Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2019

Nguyễn Đức Cung Giới Thiệu và Phê Bình tác phẩm: Chữ Hán, Tiếng Hán Việt, và Sự Vận Dụng Tiếng Hán Việt của Thái Gia Kỳ _ Phần II: ...Những Vấn Đề Cần Nhìn Lại

BÀI GIỚI THIỆU VÀ PHÊ BÌNH TÁC PHẨM “CHỮ HÁN, TIẾNG HÁN VIỆT, VÀ SỰ VẬN DỤNG TIẾNG HÁN VIỆT TRONG TIẾNG VIỆT” (Tiếp theo))
(Tác giả THÁI GIA KỲ)
                                                                                                                                                                    Nguyễn Đức Cung


II.- ĐỌC TÁC PHẨM  CỦA ÔNG THÁI GIA KỲ, NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN NHÌN LẠI 
        Trong phần mở đầu cuốn sách, tác giả Thái Gia Kỳ viết: “Cha ông ta đã chấp nhận chữ Hán như là một phương tiện duy nhất để học làm người, để học sách thánh hiền, để thi cử, để làm quan phục vụ triều đình và nhân dân; con đường duy nhất để tiến thân là phải học chữ Nho, học đạo thánh hiền, không có sự lựa chọn nào khác…” (tr. 11).
        Để thấy ảnh hưởng của việc người xưa kính trọng việc học chữ Nho, xin đọc một đoạn sau đây của Cố Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Hà Nội, Phaolô LÊ ĐẮC TRỌNG (1917-2009) trong hồi ký có tên Chứng từ của một Giám Mục, như sau: “Việc học chữ Nho gây ảnh hưởng rất lớn trong việc tôn kính chữ Nho được coi là viết ra những lời của thánh hiền. Sách Nho không được dùng vào những việc phàm tục, cả đến gói đồ đạc cũng không được. Nhưng dùng nó phất diều thì được. Có lẽ vì diều bay cao trên trời chăng! Sách Nho được coi như vật thiêng liêng, nên muốn hủy thì phải đốt hoặc bỏ xuống giếng. Bỏ xuống ao cũng không được vì nước ao bị coi là uế tạp, các chất thải chảy xuống ao, người, vật, như trâu bò cũng tắm ao.” (Nhà xb. Diễn Đàn Giáo Dân, tái bản lần thứ nhất, Hoa Kỳ, Giáng Sinh 2009, tr. 17).
        Không ai phủ nhận được giá trị của chữ Hán đối với nền văn hóa của các nước được gọi là “đồng văn, đồng chủng” với Trung Hoa và trong sách của tác giả Thái Gia Kỳ, ông gọi là thuộc nền “văn minh cầm đũa” trong đó gồm Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên cũng như giá trị của nền văn minh Hy-La đối với nhiều nước ở trên thế giới vậy. Đây là một cụm từ rất đáng nhớ trong tác phẩm của ông Thái Gia Kỳ, vì đã được nhắc đến mười lần trong suốt cuốn sách. 

        21. Sự hình thành chữ Hán theo tư liệu:
        Khi nói về “hình thức kết cấu và diễn biến của chữ Hán”, tác giả Thái Gia Kỳ đã nhắc đến sáu phương cách cấu tạo nên chữ Hán mà người ta thường gọi là “lục thư” dựa trên cuốn sách của ông Lữ Tư Miễn có tên Trung Quốc văn hóa thường thức .
        Thật ra, lịch sử chữ Hán đã được hình thành theo nhiều giai đoạn khoảng 7.000 năm, tiến từ thời kỳ ấp ủ đến lĩnh vực chữ viết nguyên thủy qua những ký hiệu khắc họa trên văn hóa gốm màu Ngưỡng Thiều, ký hiệu khắc nổi của di tích Mã Xưởng ở Liễu Loan, tỉnh Thanh Hải, ký hiệu khắc họa tượng hình sơ bộ của văn hóa Đại Vấn Khẩu ở Sơn Đông… đến các nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện về sau.
        Trước hết chữ Hán từ trạng thái giáp cốt văn tức là chữ viết trên mai rùa xương thú đời Ân (cũng gọi đời Thương, từ năm 1600 đến 1046 tr. C.N.), Trung Quốc đào được ở thôn Tiểu Đồng, thị trấn An Dương tỉnh Hà Nam. Theo các chuyên gia ngôn ngữ học Trung Hoa, chữ viết hoàn thiện cổ xưa nhất đã được phát hiện là giáp cốt văn, đến nay đã khai quật được hơn 100.000 mảnh. Loại giáp cốt văn là một loại văn tự cổ đại của Trung Quốc, được coi là hình thái đầu tiên của chữ Hán, cũng được coi là một thể của chữ Hán. Chữ giáp cốt mỗi giai đoạn đều có sự khác nhau; chữ giáp cốt thời Vũ Đinh được xem như hoàn chỉnh nhất, và cũng có số lượng lớn nhất được phát hiện. (Atsuji Tetsuji, Tự nguyên Hán tự, Nhà xb. Trẻ, 2016, trang 18).
        Thứ đến, kim văn là loại văn tự được khắc hoặc đúc trên đồ đồng, là sự kế thừa của Giáp cốt văn, xuất hiện cuối đời nhà Thương, thịnh hành vào đời Tây Chu. Nội dung thường liên quan mật thiết đến cuộc sống đương thời, đặc biệt là cuộc sống của tầng lớp thống trị, như việc tế lễ, sắc lệnh, việc chiến tranh, săn bắn… Mọi người thường coi Kim văn trên Mao Công Đỉnh thời Chu Tuyên Vương là đại diện cho Kim văn. Từ Tây Chu trở về sau, Kim văn được sử dụng rộng rãi. Theo thống kê, người ta tìm được 3005 chữ Kim văn, đã đọc được 1804 chữ, nhiều hơn chữ giáp cốt một chút. Do thời kỳ Thương Chu rất thịnh hành đồ đồng, mà trong đó chung (cái chuông) và đỉnh (cái vạc) là những nhạc khí, lễ khí tiêu biểu nên Kim văn còn có tên gọi là Chung Đỉnh văn (Atsuji Tetsuji, Sđd, trang 21).
        Khi nói đến việc hình thành chữ Hán không thể không nhắc đến Thương Hiệt   (thế kỷ XXIV tr. C.N.) được coi là một nhân vật quan trọng mà tên tuổi còn để lại, người “đã từng thu thập, chỉnh lý và sử dụng những chữ viết lưu truyền trong dân gian trước kia, có những ảnh hưởng to lớn trong quá trình sáng tạo chữ Hán” (Vương Tuệ Mẫn, 100 Danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, Dịch giả T.S. Nguyễn Văn Dương, Nhà xb. Văn Hóa-Thông Tin, 2002, tr. 21; Dr. L. Wieger, S.J. Chinese Characters, Their origin, etymology, history, classification and signification, Paragon Book Reprint Corp. New York, 1915, trang 5). Người đề cập tới Thương Hiệt sớm nhất là Tuân Khanh (313-238 tr. C.N.) hay Tuân tử trong thời Chiến Quốc. Tuân tử có nói thêm: “Người viết giỏi thì nhiều, riêng Thương Hiệt một mình được truyền tên lại”.
        Lối chữ Hán cổ văn theo Linh mục Weiger có từ thế kỷ XVIII tr. C.N. cho đến khoảng năm 800 tr. C.N. thì một Thái Sử tên là Trứu mới thu thập tất cả số lượng chữ lưu hành lúc bấy giờ đời Chu Tuyên-Vương (827-783) trao cho các thuộc viên trong chính quyền nhà Chu Dung; các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc gọi thứ chữ đó là trứu-văn 籕文 hay đại-triện hoặc còn gọi là khoa-đẩu tự , tức chữ con nòng nọc. (Weiger, Sđd, tr. 6; Vũ Thế Ngọc, trong cuốn Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt, Eastwest Institute, 1989, đọc chữ trứu là lựu hay lựu-văn, trang 98). Nguyên ủy của tên gọi này là vì trong thế kỷ thứ 2 trước C.N. căn nhà Khổng Tử cư ngụ trước đây được dở xuống và người ta phát hiện nhiều thư tịch viết theo lối chữ cổ (dấu trong vách), loại chữ đầu to đuôi bé và một vị thân vương nước Lỗ tên Cung vốn là người ít học đã la lên: “hình con nòng nọc”. Từ bấy giờ loại văn cổ chết với cái tên khoa đẩu tự đó!
        Trong thiên “Tần Thủy Hoàng bản kỷ” của Sử Ký, sử gia Tư Mã Thiên (145-86 tr. C.N) có viết: “ Năm thứ 26thống nhất pháp luật, các cân, phép đo lường, các thạch, trượng, thước; trục xe đều dài như nhau, chữ viết cùng lối như nhau.” (xa đồng quỹ, thư đồng văn , ). (Sử ký Tư Mã Thiên, Nhữ Thành dịch, Nhà xb. Văn Học, Hà Nội, 1988 trang 46). Trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, các nước làm đường rộng hẹp khác nhau nên nên có xe không di chuyển được vì trục xe rộng mà đường lại hẹp, chữ viết nhiều khi khác biệt nên không hiểu được nhau. Vì vậy khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng mới ban bố nhiều sửa đổi mà có cụm từ “xa đồng quỹ, thư đồng văn”. Công thống nhất chữ viết là công của Lý Tư.
        Trong mục “Lý Tư Liệt Truyện”, Tư Mã Thiên ghi nhận công lao của Lý Tư về chữ viết: “Thống nhất văn tự, xây các ly cung và các biệt quán khắp trong thiên hạ.” (Bản dịch Nhữ Thành, Sách đã dẫn, trang 588). Chữ đồng văn như chúng ta thường dùng trước đây để chỉ việc người Việt Nam, người Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên dùng một thứ chữ như nhau đó là chữ Hán.
        Will Durant trong quyển “Lịch sử văn minh Trung Quốc” (bản dịch Nguyễn Hiến Lê, Nhà xb Văn Nghệ, California, 1993, trang 108) cho rằng Thừa tướng Lý Tư là người thay đổi chữ viết gần giống với lối ngày nay.
        Năm 213 tr. C.N, Lý Tư , Thừa tướng của Tần Thủy Hoàng đã cho phát hành một tập sách gồm nhiều mặt chữ quy định phương thức viết một cách bó buộc đối với các văn nhân. Tập sách của ông có tên Tam Thương gồm 3.300 chữ tức là lối tiểu triện , qua sách này ông không đặt thêm chữ mới và vì có rất nhiều loại chữ lạ gọi là kỳ tự nên, theo LM Weiger, Lý Tư đã giải thích sai lạc một số chữ. (L. Wieger, Sđd, trang 6).
        Về cụm từ “xa đồng quỹ, thư đồng văn” do Tư Mã Thiên viết trong bộ Sử Ký, một tác giả Trung Quốc, Hồ Ngật, đã giải thích rõ trong cuốn “5000 năm lịch sử Trung Quốc” như sau: “Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung nguyên, các nước chu hầu đều không theo một chế độ thống nhất. Ví như giao thông, kích thước xe ngựa của các nước chư hầu đều không giống nhau, vì thế đường để cho xe ngựa đi chỗ rộng, chỗ hẹp. Khi quốc gia đã thống nhất, việc xe cộ lưu thông trên những đoạn đường không đồng nhất là vô cùng bất tiện. Chính vì thế mà có quy định về cự ly giữa hai bánh xe của một chiếc xe ngựa đều phải 6 thước, đường kính của bánh xe cũng phải giống nhau. Như vậy, xe ngựa khi lưu thông sẽ thuận tiện hơn nhiều. Điều này vào thời đấy được gọi là “xa đồng quỹ”. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung nguyên, văn tự của các nước chư hầu cũng không đồng nhất, cùng một dạng văn tự nhưng có đến mấy cách viết. Tần Thủy Hoàng đã hạ lệnh, sai Lý Tư chỉnh lý văn tự, áp dụng một phương pháp tương đối thuận tiện là quy định thống nhất dạng văn tự Tiểu triện làm tiêu chuẩn. Như vậy, dần dần mệnh lệnh này đã được phổ biến rộng rãi, sự giao lưu văn hóa giữa các địa phương cũng dễ dàng hơn nhiều. Điều này thời đấy gọi là “thư đồng văn.” (Nhà xb. Thời Đại, 2010, Việt Thư dịch, tr. 181).
        Về sau có Hứa Thận (khoảng 58-147 CN.) là nhà kinh học, văn tự học đời Đông Hán thu thập cổ văn, kinh học, chữ viết, tổng hợp nhiều thể chữ cổ đại triện giải nghĩa những từ trong sách cổ của người trước, lấy chữ tiểu triện làm tiêu chuẩn để viết thành sách Thuyết văn giải tự trong 22 năm trời. Ông suy cứu nghĩa gốc chữ viết, giải thích nghĩa về mặt thanh âm, thu thập được 9.353 chữ Hán trong đó có 264 chữ tượng hình, 129 chữ chỉ sự, 1.167 chữ hội ý, 7.679 chữ hình thanh. (Vương Tuệ Mẫn, Sđd, tr. 24-25).
        Năm 1949, sau khi chiếm Hoa Lục, Mao Trạch Đông cho tiến hành cải cách chữ Hán viết theo lối giản thể trong khi ở Đài Loan, Hongkong và các nước khác theo lối phồn thể .
        Công phu của tác giả TGK trong phần đầu của chương I cuốn sách đó là biết tóm lược rất khéo về ảnh hưởng của chữ Hán trong xã hội Trung Hoa, sự thâm nhập vào các tôn giáo như Phật Giáo, Khổng giáo và Lão giáo để nêu bật tác dụng của một thứ ngôn ngữ có chiều sâu tâm linh và gây sức hút rất mãnh liệt trong xã hội. Tác giả cũng nói lên được ảnh hưởng của chữ Hán đối với các quốc gia láng giềng như Triều Tiên, và Nhật bản từ giai đoạn hai quốc gia này được thành lập cho đến ngày nay trong các lãnh vực văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế v.v… Tác giả cũng đã, dù bằng những nét khái quát, dẫn độc giả đến với đất nước Triều Tiên, Nhật Bản trong bầu khí thâm nghiêm của Khổng học với kinh điển ngàn đời giá trị của nó. Người Trung Hoa có lẽ ý thức được nhiệm vụ “khai hóa” của mình đối với các lân bang chung quanh mà họ coi là “man, di, nhung, địch” nên chữ Hán là công cụ hữu hiệu nhất để họ tiếp cận với các quốc gia láng giềng khác.

        22.Ảnh hưởng Trung Quốc đối với một số quốc gia Đông Á qua nền “văn minh cầm đũa” hay hệ thống “đồng văn”
              221.- Về nền “văn minh cầm đũa”
        Trong tác phẩm này, tác giả nhiều lần nhắc tới cụm từ “nền văn minh cầm đũa” để chỉ bốn quốc gia Đông Á là Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản
        Thật sự nền văn hóa thực phẩm qua việc cầm đũa, ăn bốc hay dùng dao nĩa trong bữa ăn đối với thế giới ngày nay là sự kiện để phân biệt nền văn minh này với nền văn minh khác, nhưng giữa người Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên thì, theo tác giả TGK, đó là một hiện tượng nối kết chung cũng có nhiều điều khá lý thú cần được nhắc đến ở đây.
        Theo sử gia Will Durant trong tác phẩm Our Oriental Heritage, (Di sản phương Đông) vua Trụ (Chou  Hsin) là người chế tạo ra đôi đũa là vua Trụ (Nhà xb. Simon and Schuster, New York 1954, tr. 645; Huỳnh Ngọc Chiến dịch, Công Ty Sách Thời Đại & Nhà xb. Hồng Đức, 2014, tr. 771). Ông là vị vua cuối cùng của thời nhà Thương, tức Đế Tân, hoang dâm nhưng dũng mãnh, mê nàng Đát Kỷ. Nhà Thương, theo học giả Nguyễn Hiến Lê, bắt đầu khoảng 1450 và chấm dứt khoảng 1050 tr. CN. (Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Nhà xb. Văn Nghệ, California, 2003, tr. 57).
        Theo Nguyễn Văn Huyên trong cuốn Civilisation annamite tức Văn minh Việt Nam, Trong bữa ăn, các món được bày trong một mâm gỗ hay mâm đồng đặt giữa giường. Mọi người ngồi ăn xếp chân vòng tròn xung quanh mâm. Người nào cũng có bát đũa riêng. Các món là chung của mọi người, đũa được dung để gắp những món ăn thái thành miếng nhỏ. Trước lúc ăn, chủ nhà phải mời khách cầm đũa: người ít tuổi phải mời những người nhiều tuổi hơn.” (Đỗ Quang Trọng dịch, Nhà xb. Nhã Nam & Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2016, tr. 212)
        Theo TS. Atsuji Tetsuji, trong cuốn Tự nguyên Hán tự” “khi đũa xuất hiện trong các thư tịch của Trung Quốc, ngoài chữ “trứ” () rất quen thuộc với chúng ta, nó còn được ghi bằng chữ “giáp” (). Cả         lẫn đều là chữ có nghĩa là đũa, nhưng xét một cách chi tiết hơn, cái làm bằng tre được ghi là, và cái làm bằng gỗ được ghi là.” (Phan Thị Mỹ Loan & Nguyễn Đỗ An Nhiên dịch, GS. Shimizu Masaaki hiệu đính, Nhà xb. Trẻ, 2016, trang 24). Trong tư liệu tham khảo chữ “giáp” được ghi bên trái bộ mộc , bên phải chữ hiệp; bộ chữ Hán điện toán Thiều-Chửu không có chữ này, vì dùng tạm chữ  với bộ thủ xóc nên ý nghĩa không sít sao cho lắm, tuy cũng có nghĩa là đũa).
        Ông Atsuji Tetsuji còn cho biết “Trong sách Lễ ký (“Khúc lễ”, cuốn thượng, được cho là đã được biên soạn vào thời Chiến Quốc có ghi như sau: “Canh chi hữu thái giả dụng giáp, kỳ vô thái giả bất dụng giáp” ( , 無菜 不用 ) nghĩa là kẻ có canh rau dùng đũa, kẻ không có rau không dùng đũa). Đây là ghi chép cổ xưa nhất liên quan đến đũa, và theo ghi chép này, đũa dường như là cái chỉ được sử dụng khi ăn phần “cái” trong món canh (). Ngoài ra, vì cũng trong câu văn đó có ghi “phạn thử vô dĩ trợ” (nếu cơm được nấu từ kê thì không được dùng đũa), nên chúng ta biết được việc sử dụng đũa khi ăn các loại ngũ cốc đã được nấu hoặc hấp chín là vi phạm chuẩn mực. Trong bữa cơm thời bấy giờ, dường như người ta ăn bốc hoặc sử dụng thìa khi ăn các loại hạt.” (trang 24). Nếu mấy chữ sau là sự thật thì cũng nên xét lại cụm từ “văn minh cầm đũa”.
        Dù sao độc giả cũng cám ơn tác giả Thái Gia Kỳ đã đưa ra cụm từ “văn minh cầm đũa” trong cuốn sách của ông. Cụm từ này của ông Thái Gia Kỳ ở có chỗ mang vẻ thực dụng quá chăng?  Chúng tôi không nghĩ như vậy, vả lại nếu đây là cụm từ của một vị giáo sư người Mỹ như Pike (Douglas Pike), tác giả cuốn sách Vietcong, do Cambridge xb. 1966), thầy dạy cũ của ông Thái Gia Kỳ đã sử dụng mà ông có nhắc đến tên ở trang 38, thì đó cũng là một điều bảo chứng phần nào cho giá trị chân xác của một tiêu đề được nhắc đến trong cuốn sách.
        Vương triều nhà Ân kéo dài từ 1600 tr.CN đến 1000 tr. CN với vua cuối cùng là Trụ Vương vốn là một bạo chúa. Đôi đũa bằng ngà voi của vua Trụ lúc bấy giờ được nhìn như là một xa xỉ phẩm có tác dụng làm sụp đổ cả một vương triều, một luận chứng đã được đưa ra như vậy trong sách của tác giả người Nhật trích dẫn ở trên (trang 17).
        Trong bộ sách có tên Cultures Of the World, KOREA, tác giả Jill Dubois in năm 1994, ở nhiều trang, nhất là ở trang 118 có chụp hình rất rõ người đàn ông Triều Tiên đang cầm đũa ngồi trước một cái bàn thấp với một món ăn dọn trước mặt qua đoạn văn viết có tên Using chopsticks (nói về cách dùng đũa), giới thiệu về nền văn hóa ẩm thực của đất nước này.
        Trong lãnh vực văn chương ngày nay, người ta luôn nhắc tới vấn đề ẩm thực của một miền, một đất nước như là biểu hiện sắc thái của văn minh gọi là “văn minh” hay “văn hóa ẩm thực”. Trong cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ, có lẽ đến 10 lần ông nhắc đến cụm từ “văn minh cầm đũa” để chỉ đến bốn nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên nhưng không thấy ông chú ý đề cập ít dòng viết về nền văn hóa ẩm thực của bốn quốc gia này hay ít nhất lý giải vì sao dân chúng bốn nước đó lại dùng đũa trong bữa ăn, lý do tất cả đều theo nền văn minh nông nghiệp, truyền thống ẩm thực trong gia đình v.v…?
        Cuốn sách của tác giả này dùng cụm từ “văn minh cầm đũa” là một hình ảnh thiên về vật chất (ăn uống) nhưng lại biên khảo, nghiên cứu toàn bộ ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết tức vấn đề tinh thần, điều này khiến tôi suy nghĩ đến hai nhân vật chính trị của Việt Nam: Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. Hồ Chí Minh là người Cộng sản nên đối với người Cộng sản thì vật chất là trên hết nhưng họ Hồ lại đưa ra một khẩu hiệu rất duy linh (“Không có gì quý hơn Độc lập - Tự do”) và trong bản di chúc chính trị của ông thì nói là ông sẽ đi về gặp cụ Mác, cụ Lê tức là ông Hồ trở thành duy tâm, duy linh. Còn cụ Ngô Đình Diệm vốn là một tín đồ Công Giáo ngoan đạo, một người duy linh nhưng khi đề cập đến người dân thì cụ Diệm lại nói một câu đầy tính duy vật “Không có gì quý hơn nồi cơm của mình”.
        Trong quyển Tự nguyên Hán tự đã có nêu ở trên, tác giả là Tiến Sĩ Atsuji Tetsuji có viết: “Hơn nữa, cũng giống Nhật Bản, ở bán đảo Triều Tiên, nơi đã sớm tích cực du nhập văn minh Trung Hoa, người ta đã phát hiện được bộ đũa và thìa từ di tích tại quận Lạc Lãng (khu vực Bình Nhưỡng ngày nay) được chế tạo vào thời Vũ Đế thuộc thời đại Tiền Hán. Nhưng ở bán đảo Triều Tiên ngày nay, người ta chủ yếu sử dụng thìa khi dùng bữa và đũa chỉ đóng vai trò như một dụng cụ phụ trợ chỉ được dùng đến khi gắp những thức ăn nóng. Ngày nay những đất nước chủ yếu sử dụng đũa khi dùng bữa chỉ có Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Dù vậy, dường như khá nhiều người Trung Quốc không biết rằng người Nhật cũng sử dụng đũa khi dùng bữa. Tôi đã từng méo miệng cười khi được một người Trung Quốc xa lạ ngồi cùng bàn trong quán ăn ở một phố tại Bắc Kinh khen rằng: “ Ông là người Nhật mà sao dùng đũa khéo thế!” (Phan Thị Mỹ Loan & Nguyễn Đỗ An Nhiên dịch, GS. Shimizu Maasaki hiệu đính, Nhà xb. Trẻ, 2016, trang 28).
        Sở dĩ chúng tôi gạch đít một câu trong đoạn trích dẫn ở trên để thấy rằng Triều Tiên vẫn còn dùng đôi đũa trong bữa ăn, chứ không phải như tác giả Atsuji Tetsuji nói, và cũng muốn chất chính với tác giả Thái Gia Kỳ về vấn đề này. Thực tế trong bữa ăn thường ngày, dân Triều Tiên nói chung có còn dùng đũa hay không?
        Trong cuốn sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho biết “ăn bằng đũa chính là cách ăn đặc thù thể hiện tư duy tổng hợp và biện chứng: Trong khi người phương Tây phải dùng một bộ đồ ăn gồm ít nhất là ba thứ thìa, dĩa, dao, mỗi thứ thực hiện một chức năng riêng rẽ và chặt chẽ (sản phẩm của tư duy phân tích), thì đôi đũa người Việt Nam thực hiện một cách rất linh hoạt hàng loạt chức năng khác nhau: gắp, và, xé, xẻ, dầm, khoắng, trộn, vét…, rồi còn nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn ở xa.” Ông còn cho biết: “Người Trung Quốc trước thời Tần vẫn chưa dùng đũa mà lấy tay bốc; chỉ từ khi thôn tính phương Nam (đời Tần-Hán) trở đi mới bắt đầu dùng đũa: ban đầu dùng một cách hạn chế để gắp thức ăn cứng từ các món canh, mãi về sau đôi đũa mới trở thành phổ biến. Thế kỷ VI đôi đũa mới du nhập vào Nhật Bản.” (Nhà xb. Tổng hợp Thành phố HCM, 2004, tr. 368).
        Đoạn tiếp của sách Trần Ngọc Thêm cung cấp một số kiến thức nhiều ý nghĩa về đôi đũa: “Người Việt Nam chế ra nhiều loại đũa: đôi đũa tre bình dân vừa dẻo vừa dai, gắp thức ăn nóng đến đâu cũng không hỏng; đũa mun càng dùng càng bóng; đũa sơn mài, đũa khảm trai như một tác phẩm nghệ thuật thu nhỏ; đũa ngọc quý và mát; đũa ngà làm thức ăn mau nguội; đũa kim giao (một loại gỗ quý hiếm hiện chỉ còn ở khu rừng quốc gia Cúc Phương) và đũa bạc có khả năng phát hiện được chất độc trong thức ăn… Tập quán dùng đũa lâu đời làm hình thành ở Việt Nam cả một triết lý - triết lý đôi đũa.  Trước hết, đó là triết lý về tính cặp đôi: Vợ chống như đũa có đôi; Vợ dại không hại bằng đũa vênh (tục ngữ); …Bây giờ chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho bằng (ca dao)… Thời Lê, quan xử kiện bẻ gãy đôi đũa là dấu hiệu cho phép ly hôn. Thứ đến là triết lý về tính số đông: Bó đũa là biểu tượng cho sự đoàn kết, của tính cộng đồng. Vơ đũa cả nắm là nói đến thói cào bằng xô bồ, tốt xấu không phân biệt… (trang 369).
                222.- Hệ thống nối kết của hai chữ “đồng văn”
        Hai chữ “đồng văn” có từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, lấy từ chữ “thư đồng văn” đã có đề cập đến ở trên.
        Trong bài tựa sách Tự học toản yếu Ngô Thời Nhiệm của nước ta viết vào cuối thế kỷ XVIII, đã đề cập tới chữ “đồng văn” trong ý nghĩa Việt Nam cùng với Trung Hoa có dùng một thứ chữ nhưng mà đọc âm, giải nghĩa khác nhau đại để như sau: “ 越文 …” (Lục thư thừa tắc, tứ hải đồng văn… Ngã Việt văn hiến lập quốc văn tự dữ Trung Hoa đồng nhi thiết nghĩa giải âm dữ Trung Hoa dị…)  Dịch nghĩa : “Sáu lối viết thành chữ còn để mẫu lại; bốn biển rộng mênh mông, cùng một lối văn… Nước Việt Nam ta, đem văn hiến xây dựng, cùng một lối văn tự với Trung Hoa. Nhưng mà, đọc âm, giải nghĩa khác nhau…) (Trần Văn Giáp, Lược khảo vấn đề chữ Nôm, Ngày Nay Publishing 2002, tr. 41).
        Với danh từ “đồng văn” (cùng chung chữ viết) các tư liệu nói về phong trào Đông Du ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 đều có đề cập đến một cơ sở giáo dục ở Nhật đó là Trường Đông Kinh Đồng Văn Thư Viện nơi mà đa số du học sinh VN đến học, sau này đó là thuộc Trường Đại Học Waseda (Tảo Đạo Điền ) (Trong sách 1905-2005 Kỷ niệm 100 năm Phong Trào Đông Du, Nhà xb. Tân Văn, Đông Kinh, 2005, trang 92). Họ lấy chữ đồng văn để chỉ chung một nguồn văn hóa.
        Trong cuốn Tự Phán, một hồi ký chính trị của mình, cụ Phan Bội Châu cũng có viết khi ghi lại lời Tiểu La Nguyễn Thành nói như sau: “Tôi tưởng tình thế liệt cường bây giờ nếu không phải nước đồng chủng đồng văn, tất không ai chịu giúp ta. Nước Tàu đã chịu nhượng nước Việt-Nam cho Pháp, huống gì hiện nay, quốc tế suy hèn, cứu mình không xong mà cứu được ai?Duy Nhật Bản là nước tân tiến ở trong nòi giống vàng, vừa mới đánh được Nga, dã tâm đương hăng hái lắm; qua tới đó đem lợi hại bày tỏ, tất có hiệu quả, dầu họ không xuất binh mã, mà mượn tư lương mua khí giới tất có thể dễ dàng…”(Nhân chủ học xã xuất bản, 1987, trang 56).
        Trong tác phẩm Nho giáo, Trần Trọng Kim có viết: “Các nước lân cận ở phía đông bắc thì có Cao-ly và Nhật-bản, ở phía đông nam thì có Việt-nam, đều là nước đồng văn với nước Tàu và cũng theo cái văn hóa của Nho giáo.” (Nho giáo, quyển hạ, Nhà xb. Tân Việt, in lần thứ ba, không đề năm in, trang 372).
        Tác giả Vũ Thế Ngọc trong cuốn Nghiên cứu Chữ Hán và tiếng Hán Việt cũng có viết: “Hai dân tộc ‘văn minh không kém’ Việt Nam là Nhật Bản và Triều Tiên, cũng không có cổ văn tự. Hai quốc gia này cũng giống như Việt Nam ngày trước, đều phải dùng Hán văn. Các cụ thường gọi bốn nước Việt, Trung, Nhật và Triều Tiên là các dân tộc “đồng văn” vì lẽ đó.” (Nhà xuất bản EastWest Institute, 1989, trang 31).

        Ở Bắc kỳ trong giai đoạn 1865-1907, trong lãnh vực báo chí cũng đã có tờ báo lấy tên Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo do một người Pháp chủ trương tên Francois Henri Schneider là người hiểu biết nhiều về dân bản xứ và còn giao thiệp rộng rãi với các nhân vật chính trị người Pháp. (T.S. Huỳnh Văn Tòng, Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nhà xb. Tổng hợp Thành phố HCM, 2016, tr. 77).

        Dựa trên tinh thần “đồng văn, đồng chủng” đó, các vua VN xưa nay vẫn tự xưng là hoàng đế, là thiên tử y hệt hoàng đế của Thiên Triều, cũng coi một số nước nhỏ chung quanh là chư hầu, và coi mình là “trung quốc”, cũng gọi dân mình là “hán nhân”… Theo Giáo sư Yoshiharu Tsuboi, “Việt Nam tuy nhỏ so với Trung Quốc nhưng theo Nho giáo một cách thuần khiết nhất, không thể bị coi là không đáng kể hay thấp kém hơn. Lập luận này không phải chỉ mang hình thức: so với triều đại Mãn Thanh đang thống trị ở Bắc Kinh lúc bấy giờ, triều Nguyễn có ít nhiều tư tưởng tự tôn về mặt văn hóa, đặc biệt vì họ tự xem là người bảo vệ truyền thống và đạo lý Nho giáo một cách chính thống hơn.” (Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp & Trung Hoa, Nhà xb. Trẻ Tp.HCM, 1999, tr. 139.) . Theo vị giáo sư người Nhật này, “Năm 1815, Gia Long công bố danh sách 13 nước mà vua coi là chư hầu; trong đó có Cao Miên (Cao Man) Xiêm (Xiêm La), Miến Điện, triều đình Luang Prabang (Nam Chưởng), triều đình Vạn Tượng, triều đình Xiêng Khoảng (Trấn Ninh) Thủy Xá quốc, Hỏa Xá quốc – hai tên sau cùng chỉ bộ tộc Gia Rai - nước Pháp, nước Anh,…. Trong thực tế, từ năm 1802 đến năm 1858, chỉ có bốn nước: Luang Prabang, Vạn Tượng, Cao Miên và Thủy Xá quốc - từ năm 1841, sứ bộ Thủy Xá quốc cùng đi với sứ bộ Hỏa Xá quốc – là có thể đặc biệt được xem là chư hầu, trong chừng mực họ gởi sứ bộ đến Huế.” (Sđd, tr. 140).
        Chính Nho học và nền văn hóa nông nghiệp là yếu tố kích thích ý thức bành trướng và chiếm hữu đất đai trong nhiều triều đại Trung Hoa từ thượng cổ cho đến thời hiện đại và dân tộc Việt Nam cũng nằm trong tầm ý thức hệ đó ảnh hưởng qua thời gian và không gian sinh tồn, thể hiện qua cuộc Nam tiến trong lịch sử.
        Theo sử gia Will Durant, chữ Hán là “ngôn ngữ biểu ý chứ không biểu âm, cho nên điểm thuận lợi rõ rệt nhất của nó là người Triều Tiên, người Nhật cũng đọc được nó dễ dàng như người Trung Quốc, và trở thành một thứ văn tự quốc tế ở miền Viễn Đông.” (Will Durant, Sđd, bản dịch Huỳnh Ngọc Chiến, tr. 946). Tiếc thay ở đây vị sử gia Hoa Kỳ này đã bỏ sót mất Việt Nam.

        23.- Vài điều cần nói lại về Khổng học:
         231.-Vị thế của Khổng học tại một số quốc gia phương Đông
        Khổng học qua chữ Hán đã chịu nhiều thăng trầm trong lịch sử với cương vị là một học thuyết hay một triết lý sống của xã hội Trung Hoa có liên hệ với một số quốc gia ở Đông Á như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam kể cả Mãn Châu nữa. Sở dĩ chúng tôi nhắc đến Mãn Châu là vì trong một cuốn sách nhan đề “Sagesse chinoise et Philosophie chrétienne”, Henri Bernard-Maitre đã nhắc đến Mãn châu qua bài viết của Edouard Chavannes đăng trên Revue de Paris trong đó có câu khen ngợi Khổng Tử: “Ở nơi Khổng Tử thiên tài của chủng tộc đã giúp tự ý thức về chính mình…Các dân tộc khác nhau như An-nam, Nhật-bản, Triều Tiên, Mãn châu đã tuần tự kéo về tuân phục” (“ En Confucius le génie de la race a pris conscience de lui-même...Des peuples diverses, Annamites, Japonais, Coréens et Mandchoux, sont venus tour à tour se soumettre à sa règle.” (Nhà xuất bản CATHASIA, Paris-VI, 1935, trang 27). Cuốn sách của tác giả Thái Gia Kỳ gợi lại cho chúng ta một số ý niệm cần làm sáng tỏ, một số nghiên cứu cần đào sâu hơn, và tìm thấy ở đây một số bổ túc trong lãnh vực sử học rất cần thiết và hữu ích.
        Trước hết xin nói về sự thăng trầm của Khổng giáo nhìn như một nền học thuật thì phải gọi là Khổng học chứ không phải là một tôn giáo do Khổng Tử khai sáng. Triết gia Phùng Hữu Lan (Fung Yu-lan) từ năm 1937, trong tác phẩm “Đại cương triết học sử Trung Quốc” đã nói: “Tôn giáo, riêng nó, cũng liên quan đến cuộc sống. Tại trung tâm mỗi tôn giáo lớn đều có triết học. Thật vậy, một tôn giáo lớn nào cũng là một triết học trên đó chồng chất, như một thượng tầng kiến trúc, những mê tín, giáo lý, lễ nghi và chế độ.Tôi gọi đó là tôn giáo. Nên hiểu tôn giáo theo nghĩa đó, nghĩa không khác với thông thường bao nhiêu, thì ta hiểu rằng nho học không thể coi là tôn giáo.” (TS. Nguyễn Văn Dương, Đại cương Triết học sử Trung Quốc, bản dịch Nhà xb. Thanh Niên – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Sài gòn, 1998, trang 19). Sau này giáo sư Derk Bodde, môn sinh của Phùng Hữu Lan, trong một bài báo nhan đề “Tư tưởng chủ yếu trong việc xây dựng nền văn hóa Trung quốc(Journal of the American Oriental Society, tập 62, số 4, tr. 293-299. In lại trong China, tr. 18 – 28, xuất bản bởi H.F. Mac Nair, University of California Press, 1946.) đã viết: “Họ (người Trung quốc) không phải là dân tộc mà tư tưởng và hoạt động tôn giáo chiếm phần trọng yếu trong đời sống… Chính luân lý (đặc biệt là luân lý nho gia) đã đem lại cơ sở tinh thần cho văn minh Trung quốc, chứ không phải là tôn giáo (ít ra không phải là một tôn giáo có hình thức rõ rệt và tổ chức chặt chẽ… (Bản dịch Nguyễn Văn Dương, Sách đã dẫn, trang 19)
                232.-Nho gia là gì?
        Theo định nghĩa của ông Thái Gia Kỳ “Nho là người đi học chữ”, những học trò ấy chuyên học hệ thống tư tưởng của Khổng Tử và của các đồ đệ sau này của ông, họ được gọi là Nho gia…” (trang 29). Về thuật ngữ nho (nhu) ,Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận giải thích rằng: “Nho là mềm; tiếng gọi thuật sĩ.” (Nho, nhu dã. Thuật sĩ chi xưng. , ; ) Khổng Tử bảo Tử Hạ: “Hãy làm nho quân tử chứ đừng làm nho tiểu nhân.” Như vậy, nho là tên gọi chung những người có tài nghệ và tri thức, cho nên mới có sự phân biệt giữa nho quân tửnho tiểu nhân. Khi Nho gia mới nổi lên, người ta lấy danh xưng nho để gọi họ. Sau đó, nó trở thành danh từ riêng chỉ chung một học phái, chứ thoạt đầu nho là một danh từ phổ thông.” (Phùng Hữu-Lan, Lịch Sử Triết Học Trung Quốc, tập I: Thời Đại Tử Học, Nhà xb. Khoa Học Xã Hội, Lê Anh Minh dịch, 2005, trang 97).
        Trong tác phẩm Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, tác giả Cao Xuân Huy cho biết: “Việc học tập từ chỗ độc quyền của quan lại quý tộc được nới rộng đến cả thứ dân, nên trường tư mở ra, gọi là giai đoạn “học hạ tư nhân” (việc học xuống đến tư nhân). Trong bọn quý tộc phá sản, có những kẻ trước kia làm quan chức văn hóa thì nay phải đi dạy học để mưu sinh. Những người ấy gọi là “tấn thân tiên sinh” sau đó gọi là “nho”. Trong sách Quốc cố luận hành, thiên Nguyên Nho, Chương Bính Lân nói rằng: “Cái tên Nho là bởi chữ nhu . Nhu nghĩa là lên đến trời, mà Nho cũng biết thiên văn, biết khi nào đại hạn, khi nào lụt…”. Tấn thân tiên sinh là những con người chuyển tiếp từ quan học đến tư học, mà cũng là những con người bảo tồn văn hóa Tây Chu ở đời Xuân thu” (Nhà xuất bản Văn Học, 1995, trang 379).
                233.-Về tác phẩm của Khổng Tử
        Tác giả Thái Gia Kỳ cho rằng “Khổng Tử biên soạn năm cuốn “kinh” mà ngày nay ta gọi là Ngũ kinh: Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch và Kinh Xuân Thu. Sự thực thì lúc đầu có “Lục kinh” chứ không phải chỉ có “Ngũ kinh”, cuốn kinh thứ sáu là Kinh nhạc, bị Tần Thủy Hoàng đốt đi, nên chỉ còn lại Ngũ kinh. Trong các sách trên, Khổng Tử đã thu thập, sắp xếp lại và chú giải cặn kẻ những lời nói của thánh hiền trong các đời vua Nghiêu, Thuấn, vua Châu Công đi trước.” (trang 27).
        Trong tác phẩm có tên Les Grands Philosophes de l’Orient, F. Tomlin, giáo sư ở Viện đại học Bristol và Londres cũng đã nói lên những quan điểm không khác ông Thái Gia Kỳ bao nhiêu khi viết (tạm dịch) rằng “Những cuốn sách mang tính linh hứng của Khổng giáo – vì chúng ta có quyền gọi như thế - được biết dưới cái tên Cửu thư. Năm trong số đó được gọi là Ngũ kinh, là những tác phẩm có thể do chính tay ông viết ra, nghĩa là chính ông là tác giả hay người san định lại…” (Les livres canoniques de la religion confucéenne – car nous sommes en droit de l’appeler ainsi – sont connus sous le nom des Neufs Classiques. Cinq d’entre eux, appelés les cinq King, sont probablement l’oeuvre de sa proper main, qu’il en ait été l’auteur ou l’éditeur.” (Nhà xb Payot, Paris, 1952, tr. 274).
        Ngày nay những nhận định trên đã có chiều thay đổi cho phù hợp với thực trạng nghiên cứu về Khổng học trên thế giới. Tiến Sĩ Phùng Hữu Lan cho rằng: “Xưa nay những nhà kinh học kim văn đều cho rằng lục nghệ là do Khổng Tử đặt ra. Các nhà kinh học cổ văn lại cho rằng Khổng Tử chỉ thuật lại lục nghệ mà thôi. Thuyết tuy khác, nhưng đều cho thấy Khổng Tử có liên quan đến lục nghệ. Ngày nay tôi cho rằng cái gọi là lục nghệ là các môn học vấn cố hữu của thời Xuân Thu, có trước Khổng Tử, tức là ông chưa từng chế tác ra chúng.” (Phùng Hữu Lan, Sđd, trang 95). Có hai thuyết về lục nghệ: Lục nghệ = lục kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu; Lục nghệ = Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số. Theo Phùng Hữu Lan, Khổng Tử đã lấy sách có sẵn thời bấy giờ để dạy học. Trong khi dạy ông tùy lúc có gia giảm, lựa chọn. Nếu cho hành động đó là san chính  hay san định (tức là trừ bỏ điều không thích hợp, sửa sang lại cho đúng) lục kinh, thì quả thực Khổng Tử đã có san chính.
        Trong phần “chữ Hán và Lão giáo Trung Quốc”, tác giả TGK viết rằng “Lão Tử từng làm quan sử nhà Chu nhà Chu, cùng thời với Khổng Tử nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử, đã có lần Khổng Tử đến tìm hiểu “lễ” với ông.”
        Các học giả ngày nay như Tiến sĩ Phùng Hữu Lan cho rằng sách Lão Tử tức Đạo Đức Kinh là tác phẩm thời Chiến Quốc (478-221) trong khi Khổng Tử sinh vào giai đoạn trước tức năm 551 thuộc thời Xuân Thu (722-479) (Phùng Hữu Lan, Lịch sử Triết học Trung Quốc, Tập I, Thời đại Tử học, Nhà xb. Khoa học Xã hội, 2013, tr. 234). Nguyễn Hiến Lê cho rằng Lão Tử sinh trên một trăm năm sau Khổng Tử. (Khổng Tử, Nhà xb. Văn Hóa, 1992, trang 40; Khổng Tử, Nhà xb. Văn Nghệ, California, 1992, trang 45; Sử Trung Quốc, Nhà xb. Văn Nghệ, California, 2003, trang 149). Theo Nguyễn Hiến Lê, sách Luận ngữ không bao giờ nhắc tới Lão Tử, và việc Khổng Tử tới Chu nghiên cứu về “lễ” cũng không có.
               234.- Chữ Hán vào Việt Nam từ lúc nào
        Đây là câu hỏi cuốn sách ông Thái Gia Kỳ đặt ra và cũng là một vấn đề cần tìm hiểu nghiêm túc.
        Tác giả Thái Gia Kỳ dẫn cuốn sách “Nguồn gốc Văn học Việt Nam” của Lê Văn Siêu và cho rằng: “Chính ra thì trước khi bị dưới ách đô hộ của người Tàu, chữ Hán đã có và đã được sử dụng ở ta rồi.” Nếu dân chúng quả thực chưa biết chữ Hán thì Triệu Đà viết hịch văn bằng chữ Hán cho ai đọc? … Rồi đến năm 112 tr. T.L., Lữ Gia truyền hịch đi khắp mọi nơi kể tội Cù Thị… Hịch viết bằng chữ Hán… Sự truyền hịch bằng chữ Hán như vậy mặc nhiên đã cho biết là người trong nước đọc được Hán văn từ trước khi quân Tàu đặt ách đô hộ vào năm 111 tr. T.L. và trước khi Sĩ Nhiếp làm thái thú vào năm 187 s. T.L.” Cũng theo Lê Văn Siêu (cùng sách trích trên, trang 126), “… ta phải kể tới công lớn lao của người Việt Dương Tử khi đã đem chữ Hán về cho dân tộc ta.” (Thái Gia Kỳ, trang 65).
        Quan điểm của ông Lê Văn Siêu không phải là không phản ánh nhiều nhận thức còn tranh cãi từ sự kiện đến biến cố và phương pháp luận sử học, nói chung cuốn sách của ông Lê Văn Siêu chịu ảnh hưởng của nguồn tư liệu cũ như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên nên đã nâng quốc thống Việt Nam lên bốn nghìn năm, và qua đó coi đất Nam Việt (gồm Quảng Đông, Quảng Tây và cổ Việt ) cũng là đất của Việt Nam từ năm 207 tr. T.L. Quan điểm sử học của Ngô Sĩ Liên đã bị chính vua Tự Đức bác bỏ, và giới sử học VN về sau ít chấp nhận. (Xem Nguyễn Phương, Việt Nam thời khai sinh, Phòng nghiên cứu sử Viện Đại học Huế, 1965).
        Quan điểm chung của phần đông các nhà nghiên cứu văn học, sử học đều cho rằng Sĩ Nhiếp (187-226), là người khởi đầu của văn học và được tặng danh xưng “Nam bang học tổ”. Thật ra không có một tư liệu nào xác nhận rõ rệt niên đại chữ Hán được đưa vào nước ta nên tạm thời sử dụng đoạn văn sau đây của sử gia Trần Trọng Kim: “Trong những nước chịu cái văn hóa của Nho giáo, có nước Việt-nam ta đối với nước Tàu có cái mối liên lạc mật thiết hơn cả, là bởi vì từ đời vua Hán Vũ-đế đến đời Ngũ-quí, hơn một nghìn năm, nước ta kể từ Nghệ Tĩnh trở ra, thuộc vào bản đồ người Tàu. Người mình không những là bị cảm hóa đã lâu đời, mà lại phần nhiều là dòng dõi người Tàu sang sinh cơ lập nghiệp ở bên này, rồi dần dần thành ra người bản xứ. Bởi vậy Nho học ở nước ta, vào quãng cuối thời Đông-Hán đã có phần thịnh. Thuở ấy đã có người như Lý Tiến, Lý Cầm và Trương Trọng, đỗ hiếu liêm hoặc mậu tài, được bổ đi làm quan ở bên Tàu. Qua sang đời Tam quốc, ở quận Giao-chỉ có quan thái thú là Sĩ Nhiếp hết lòng mở mang việc học, làm cho nho học lại thịnh hành hơn trước nữa.”(Nho giáo, quyển hạ, Tân Việt xuất bản, in lần thứ ba, tr. 372).
        Theo Ngô Sĩ Liên, Lý Cầm là “người nước Việt ta”, (Toàn Thư, bản dịch Viện Khoa học Xã hội, Nhà xb. KHXH, 1998, tập I, tr. 162) nhưng một người trong giới nghiên cứu sử học Miền Nam, sử gia Nguyễn Phương đã chứng minh những luận điểm sai trái của sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bởi vì nước Việt ta ở đây gồm cả Quảng Đông, Quảng Tây và cổ Việt tức Bắc Việt trong quan điểm của vị sử gia này. Theo giới nghiên cứu sử học Miền Nam VN trước 1975, dân tộc VN có nguồn gốc bản địa dựa trên các khảo chứng về dân tộc học, khảo cổ học, việc phổ cập chữ Hán được thực hiện trong các tầng lớp di dân Trung Quốc sống tại đất cổ Việt. Sau cuộc khởi nghĩa thất bại của Hai Bà Trưng, dân Lạc Việt không còn hiện diện trên sách vở cứ liệu của Trung Quốc nữa và nếu có thì được gọi là người Liêu.
        Những người có học, đỗ đạt được kể tên đó, theo Đào Duy Anh, là thuộc tầng lớp phú hào bản quốc, hoặc do nguồn di dân Trung quốc trở thành. (Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nhà xb. Văn hóa Thông tin, 2002, tr. 111).
        Liên quan đến gia đình Khổng Tử là tên bà mẹ. Theo ông Thái Gia Kỳ, mẹ Khổng Tử tên Nhan Chính Tại. Các tư liệu trước đây như sách Khổng giáo của Trần Trọng Kim, các sách của Nguyễn Hiến Lê đều nói Nhan thị, nhưng sách Khổng Học Đăng của cụ Phan Bội Châu nói Nhan thị Trưng-Tại (Phan Bội Châu, Sđd, tr. 11). Đây cũng là một bổ chính cần lưu ý.
        Cuốn sách của ông Thái Gia Kỳ đã đưa độc giả, dù bằng những nét rất khái quát, vào lãnh vực tôn giáo (Phật, Lão) và học thuật (Nho học) đến với các quốc gia láng giềng của Trung Quốc như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, với những thời điểm tuy không được chính xác cho lắm (và những điểm này sẽ được góp ý hay nghiên cứu thêm) nhưng lột rõ được ý tác giả là muốn người ta chú trọng nhiều đến sức mạnh của chữ Hán, một thứ văn tự có mãnh lực thu hút và tấn công nếu nhìn như một thứ vũ khí tư tưởng.

        24.- Một vài góp ý khác liên hệ tới mốc thời gian
        Trong cuốn sách của Thái Gia Kỳ, ở trang 43 ông viết: “Theo Seong-Chul Shin & Gene Baik trong cuốn Pocket Korean Dictionary, chữ Hán du nhập vào Triều Tiên vào những năm đầu Công nguyên, nhưng có sách lại cho rằng chữ Hán truyền vào Triều Tiên trước nữa, vào thời nhà Tiền Hán Trung Quốc được thành lập (202 tr. CN) cùng một thời kỳ với sự du nhập chữ Hán vào Việt Nam.”
        Thật ra việc xác định thời điểm một biến cố hay sự kiện xảy ra ở đâu một cách dứt khoát cũng là điều xưa nay các nhà nghiên cứu tỏ ra rất thận trọng. Đối với những sự kiện xảy ra trong nước mình, cách nay vài thế kỷ thì việc này cũng đã là việc khó huống hồ là những biến cố thuộc các quốc gia khác xảy ra vào những thời gian cách nay hàng chục thế kỷ.
              241.- Chữ Hán và Phật giáo truyền vào Triều Tiên
        Trong cuốn sách viết về Triều Tiên đã dẫn ở trên, tác giả Jill Dubois cho biết “vào năm 108 tr. C.N. Trung Quốc đã tạo được thêm ảnh hưởng trực tiếp đối với sự phát triển văn hóa của xứ này khi nhà Hán chinh phục được miền đất phía bắc của bán đảo Triều Tiên và thiết lập bốn quận ở đây. Lịch sử của Triều Tiên bắt đầu được ghi lại qua biến cố này. Các bộ lạc của Triều Tiên đã chiếm được ba trong bốn quận đó vào năm 75 tr. C.N. Quận còn lại là Lalang (Lạc Lãng) vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc. Thông qua sự thăng hoa của nền văn minh nơi xứ thuộc địa Trung Quốc có tên Lạc Lãng này, tất cả các loại hình đặc thù của nền văn minh Trung Quốc như hệ thống văn tự, ý niệm tôn giáo, cơ cấu chính quyền, và nghệ thuật luyện sắt được truyền vào cho các bộ lạc Triều Tiên.” (trang 20).
        Qua tác phẩm A New History of Korea, tác giả Ki-baik Lee cũng cho biết năm 108 tr. C.N. nhà Hán đã thành lập bốn quận Lo-lang (Lạc Lãng) Chen-fan (Chân Phiên) và Lin-t’un (Lâm Truân) trong vùng đất Wiman Choson của Triều Tiên ngày trước và năm sau lập thêm quận Hsuan-t’u (Huyền Thố) (bản dịch Anh ngữ của Edward W. Wagner, Nhà xb. Harvard University Press, 1984, tr. 19) qua đó chính quyền Trung Quốc đã đặt các quan hệ ngoại giao với các thủ lãnh bộ tộc địa phương bằng cách ban cho họ chức tước, quan hàm, lễ phục, ấn triện của Trung Quốc và điều này cũng chứng tỏ tầm quan trọng trong việc phát huy văn hóa, trong đó dĩ nhiên có chữ Hán, của nước này (trang 20).
        Về vấn đề đạo Phật truyền vào Triều Tiên, ông Thái Gia Kỳ viết theo tư liệu của Nhậm Kế Dũ trong cuốn Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, phần Phật giáo truyền vào Triều Tiên, rằng “đạo Phật được truyền bá trước tiên vào vùng bắc của nước Cao Cú Li (một bộ lạc ở phía bắc Triều Tiên vào những thế kỷ đầu Công nguyên). Vào năm CN 372, Tần vương (thời kỳ Thập Lục Quốc ở Trung Quốc, năm 304-439 CN) cử sứ thần và các tăng mang tượng Phật và kinh sách tặng nước Cao Cú Li , sau đó (vào năm CN 374), lại cho Đại tăng A Đạo vào truyền giáo.” (trang 46). Và ở đoạn dưới ông TGK viết: “Ở miền Đông bắc Triều Tiên lúc bấy giờ có xứ Tân La, Phật giáo ở đây phát triển tương đối trễ so với hai xứ Cao Cú Li và Baiji trong thời Tam quốc của nước Triều Tiên…” (trang 47).
        Thời Thập lục quốc ở Trung Quốc này tức là thời Nam Bắc Triều ghi nhận khoảng năm 317-580 mà theo Nguyễn Hiến Lê nhận xét là có khoảng trên 20 triều đại chứ không chỉ 16. (Nguyễn Hiến Lê, Sách đã dẫn, tr. 235). Thời điểm 372 được coi là thời điểm Triều Tiên chấp nhận Phật giáo khi một vị tăng tên Thuận Đạo (Sundo) đến Cao Cú Li (hay Cao Cú Lệ) theo lệnh Tần vương Phù Kiên lúc bấy giờ đang chiếm giữ vùng đông bắc Trung Quốc, tặng nhiều tranh ảnh Đức Phật cùng Phật kinh cho triều đình Cao ly. (Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, không có tên nhà xb. In tại nhà in Hồng Phát, Chợ-lớn, 1958, trang 176). Mười hai năm sau tăng sĩ Ma La Nan Đà (Malananda) từ Đông Tấn thuộc vùng lưu vực sông Dương tử đến Bách Tế (Paekche) truyền đạo. Ở Tân La (Silla) Phật giáo được truyền đến tương đối trễ hơn và chắc chắn là khoảng giữa thế kỷ thứ V do tăng sĩ A-đạo (Ado) cũng được gọi là Mặc Hồ Tử (Mukhoja) từ Cao Cú Li đến Tân La. (Ki-baik Lee, A New History of Korea, bản tiếng Anh của Edward W. Wagner with Edward J. Shultz, 1984, tr. 59).
        Cũng trang 47, tác giả TGK viết “Ở miền Đông bắc Triều Tiên lúc bấy giờ có xứ Tân La, Phật giáo phát triển tương đối trễ…”, chữ “đông bắc” ở đây nên đổi lại là “đông nam” cho phù hợp với vị trí của Tân La lúc bấy giờ.
        Cũng giống như tình trạng Phật giáo ở VN thời nhà Lý, ở Triều Tiên Phật giáo cũng nhận được sự trợ giúp dồi dào của chính quyền nên có rất nhiều thời kỳ giới tăng lữ đã trở thành cố vấn chính trị cho vua chúa nước này. Hai vị sư nổi tiếng ở nước Tân La là Won’gwang (Viên-Quang) được nhà vua hỏi về cách trị nước, và nhà sư Chajang (Từ-Tạng) là người được phong chức Quốc Sư (Chief Abbot of State) đã chỉ đạo việc xây cất ngôi chùa chín tầng ở Hwangnyong-sa (Hoàng Long Tự). (Ki-baik Lee, sách đã dẫn, trang 61).
              242.- Chữ Hán và Phật giáo truyền vào Nhật Bản 
        Trong cuốn sách của mình, tác giả TGK viết về sự xuất hiện của chữ Hán tại Nhật Bản như sau: “Thực tế rất khó xác định chữ Hán đã truyền vào Nhật Bản từ lúc nào. Người ta chỉ tìm thấy những di vật có mang chữ Hán trên một số đồ sành sứ, tiền bằng kim khí v.v… vào thời Yayoi năm 57 Công nguyên. Có giả thuyết cho rằng chữ Hán đã được truyền vào từ Triều Tiên vào thế kỷ thứ 3 CN, lúc đầu với các tác phẩm chữ Hán xưa như Tam Tự Kinh và Luận Ngữ. Trong cuốn Confucius in East Asia, GS Jeffrey L. Richey có kể từ thế kỷ thứ ba, nhiều nhóm dân Nhật đã thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc với cả hai xã hội Triều Tiên và Trung Quốc… đến những năm sau 400, một số người Nhật đã có khả năng đọc và viết chữ Hán.” (trang 50).
        Theo giới khảo cổ học, giai đoạn đồ đá mới ở Nhật Bản có thể chia làm hai thời kỳ : Jomonshiki (Thằng-văn-thức) từ 7000 hay 8000 năm tr. C.N. đến 1200 tr. CN. và Yayoishiki (Di-sinh-thức) từ 1200 tr. CN. đến năm 250 sau CN. Đó là những đồ dùng bằng đất nung như lu, chén, bát đời thượng cổ. Loại trước, khi nắn còn ướt, người ta lấy dây thừng ấn vào nên có vết rằn rện sau khi được nung lửa sơ sài, thường có màu đen thẫm. Loại sau chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc nên khá tinh xảo, đẹp hơn, kỹ thuật tiến bộ hơn, được sản xuất hàng loạt. Yayoi là tên một vùng ở tỉnh Tokyo. Chữ Hán in trên loại gốm này có thể có khi người Trung Quốc khởi đầu giao tiếp với Nhật Bản thời Tiền Hán (206 tr. CN – 220 sau CN)
        Theo Will Durant, “người Nhật vay mượn hệ thống chữ viết và giáo dục từ người Trung Quốc… Ngôn ngữ này (tiếng Nhật) dường như không màng đến cả chữ viết, mãi cho đến khi người Triều Tiên và Trung Quốc đem nghệ thuật này đến cho đất nước Nhật Bản vào đầu thế kỷ thứ nhất; kể từ đó người Nhật trong hàng mấy trăm năm tỏ ra hài lòng với việc dùng những chữ tượng hình của Trung Quốc để diễn tả thứ ngôn ngữ du dương như tiếng Ý của họ.” (Bản dịch Huỳnh Ngọc Chiến, tr. 1065).
        Một sử gia Việt Nam, Phan Khoang trong Trung Quốc sử lược đã viết: “Văn hóa Trung Quốc do bán đảo Triều Tiên truyền sang Nhật Bản. Năm 285, đời Tấn nước Trung Quốc, có vị bác sĩ người Bách-tề (nay gọi Bách-tế tức Paekche, NDC chú) đem sách Luận ngữ và sách Thiên tự văn vào Nhật dạy Thái tử. Đồng thời, Dung-thông vương (Hậu duệ của công tử Phù-Tô đời Tần) đem bộ hạ dân 127 huyện sang qui thuận Nhật Bản, các người ấy đều biết nghề tằm tơ, Thiên hoàng rất thân yêu, đem để ở các nơi, cho làm nghề ấy.” (Sđd, trang 176).
        Tuy nhiên, khác với các ý kiến trên đây, Thạch-Điền Nhất-Lương (Ishi Da Kazu-Yoshi) trong tác phẩm Nhật Bản Tư Tưởng Sử (Nihon Shi-sô Shi) cho rằng từ hậu bán thế kỷ IV, khi Nhật Bản đã mật thiết giao thông với Triều Tiên từ hàng thế kỷ trước rồi mới biết mượn chữ Hán của Trung Quốc mà cải chế thành văn tự để sử dụng (Bản dịch của Châm Vũ Nguyễn Văn Tần, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn hóa, Tập I, 1972, trang 94). Tác giả này nhấn mạnh : “Trong thế kỷ IV, Trung Hoa và Nhật bản vẫn thường giao thiệp bằng văn thư, chứng tỏ bên này quần đảo  cũng phải có người biết chữ Hán để ứng đáp. Có điều chắc chắn là, cho đến đầu thế kỷ IV, người Nhật Bản biết chữ Hán vẫn còn quá ít, chỉ từ hạ bán thế kỷ này trở đi, chữ Hán mới trở nên thịnh dụng bởi Nhật Bản can thiệp mạnh vào nội chính Nam Triều Tiên.” (tr. 95) (Thích Thiên-Ân, Lịch sử tư tưởng Nhật Bản, Nhà xb. Đông Phương 1965, trang 314-316 và tr. 327). Cũng theo tác giả Thạch-Điền Nhất-Lương phải từ thế kỷ VI Hán tự mới bắt đầu phổ cập ra dân gian.
        Việc Phan Khoang kể lại chuyện một bác sĩ Bách Tế đem bộ sách Luận Ngữ và sách Thiên Tự Văn vào Nhật dạy thái tử năm 285, được tác giả Thạch-Điền Nhất-Lương cho biết là do hai cuốn sách Cổ sự ký (năm 712) và Nhật Bản Thư kỷ   (720) ra đời khoảng đầu thế kỷ VIII kể lại chuyện này, nhưng theo ông, hai cuốn sách sử học này cũng có những chỗ cần nghi ngờ chẳng hạn sự việc này xảy ra dưới thời Ứng Thần Thiên Hoàng nhưng theo Thạch-Điền Nhất-Lương cho biết Ứng Thần Thiên Hoàng chỉ là vị vua huyền thoại, không rõ được tại vị vào những năm nào nên những việc như trên đều có thể do ngụy tác của đời sau làm ra vẻ như câu truyện có thật mà thôi. (Thạch-Điền Nhất-Lương, Sách đã dẫn, trang 100).
        Trong cuốn sách Lịch sử tư tưởng Nhật Bản, Giáo sư Tiến sĩ Thích Thiên-Ân, tốt nghiệp Viện Đại Học Waseda, cho biết dân tộc Nhật Bản rất có tinh thần chuộng cổ qua đoạn văn trích dẫn sau đây: “Không những văn chương thi phú, đến cả các vấn đề tư tưởng, tôn giáo, văn tự v. v… của Nhật Bản cũng chứa đầy cả tinh thần chuộng cổ nầy. Thật vậy, về tôn giáo tư tưởng chúng ta thấy rằng: Nho giáo và Phật giáo là hai tôn giáo được truyền bá vào đất Nhật ở các thời cổ đại, có ảnh hưởng sâu xa trong văn hóa tư tưởng của Nhật Bản, vì thế nên gần đây dù có các phong trào tự do vật dục, hoặc các lý thuyết vô thần truyền nhập vào, nhưng  những tư tưởng và đạo lý cổ truyền của hai tôn giáo nầy vẫn chiếm một địa vị quan trọng trong đời sống tâm linh của con người Nhật Bản.” (trang 126)
        Thời điểm xuất hiện của Phật giáo tại Nhật Bản cũng cho nhiều kiến giải khác nhau. Theo ông Thái Gia Kỳ, “thế kỷ thứ V là thế kỷ Phật giáo phát triển mạnh tại Triều Tiên, vào lúc này, vua xứ Baiji rộng lớn ở phía tây nam Triều Tiên đã phái Wani, một học giả lỗi lạc, cùng một số học giả người Triều Tiên và người Trung Quốc mang các kinh sách của Khổng giáo, Phật giáo và một số sách chữ Hán khác vào Nhật Bản.” (trang 51)
        Theo Will Durant, “Năm 522, Phật giáo mới được truyền bá vào Nhật Bản, dù nó đã được truyền bá vào Trung Quốc trước đó năm trăm năm, và nhanh chóng chinh phục được đất nước này.” (Bản dịch, Huỳnh Ngọc Chiến, tr. 1017).
        Trong cuốn Tinh Hoa Triết Học Phật Giáo do Junjiro Takakusu (Cao Nam Thuận Thứ Lang) viết, Tuệ Sỹ dịch, có ghi: “Phật giáo chính thức du nhập Nhật Bản năm 552 qua ngã Bách tế (Paikche ), một vương quốc thuộc Cao-ly (Korea) nhưng 30 năm trước đó, tượng Phật đã được mang vào Nhật rồi. Năm 594, Thánh Đức Thái tử (Shôtoku Taishi; 574-622) tuyên bố Phật giáo là quốc giáo.” (Như Như xb., Phật lịch 2551 – Đinh hợi 2007, trang 21).
        Qua tác phẩm Modern Japan, A Historical Survey (Nhật bản cận đại sử), tác giả người Nhật Mikiso Hane cho biết Phật giáo du nhập vào Nhật Bản qua ngã Triều Tiên vào thế kỷ thứ sáu. Giai cấp cầm quyền Nhật Bản đã có rất nhiều ấn tượng về vẻ đẹp của những đồ khí mảnh, lễ nghi và các kinh sách đi kèm với tôn giáo này; kể từ đó đạo giáo ấy nhận được sự giúp đỡ mạnh mẽ của giới cầm quyền. (Nhà xb. Westview Press, 1992, trang 13).

        25.- Chữ Nôm, kho tàng văn hóa đặc trưng của người Việt trong quá khứ
        Tác phẩm của ông Thái Gia Kỳ có dành 14 trang để viết về chữ Nôm cũng là yếu tố để chúng ta nhìn thấy được tầm quan trọng nhất định của loại văn tự này. Nhưng sự xuất hiện của chữ Nôm cũng đã đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà nghiên cứu văn học mặc dù ngày nay thứ chữ đó đã không được sử dụng rộng rãi.
                251.- Thời điểm xuất hiện chữ Nôm
        Trong tác phẩm của mình, tác giả Thái Gia Kỳ cho biết “Từ thế kỷ thứ XVI, trên văn đàn Việt Nam, xuất hiện một loại văn tự mới, của riêng Việt Nam, đó là chữ Nôm, một thứ chữ kết hợp giữa nghĩa chữ Hán với âm của tiếng Hán Việt và đọc bằng tiếng Việt mà người Hán không thể đọc và hiểu được. Thậm chí nếu là người rành chữ Hán mà chưa có cơ hội nghiên cứu qua cũng không thể đọc và hiểu được, cùng lắm là hiểu lờ mờ vì trong mỗi câu hay mỗi đoạn có một số chữ Nôm dung nguyên chữ Hán hoặc có hình thức của chữ Hán trong khi phát âm của chữ đó lại là tiếng Việt.” (trang 121).
        Thật ra, thời điểm chữ Nôm xuất hiện đã có nhiều luận chứng khác nhau giữa giới nghiên cứu văn học.
        Chữ Nôm có lẽ do chữ Nam đọc chệch đi, “chữ Nôm” có nghĩa là “chữ của người phương Nam, đối với “chữ Hán” của người phương Bắc, tức Trung Hoa.” (Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Khoa Cử Việt Nam, Thi Hương, tập thượng, An Tiêm xuất bản, Paris, 2002, tr. 126).
        Theo Giáo sư Đoàn Khoách, “chữ Nôm là loại văn tự xây dựng từ chất liệu chữ Hán, do đó trước khi tìm hiểu cách cấu tạo chữ Nôm, chúng ta thử tìm hiểu sơ qua cách kết cấu chữ Hán mà người xưa gọi là lục thư ”. (Đoàn Khoách, Đặc san Đại Học Huế, Vài nét đại cương về chữ Nôm, 2017, trang 174; Xem Thái Gia Kỳ, trang 18). Giáo sư Đoàn Khoách cũng cho biết : “Trong việc cấu tạo chữ Nôm, ngoài việc dùng chữ nghĩa Hán âm Việt (gọi là Hán tự Việt độc hay Việt độc hoặc Hán-Việt) như gia đình hay xã hội v.v…, trước đây người Việt thường chỉ mượn ba trong sáu cách của lục thư là Hội ý, Hình thanh, Giả tá. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển biến của lịch sử, do âm đọc chữ Hán của người Việt có sai khác, nên phần ngữ âm lịch sử Việt Nam cũng có một ảnh hưởng nhất định trong việc cấu tạo chữ Nôm.” (tr. 174-175).
        Theo Trần Văn Giáp, trong quyển Lược khảo vấn đề chữ Nôm thì “chữ Nôm là một thứ chữ khối vuông của Việt Nam dùng để phiên âm tiếng Việt, mới xuất hiện trên đất Việt Nam từ cuối đời Hán Minh đế, dưới thời thống trị của Sĩ Nhiếp, thế kỷ thứ II sau công nguyên, do người Việt Nam tự sáng tạo ra.” (Trần Văn Giáp, Nhà xb Ngày Nay Publishing 2002, tr. 34). Ý kiến của Trần Văn Giáp là dựa vào quan điểm của sư Pháp Tính tác giả cuốn Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa được khắc in vào năm Tân tị thứ 22 triều Lê Cảnh Hưng (1761). Bài tựa sách này có đoạn như sau: “Từ khi thánh nhân lập ra lối chữ có bộ phận để chỉ nghĩa, chỉ tên gọi cho chính xác, khiến cho người Trung Quốc dễ hiểu, còn các dân tộc khác thì hãy còn khó hiểu. Mãi đến thời Sĩ Vương sang đóng ở nước ta trong khoảng hơn 40 năm, ra sức giáo hóa, giải nghĩa bằng tiếng Nôm để thông hiểu từng đoạn, từng câu, họp lại thành thơ ca quốc ngữ, đề ghi tên gọi, ghép vận làm thành sách Chỉ Nam Phẩm Vựng chia ra thượng hạ 2 quyển…” (Đoàn Khoách, Vài nét đại cương về chữ Nôm, Đặc san Đại Học Huế, Kỷ niệm 60 năm Đại Học Huế (1957-2017), trang 177). 
        Dưới thời Tự Đức (1848-1883), Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn Xan cũng đề cập niên đại thành lập chữ Nôm trong cuốn Đại Nam Quốc Ngữ tựa đề năm Tự Đức thứ 33 (1880) trong có đoạn (dịch): “Nước ta từ đời Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) đã đem dịch tiếng Nam bằng tiếng Bắc (Trung Quốc); trong số tiếng dịch ấy, có nhiều tên còn chưa rõ, như “thư cưu” (chim uyên ương” chẳng biết gọi là chim gì, “dương đào” (cây khế) chẳng biết gọi là cây gì…” (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr.178).
        Những người chung ý kiến với Trần Văn Giáp có Lê Dư, Nguyễn Đổng Chi.
        Các học giả P. Pelliot và L. Cadière cho rằng chữ Nôm được sáng chế từ cuối thế kỷ XIII, dẫn đoạn sau đây trong sách Hải đông chí lược   của Ngô Thời Sĩ : “Ngã quốc văn học đa dụng quốc ngữ tự Thuyên thủy” (văn học nước ta dùng nhiều quốc ngữ bắt đầu từ ông Thuyên); lại nêu những danh sĩ đồng thời với Nguyễn Thuyên như Nguyễn Sĩ Cố có tập Quốc Âm thi phú, Chu Văn An có Quốc Ngữ thi tập… để minh chứng những hoạt động văn nghệ nói trên nằm trong phong trào lưu hành thi phú bằng tục ngữ trong thời đại nhà Trần. Từ đó hai ông suy luận rằng chữ Nôm là thứ chữ để biên ký tục ngữ Việt Nam, có lẽ được sang chế từ cuối thế kỷ thứ XIII (trong đời nhà Trần) là một thời kỳ văn học tục ngữ (quốc âm thi) rất phát đạt tại Việt Nam. (Đoàn Khoách, bài đã dẫn, tr. 178). Chữ tục ngữ nói ở đây xin hiểu là tiếng Việt sử dụng hằng ngày. Người ta cũng tương truyền câu chuyện Nguyễn Thuyên, (bắt chước Hàn Dũ năm 819) làm bài thi đuổi cá sấu xuất hiện ở sông Phú-lương (Nhị Hà), sau đó được vua Trần Nhân Tông đổi tên Hàn Thuyên, nhưng theo Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I, bài thơ đuổi cá sấu in trong Tứ Dân Văn Uyển hồi đầu thế kỷ XX nói là của Hàn Thuyên và được một số sách báo in lại, đúng ra là của Phó bảng Nguyễn Can Mộng ngụy tạo để đùa chơi, tiếc rằng lời cải chính in trên một số báo sau đó ít người được đọc nên nhiều người vẫn tưởng là của Hàn Thuyên thực. Song nếu đọc kỹ sẽ thấy toàn bài không có lấy một từ ngữ cổ, thơ cũng không viết theo thể Hàn luật, khó có thể tin là của Hàn Thuyên.” (Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Sđd, tr. 128).
        Theo học giả Nguyễn Văn Tố, chữ Nôm được sử dụng vào thế kỷ VIII là vì Phùng Hưng khởi nghĩa đánh diệt Cao Chính Bình năm 791, chiếm phủ lỵ, được dân chúng tôn là “Bố Cái đại vương” . Về ý nghĩa chữ Bố Cái, sách Cương Mục chua rằng: “Cổ tục hiệu phụ viết Bố, mẫu viết Cái” (theo cổ tục nước ta gọi cha là Bố, mẹ là Cái). Họ Nguyễn lấy đoạn sử ấy như một thực lệ chữ Nôm đã được sử dụng vào thế kỷ VIII và đặt niên đại thượng hạn (terminus a quem) của chữ Nôm vào cuối thế kỷ thứ VIII. Đào Duy Anh, trong cuốn Chữ Nôm, nguồn gốc- cấu tạo-diễn biến đã phản bác ý kiến của Nguyễn Văn Tố khi cho rằng “ Việt sử lược là sách tóm tắt bộ Sử Ký của Lê Văn Hưu không thấy chép hiệu Bố Cái Đại Vương, mà bia đề đền thờ Phùng Hưng ở xã Cam lâm, huyện Phúc thọ, tỉnh Hà tây dựng năm Quang Thái thứ 3, tức năm 1390 đời Trần Thuận-tôn cũng không thấy chép hiệu ấy. Mãi đến sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ở thời Lê sơ mới thấy chép hiệu Bố cái đại vương. Hiệu nước thời nhà Đinh là Đại cồ việt cũng đến bấy giờ mới thấy chép. Như thế thì cũng chưa có thể tin chắc rằng những chữ nôm bố và cái đã có từ thế kỷ thứ VIII.” (Đào Duy Anh, Chữ Nôm, nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến, Nhà xb. Khoa học Xã hội, 1975, trang 42).
        Cụ Sở Cuồng Lê Dư cho rằng quốc hiệu Việt Nam ở hai triều Đinh và Tiền Lê là Đại Cồ Việt . Đó là một thí dụ chữ Nôm được sử dụng trong thế kỷ X (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr. 179).
        Theo ý kiến của Giáo sư Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa) với chuyên môn về lịch sử các nước Đông Nam Á, từng đảm trách chức vụ Giáo sư môn Sử học tại các đại học: Đại học Keio, Tokyo, Japan, National University Taipei, Taiwan, Soka University Hachioji, Tokyo, Japan, Korea University, Seoul, Korea, Chinese University of Hong Kong, Southern Illinois University, Carbondale, Illinois, USA, và các đại học Saigon, Dalat, Huế … chữ Nôm được sáng chế sau khi Việt độc thành lập, bắt đầu từ triều đại nhà Lý. (Chingho A. Chen, “Hình thái và niên đại sáng chế chữ Nôm”, Đoàn Khoách dịch, Tạp chí Đại Học, số 35-36, Viện Đại Học Huế, tháng 10-12 năm 1963).
        Khởi nguyên của chữ Nôm theo Giáo sư Chen, phải ở vào giai đoạn sáng chế chữ hình thanh mới là hợp lý và thích đáng. Muốn giải quyết niên đại sáng chế chữ Nôm, theo Giáo sư, phải kiểm thảo hai vấn đề: niên đại hoàn bị của “khải thể” chữ Hán và niên đại Việt ngữ áp dụng Hán ngữ làm ngữ vựng.
        Vấn đề thứ nhất, theo kết quả nghiên cứu của Văn Hựu, một học giả Trung Hoa (tác giả bài “Luận về tổ chức của chữ Nôm” đăng trong Yên kinh Học báo, kỳ 14, bài này đã được nhà học giả Nhật-bản Sơn-bảng Đại-lang giới thiệu trong Đông-dương Học báo quyển 22, số 2, năm 1935. Chú thêm của NĐC) thì chữ Nôm dứt khoát không thể xuất hiện vào thời cổ đại. Vấn đề thứ hai, theo kết quả nghiên cứu ngữ âm học lịch sử tiếng Việt của H. Maspéro lại cho biết gần một nửa ngữ vựng trong tiếng Việt là những tiếng mượn của Hán ngữ. Tuy nhiên đại đa số Hán ngữ lại truyền nhập vào Việt ngữ ở một thời đại tương đối muộn và phải qua trung gian của Việt độc (âm Hán-Việt), nghĩa là sau khi có cuộc phân ly chính trị giữa Trung Quốc và Việt Nam, mới được thành lập. Có điều, hai vương triều độc lập đầu tiên của Việt Nam là nhà Đinh (968-980) và nhà Tiền Lê (980-1009) đều bị nội tranh quá nhiều và mau chóng bị lật đổ, nên phải chờ đến nhà Lý (1010-1225) mới xuất hiện một vương triều tương đối lâu bền và ổn định. Sự chỉnh đốn về chế độ văn vật, sự xuất hiện cuộc vận động văn hóa, sự thiết lập chế độ khoa cử đều bắt đầu từ triều đại nhà Lý. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng khởi bút từ triều Lý. Bởi thế Giáo sư Chen suy luận rằng Việt độc đại khái được thành lập trong thời đại nhà Lý.
        Cũng nên thấy thêm rằng hiện nay phần nhiều tiếng mượn của Hán ngữ trong tự vựng Việt ngữ đều thoát thai từ Việt độc. Hiện tượng ấy chứng tỏ rằng những tiếng mượn ấy được truyền vào tự vựng Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam độc lập. Điều đáng chú ý nữa là trong quy chế chữ Nôm, các chữ Hán giả tá hoặc hầu hết thanh phù của chữ Nôm đều căn cứ vào Việt độc cả. Do đó mà Giáo sư Chen đoán định niên đại thượng hạn của chữ Nôm là bắt đầu từ triều đại nhà Lý.” (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr. 181).
                 252.- Giá trị chữ Nôm
        Ở trang 134, tác giả Thái Gia Kỳ nhận định khá tiêu cực về chữ Nôm với những câu kết thúc cho Chương I cuốn sách của mình: “Đối với chữ Nôm lại càng không ai muốn học. Học để làm gì? Có học cũng không được làm quan, cũng không được thêm điểm cho kỳ thi tốt nghiệp; dựa vào khả năng làm thơ văn bằng chữ Nôm cũng không làm ra tiền, vậy học để làm gì? Không những chỉ vì tính chất “thiếu khoa học” của chữ Nôm, mà thực tế phũ phàng của xã hội cũng đã làm cho chữ Nôm mai một.”
        Có lẽ ai cũng biết sự khó khăn của chữ Nôm khi muốn hiểu nó thì phải học chữ Hán trước, tuy vậy đến người Hoa cũng không thể viết được hoặc đọc được chữ Nôm. Lẽ dĩ nhiên, biết được chữ Nôm sẽ giúp cho việc hiểu biết thêm trong phạm trù nghiên cứu sử học hay văn học hoặc các ngành ngôn ngữ học khác.
        Trong cuốn “Lược khảo vấn đề chữ Nôm”, Trần Văn Giáp (1902-1973) đã viết: “Chính Ngô Thời Nhiệm, thế kỷ thứ XVIII, đã phải nói trong bài tựa sách tự điển của ông: “   Cố ngã quốc tự hiệu nan ư Trung Quốc (Cho nên chữ nước ta so ra khó hơn chữ Trung quốc…” . Đó là những lý do chính khiến cho chữ Nôm không còn có thể thông dụng dễ dàng được. Nhưng, mặc dầu thế, do sự tranh đấu không ngừng của nhân dân, chữ Nôm vẫn đã được sử dụng. Nó đã đồng thời tự phát với sự tiến triển của ngữ ngôn dân tộc và văn học cổ điển Việt Nam. Cho nên, chúng ta không thể không nghiên cứu chữ Nôm một cách sâu rộng để thu tàng lấy vốn cổ quí báu của ta về mọi lãnh vực.” (Trần Văn Giáp, Sđd, tr. 88)
        Trong khi đó Giáo sư Đoàn Khoách lại đã viết: “Nhưng cái ưu điểm lớn nhất của chữ Nôm là ghi âm được tiếng Việt một cách tương đối trung thực, trong khi chữ quốc ngữ ngày nay chưa xuất hiện. Nhờ thế mà ngày nay người Việt biết được phần nào tình cảm và suy tư của tổ tiên mình. Ngoài ra chữ Nôm có thể phân biệt được tiếng Việt đồng âm dị nghĩa mà thường rất khó phân biệt, ví dụ may rủi với may vá, bụng dạ với vâng dạ, đầy đủ với đu đủ, vợ chồng với chồng chất, v.v… Ưu điểm này thì chữ quốc ngữ hiện nay chưa bì được… Lịch sử chữ Nôm ở Việt Nam đã có gần chín, mười thế kỷ nay, các loại sử liệu bằng chữ Nôm không những có giá trị về phương diện sử học, mà còn có giá trị về nhiều phương diện khác nữa như ngôn ngữ, phong tục, xã hội, kinh tế, triết học, văn học v.v… mà các học giả đời nay cần sưu tầm, khai thác. (Đoàn Khoách, bđd, tr. 184)
        Như vậy, chữ Nôm là nguồn ký thác tình cảm và suy tư của tổ tiên qua trường kỳ lịch sử mà con cháu là chúng ta cần có bổn phận tìm hiểu và quý trọng bảo lưu. Theo cuốn sách của Đào Duy Anh được nhắc ở trên, hiện nay tại Thư viện Khoa học Xã hội Hà Nội còn tàng trữ khoảng 1186 cuốn sách chữ Nôm, đó là một kho tàng văn hóa cần được sử dụng khai thác.
        Tiếp đây là ý kiến của một người ngoại quốc nhưng cuộc đời đã cống hiến nhiều cho sự nghiệp văn hóa dân tộc Việt Nam, Giáo sư Chen Ching Ho cũng đã viết rằng: “Sở dĩ chúng tôi đưa vấn đề chữ Nôm ra thảo luận, là vì chúng tôi muốn nhấn mạnh đến các giá trị các loại sử liệu bằng chữ Nôm về phương diện sử học. Đưa ra một vài nhận thức về nguyên lai và cấu tạo của chữ Nôm, là cốt để tiện việc đọc và giải thích văn Nôm, vì văn Nôm là một di sản văn hóa của Việt Nam.” (Đoàn Khoách, bđd, tr. 183).
        Luận điểm của Giáo sư Chen Ching Ho ở trên khiến chúng tôi nhớ lại một câu vè của người dân Bình Trị Thiên về các cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài về việc “đày vua” và “đào mả”.  Các câu vè đó thường viết: “Phế (đày) vua không Khả, đào mả không Bài”. Ý muốn nói cụ Ngô Đình Khả phản đối việc người Pháp phế vua Thành Thái, và cụ Nguyễn Hữu Bài phản đối việc khâm sứ Mahé đào mả vua Tự Đức. Trong cuốn Đại Nam Thực Lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, do Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn, câu vè đó được in lại bằng chữ Nôm và đọc thấy là: “Bỏ vua không Khả, bới mả không Bài” (Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nhà xb. Văn hóa – Văn nghệ, 2012, tr. 779). Chữ bỏ viết chữ bổ đọc bỏ, chữ bới (phương ngữ Bình Trị Thiên thường dùng chữ bới thay vì chữ đào) viết   chữ bãi đọc Nôm là bới. Thí dụ vừa nói đây cũng có hiệu lực giúp các nhà nghiên cứu sử học (nếu biết chữ Nôm) đính chính được câu nói theo đúng nguyên văn của nó.
        Trong một bài báo có tên Những lời thề của Lê-Lợi (văn Nôm đầu thế kỉ 15) của cụ Hoàng Xuân Hãn, đăng trên Tạp chí Sử Địa, số 1 của Nhóm Giáo sư, Sinh viên Đại Học Sư Phạm (Nguyễn Nhã) Sài gòn, 1966, tác giả cho biết “nếu quả rằng các bài nôm nầy có tự đời Lê Lợi, và không bị sao lại thất-chân, thì đây là hiện vật độc nhất của Việt-ngữ trước nay già 550 năm.” (trang 4). Đây là một bài nghiên cứu có giá trị với sự phân tích cẩn trọng của một học giả uyên bác, và cũng là một cống hiến rất quý báu cho giới nghiên cứu văn sử học Việt Nam về chữ Nôm và văn Nôm.
         253.- Chữ Nôm với đạo Công Giáo trong giai đoạn thế kỷ            XVII-XX
        Trong tiểu mục “Chữ Nôm là gì”, tác giả Thái Gia Kỳ có đề cập đến một dòng về chữ Nôm sử dụng trong Công Giáo Việt Nam: “Ngay cả đạo Công giáo, cũng đã có tác phẩm Sấm Truyền Ca của Ly Y Đoan viết năm 1670, dùng trong việc truyền giáo.” (trang 122). Đoạn văn này cho một ý niệm rất khái quát thiết tưởng cần phải triển khai thêm.
        Nội dung của câu văn trên đây mang lại cho chúng tôi một số ý niệm đó là ba chữ “sấm truyền ca” và tên Ly Y Đoan. Người công giáo Việt Nam cách nay cả trăm năm thường hay dùng cụm từ “Sấm truyền mới” và “Sấm truyền cũ” để chỉ hai cuốn sách Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament) cũng gọi là sách Phúc Âm (hay bây giờ là Tin Mừng). (Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, tr. 147). Còn tên Ly Y Đoan có lẽ là tên của Louis Đoán, một thầy giảng cao tuổi đã được Đức Giám Mục Lambert ở Đàng Trong phong chức linh mục năm 1676. (Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Tập I, Nhà xb. Tôn Giáo Hà Nội 2008, tr. 233). Chúng tôi chưa tìm thêm được tư liệu nói về “Sấm truyền ca” nhưng có lẽ do Linh mục Louis Đoán dựa trên giáo lý mà sáng tác ra bằng chữ Nôm.
        Trong lãnh vực tôn giáo, chữ Nôm được các giáo sĩ ngoại quốc khi đến nước ta truyền đạo, nỗ lực học và sử dụng để biên tập các sách giáo lý, các kinh bổn đọc trong thánh đường và trong gia đình, họ đạo hằng ngày. Chữ Nôm của đạo Công Giáo có một lịch sử dài lâu từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, với rất nhiều công trình nghiên cứu, biên tập kinh sách, tư liệu còn để lại hàng trăm cuốn trong thư viện của Hội Thừa Sai Paris ở Pháp (Mission Étrangère de Paris), trong số đó có khoảng 20 cuốn sách viết bằng chữ Nôm do Giáo sĩ Girolamo Maiorica, người Ý, chủ trương biên tập từ đầu thế kỷ XVII (Tạp chí Đại Học, số 1, tháng 2/1961, tr. 5; Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xb. Tôn giáo, 2008, tr. 188). Có tư liệu nói số sách này nhiều hơn (khoảng 48 cuốn) mà một số còn lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Paris (Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Nhà xb. Tôn Giáo Hà Nội, 2004, tr. 185).
         Ngày nay người ta cũng biết đến tên tuổi rất nhiều các vị giám mục, linh mục ngoại quốc hay bản xứ, các thầy giảng, các vị túc nho Công giáo đã để lại rất nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm, ví dụ Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) viết Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ, bản chữ Nôm được in tại Quảng Đông năm 1774, Giám Mục Taberd biên soạn cuốn Tự vị Hán-Việt-Latinh hơn 900 trang (tàng trữ tại văn khố Hội Thừa Sai Nước Ngoài tại Paris) có sự cộng tác của Thánh Linh mục Phan Văn Minh. Trong cuốn tự vị này, theo Giáo sư Trần Văn Toàn, nếu bỏ phần tiếng Latinh ra, thì cũng còn quan trọng vì vừa dùng chữ quốc ngữ vừa dùng chữ Nôm. Chữ quốc ngữ thì ghi được một cách khá chính xác cách phát âm, còn chữ Nôm thì tuy không ghi được cách phát âm, nhưng cũng là kết tinh của mấy thế kỷ ông cha chúng ta cố gắng để tự lập về văn hóa đối với người Hán tộc. (Trần Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 190).
        Trong quyển Hoa trái ở Phương Đông, Alexandre de Rhodes (1593-1660) và công cuộc truyền giáo thời kỳ đầu của Dòng Tên tại Việt Nam viết bằng tiếng Đức, linh mục Dòng Tên Klaus Schatz viết rằng: “Chữ Nôm phát triển kể từ thế kỷ XV, sau khi Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi sự thuộc Trung Hoa. Khởi đầu các nhà truyền giáo cũng dùng chữ Nôm cụ thể vào năm 1620 ở Hội An, để soạn sách giáo lý, nhưng sách này đã không được in và đã bị thất lạc.” (Phạm Hồng Lam dịch, Nhà xb. Đông Phương, 2015, tr. 210). Cuốn sách giáo lý này có lẽ là công trình của cha Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha, khi làm việc ở giáo điểm Dinh Chiêm (Quảng Nam).
        Theo Linh mục Nguyễn Hồng trong quyển Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, “Chúng ta còn phải kể nhất là những cuốn sách bằng tiếng Việt mà các cha viết cho giáo dân và cho các thày giảng. Đó là những cuốn sách đầu tiên trong tủ sách văn chương công giáo Việt Nam. Ngoài cuốn sách bổn của cha Đắc Lộ viết bằng chữ quốc ngữ, in ở Roma, còn các cuốn khác bằng chữ nôm, thứ chữ thịnh hành của thời đó. Hoặc đầu tiên các thừa sai thảo bằng chữ quốc ngữ để các thày giảng viết ra chữ nôm, hoặc đọc cho các thày viết, mà ta có thể đoán đó là trường hợp cha Buzomi và De Pina cho ra đời cuốn sách về đạo lý công giáo đầu tiên bằng tiếng Việt ở Nước Mặn, Qui Nhơn, hay trường hợp cha Đắc Lộ viết cuốn Ngắm 15 sự thương khó Đức Chúa Giêsu… Hoặc do chính thừa sai viết bằng chữ nôm, như những cuốn của cha Majorica, nhưng chắc chắn cha cũng được sự cộng tác của các thày giảng.” (Quyển I, Nhà xb. Hiện Tại, 1959, tr. 294).
        Theo giáo sư Trần Văn Toàn “chữ Nôm khó học thì họ (các giáo sĩ Âu châu) chịu khó học, chứ không dám coi thường, càng không dám cho là mách qué, như các nho sĩ chỉ biết chịu phục có người Hoa. Họ thực biết tôn trọng vốn liếng chữ Nôm của ta, cũng như họ đề cao kho tàng Hòa văn (chữ viết của người Nhật). Khi viết sách vở cho người Việt về những điều rất tôn nghiêm như tôn giáo, họ đã dùng ngay chữ Nôm (như trong các tác phẩm của Girolama Maiorica, và người công giáo tiếp tục viết, in và dùng sách chữ Nôm cho đến giữa thế kỷ XX.” (Trần Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 204).
        Trong quá trình sử dụng chữ Nôm, một số danh từ trong công giáo được chuyển âm từ tiếng La tinh hay Bồ đào nha, thí dụ “câu-rút” từ chữ crux nay được chuyển thành thánh giá, chữ evangelium thành chữ phúc-âm, chữ Spiritus Sanctus đổi ra thánh thần do sự đóng góp của Cố linh mục Nguyễn Văn Thích ở Huế (Đoàn Khoách biên tập, Sảng Đình Thi Tập của J.M. THÍCH, Thanh Tịnh xuất bản, California, 2001, trang 335), hoặc các chữ bispo (tiếng Bồ) ra chữ vít-vồ (rồi giám mục) chữ Nôm thì dùng hai chữ Hán “viết vô” nhưng phải đọc “vít vồ”, hoặc “pha-pha” (vị giáo tông ở Rôma, cũng gọi là Giáo hoàng, La-tinh và Bồ gọi là “papa”.
        Cụ Trần Văn Giáp trong phần kết luận của cuốn Lược khảo vấn đề chữ Nôm, có đề nghị làm một cuốn tự điển chữ Nôm nhưng theo cụ thì phải loại trừ những phần chữ Nôm chua sẵn trong các tự điển Quốc ngữ La-tinh như của Génibrel, của Tabert hay của Paulus Huỳnh Tịnh Của vì chính đấy là chữ Nôm của các giáo sĩ Tây phương; đấy không phải là “những chữ Nôm của nhân dân đã dùng”…  còn  “những chữ Nôm của nhân dân ta lựa lọc mà viết ra thì thực đúng quá”.  (Trần Văn Giáp, Sách đã dẫn, trang 89).
        Để trả lời quan điểm đầy tính chất kỳ thị tôn giáo dù rằng trong lãnh vực văn chương của cụ Trần Văn Giáp, Giáo sư Trần Văn Toàn viết rằng: “Lại có học giả cho rằng chữ Nôm do người công giáo viết không phải là chữ Nôm đích thực. Xin thưa hai điều: một là phải có cơ quan nào, như Hàn lâm viện hay là do nhà cầm quyền chính thức ấn định trước đã thì mới nói được cái gì là đích thực; hai là: trừ một số chữ mới ra thì người công giáo dùng chữ Nôm như người đương thời, cho nên nếu phải loại trừ tất cả những chữ do họ dùng, thì cũng phải loại hầu hết thi văn chữ Nôm trong văn chương Việt Nam.” (Trần Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 207).
        Chữ Nôm trong các kinh sách của người Công Giáo đều là do các vị thừa sai có căn bản về các kiến thức ngôn ngữ học, cùng sự cộng tác của các vị thầy giảng người Việt cũng vốn là những bậc túc nho giỏi chữ Hán, thông thạo chữ Nôm (họ cũng là thuộc hàng ngũ “nhân dân” một trăm phần trăm đấy chứ có thuộc dòng máu lai nào đâu), thì sao gọi “chữ nôm do người Công Giáo viết không phải là chữ nôm đích thực”? Chính các ông nhà nho trong phong trào Văn Thân, khi viết bài hịch “bình Tây sát Tả”, chính các tác giả bài hịch đó là tú tài Trần Tấn, Đặng Như Mai ở Nghệ Tĩnh vốn là những người khinh chữ nôm, coi chữ nôm là “nôm na mách qué” ngay cả đến việc nghiên cứu, tìm hiểu về một tôn giáo họ cũng chưa từng nghĩ tới, không hề để tâm, cho nên trong bài hịch Văn Thân của họ mới có những câu như: “Cầu nguyện thì xưng Trời, xưng Thánh, thật là đui điếc ngu si; Giảng rao thì vô phụ vô quân, đúng là loài dê loài chó.” “Vô phụ”, “vô quân” theo Trần Tấn, Đặng Như Mai đó là người Công Giáo không hề biết đến vua, đến cha, nhưng đó thật là sai lầm vì người Công Giáo cách đây bốn thế kỷ cho đến bây giờ vẫn luôn tôn trọng nhà cầm quyền ngoài xã hội và thờ kính cha mẹ trong vòng đạo hiếu gia đình. (Trần Văn Toàn, Sđd, tr. 102, Một vài nhận xét về thuyết ‘tam phụ”).
                                (Còn tiếp)



Không có nhận xét nào: