.
Về Nguyễn Văn Vĩnh, nhà văn Vũ ngọc Phan
cho rằng ông này vẫn là người giữ giải quán quân trong số những sách chữ Pháp dịch
ra quốc văn đến nay. Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine, dịch
“Truyện trẻ con của Perrault”, hài kịch của Molière, nhất là bộ truyện Mai-nương
Lệ-cốt (Manon Lescaut của Abbé Prévost) mà ông Vũ Ngọc Phan cho là “thật không
dịch hay hơn được.” Truyện “Ba người ngự lâm pháo thủ” (24 quyển), hai bộ Miếng
da lừa và Những kẻ khốn nạn cũng là những danh tác văn dịch khiến tên tuổi Nguyễn
Văn Vĩnh còn lại đến ngày nay.
Sau Nguyễn Văn Vĩnh phải kể đến Phan Kế
Bính là người chuyên giữ mục “Hán văn” trong Đông Dương Tạp Chí chuyên dịch các
tư tưởng các văn hào, các triết gia ở Tàu trong các cuốn sách Chiến quốc cổ văn, Liệt Tử, Mặc Tử, Hàn Phi
Tử , và những chuyện rút ở Tình sử,
Kim cổ kỳ quan, Tiền Hán Thư v. v… Người ta thường nhắc đến Phan Kế Bính với
tập Việt Hán văn khảo, bản Tam Quốc Chí diễn nghĩa, tác giả quyển Việt Nam phong tục, biên dịch hai quyển
sách rất giá trị là Hưng Đạo đại vương và
Nam Hải dị nhân. Vũ Ngọc Phan khen
Phan Kế Bính “là nhà văn xuất sắc nhất,
và về lượng, ngoài Nguyễn Văn Vĩnh ra, ông là người viết nhiều hơn cả. Ông là
người thận trọng cây bút, nên văn ông rất đều.” (Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập một, Nhà xb. Khoa học Xã hội, 1989, tr. 57).
Tiếp đến là Nguyễn Đỗ Mục nổi tiếng với
phong cách dịch truyện Tàu ra quốc văn, qua những tác phẩm như Song Phượng kỳ duyên, Tái sinh duyên, dịch
tiểu thuyết Sans famille của Hector Malot từ tiếng Tầu ra quốc văn, Tây sương ký, Đông Châu liệt quốc. Ông
cũng là người biên tập một quyển sách có giá trị là quyển Chinh phụ ngâm khúc dẫn
giải, và dịch bộ Khổng Tử gia ngữ, Khổng Tử tập ngữ… Cả ba đều tạo tiếng thơm
chung cho nhóm Đông Dương Tạp Chí.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét