Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2019

Nguyễn Đức Cung Giới Thiệu và Phê Bình tác phẩm Chữ Hán, Tiếng Hán Việt, và Sự Vận Dụng Tiếng Hán Việt của Thái Gia Kỳ _ Phần I: Một Niềm Tri Ân....


BÀI GIỚI THIỆU VÀ PHÊ BÌNH TÁC PHẨM “CHỮ HÁN, TIẾNG HÁN VIỆT, VÀ SỰ VẬN DỤNG TIẾNG HÁN VIỆT TRONG TIẾNG VIỆT.”
(Tác giả THÁI GIA KỲ)
                                                                                                                                                                    Nguyễn Đức Cung

        Mỗi lần tham dự một buổi ra mắt sách, hay giới thiệu một tác phẩm văn học nào đó, tôi lại nhớ đến một câu nói của Tăng Tử 僧子, một đệ tử thiết thân nhất của Khổng Tử 孔子, được ghi lại trong sách Luận ngữ, thật đáng suy gẫm muôn đời : “Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân.” ,  Nghĩa là: “Người quân tử dùng văn chương để họp bạn, dùng bạn để giúp nhau tiến lên đức nhân.” (Luận Ngữ, Thiên XII Nhan Uyên, 24. Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử & Luận Ngữ, Nhà xb. Văn Học, 2003, trang 421; Phan Bội Châu, Khổng Học Đăng, Nhà xb. Khai Trí, 1973, tr. 61). Chữ “nhân” mà Tăng Tử đưa ra ở đây tuy có ý nói là đạo nhân nghĩa, nhưng ngày nay xét cho cùng cũng có thể hiểu đó là chính nghĩa của một dân tộc, lý tưởng của một tổ chức, hiệp hội hay hoài bảo thiêng liêng, sâu thẳm của một tác giả, một nhà văn hoặc một cá nhân nào đó. Tác phẩm mà chúng tôi muốn giới thiệu và đóng góp một số ý kiến trong buổi ra mắt hôm nay có tên “Chữ Hán, Tiếng Hán Việt và sự vận dụng tiếng Hán Việt trong tiếng Việt” của tác giả Thái Gia Kỳ, một khuôn mặt rất gần gũi, quen thuộc của nhiều giới đồng bào Việt Nam tại Philadelphia quả thật đã gây cho chúng tôi nhiều ngạc nhiên, cảm mến và kính phục do công trình văn hóa của ông thể hiện qua tác phẩm giá trị này. Nhưng trước khi đi sâu vào phân tích nội dung cuốn sách đã đưa chúng ta đến cuộc gặp gỡ ngày hôm nay, chúng tôi xin được nói đến một niềm tri ân…

        I.-MỘT NIỀM TRI ÂN KHÔNG THỂ KHÔNG BÀY TỎ
        Cách đây sáu mươi năm, với Nghị định số 389-GD do Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký ngày 8/10/1959, Viện Hán Học Huế ra đời tại cố đô Huế với chương trình đào tạo sinh viên trong thời hạn 5 năm qua các bộ môn Hán Văn, Bạch Thoại, Triết Học, Quốc Văn, Sử Địa và Sinh Ngữ. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên Viện Hán Học sẽ được bổ dụng giáo sư Trung học, chuyên viên viện Khảo cổ, nhân viên các tòa đại sứ hay lãnh sự quán VNCH ở Đông Nam Á v.v… Một kỳ thi tuyển với trên 500 thí sinh toàn quốc mà chỉ chọn 40 người, thực tế chỉ có 30 người theo học trong khóa giảng đầu tiên 1959-1960 tổ chức tại Di Luân Đường tức Trường Quốc Tử Giám thời xưa. Tôi là một trong số những anh chị em theo học khóa đầu tiên của Viện Hán Học Huế. Mục đích việc thành lập Viện Hán Học Huế, theo Linh Mục Cao Văn Luận, lúc bấy giờ là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế kiêm Giám Đốc Viện Hán Học, trong diễn văn khai mạc khóa học đầu tiên thì “đây là mỹ ý của Tổng Thống Ngô Đình Diệm muốn bảo vệ nền cổ học và văn hóa đạo đức của nước nhà do tổ tiên để lại” (Nguyễn Lý Tưởng, Kỷ yếu Đại Học Huế, 2015, Viện Hán Học Huế sinh sau đẻ muộn, trang 129). Đây là một trường đào tạo chuyên biệt về Hán văn để phục vụ cho việc dạy chữ Hán, phiên dịch sử liệu và sách cổ (Hán Nôm) ngoài ra còn có ban nghiên cứu Đông y dược cũng là một bộ phận phụ thuộc của Viện.
        Nếu ai là người đã từng để tâm theo dõi, nghiên cứu thì những việc làm mang tính chất văn hóa của gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm được coi là những xây dựng căn bản trong lãnh vực tư tưởng cho con đường chính trị của nền Đệ I Cộng Hòa sau này. Từ những bài thơ của vua Tự Đức bằng chữ Hán do Thị Vệ Lang Đại Thần Ngô Đình Khả, (người đã có công nhiều trong việc thành lập Trường Quốc Học Huế, năm 1896) dịch ra tiếng Pháp đăng trên Tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin Des Amis Du Vieux Huế) năm 1915, bài thi “Lên Núi Ngự Bình” của vua Tự Đức,  đến bài dịch ra tiếng Pháp có tên “Đoàn sứ giả Trung Hoa sắc phong vua Tự Đức” do Ngô Đình Khôi chấp bút cũng xuất hiện trên Tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ tập 3, năm 1916, nhật ký bằng chữ Hán của Phái đoàn Phan Thanh Giản đi Pháp năm 1862, do Tổng Thống Ngô Đình Diệm thời gian còn là Học viên Trường Hậu Bổ dịch ra tiếng Pháp, bài nghiên cứu của TT Ngô Đình Diệm về cái nghiên Tức Mặc Hầu, đến tập tham luận của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục mang tên “Việt-nam through Vietnamese Eyes” đăng trên Tạp chí World Mission, tháng Hai 1951 và một kiệt tác mang tên “Chính Đề Việt Nam” của ông Ngô Đình Nhu dưới bút danh Tùng Phong.  Tất cả những công trình văn hóa đó dù ít hay nhiều và việc lựa chọn một cơ quan văn hóa có bề thế như Tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ (viết tắt là BAVH) lúc bấy giờ lưu hành khắp Đông Dương và phát hành sang tận nước Pháp, để xuất hiện không phải là một việc làm ngẫu nhiên nhưng cũng có tính toán hẳn hoi. Ngoài ra khi đọc cuốn “Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng” của Hồ Sĩ Khuê, ta thấy TT Ngô Đình Diệm cũng lưu tâm đến các tác phẩm viết về thế giới thứ ba trong đó có sách của Alfred Sauvy, của Tibor Mende để biết rằng TT Ngô Đình Diệm muốn tổ chức một nền đại học hoàn bị, tiến bộ, hướng đến khoa học và chuyên môn từ những năm 1947-48 (Hồ Sĩ Khuê, Nhà xb. Văn Nghệ, 1993, tr. 161).
        Về sau, so sánh các hoạt động văn hóa đó, ba sự kiện quan trọng nhất ấy là việc thành lập Trường Quốc Gia Hành Chánh ở Sài-gòn, việc cải tổ Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt từ 2 năm lên 4 năm giai đoạn 1956-1965 được ghi lại “Thời gian này khởi đầu nền Đệ Nhất Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Trường có những thay đổi quan trọng, ảnh hưởng nhiều do chủ trương của Tổng Thống Diệm cùng với các cuộc thăm viếng và học hỏi của các chỉ huy trưởng từ các trường võ bị như Võ Bị Lục Quân Hoa Kỳ, Võ Bị Đài Loan  (Trường Võ Bị Quốc Gia Theo Dòng Lịch Sử, Nhà xuất bản Hương Quê, 2017, trang 87) rồi việc thành lập Viện Đại Học Huế năm 1957 trong đó về sau có Viện Hán Học Huế (1959) cũng nằm trong các quan điểm mang tính chiến lược của vị lãnh tụ nền Đệ nhất Cộng Hòa.
        Qua cái mỹ ý của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong việc thành lập Viện Hán Học Huế vẫn hàm chứa một dụng ý chính trị muôn đời muôn thuở, một cái nhìn chiến lược của nhà lãnh tụ đó là dùng văn hóa làm vũ khí lợi hại trong công cuộc đối kháng với nền văn hóa vô sản của chế độ Miền Bắc. Việc chọn Giáo sư Võ Như Nguyện, (con trai nhà cách mạng Võ Bá Hạp, bạn tranh đấu của cụ Phan Bội Châu) và Giáo sư Nguyễn Hồng Giao để soạn sách giáo khoa cho Viện Hán Học theo yêu cầu của Bộ Giáo Dục cũng là việc làm có cân nhắc. Viện Đại Học Huế với nhiều phân khoa trực thuộc và một cơ quan ngôn luận uyên bác là Tạp chí Đại Học, Trường Đại Học Y khoa với các cơ sở bề thế được xây dựng theo chương trình chuyển ngữ tiếng Việt, Viện Hán Học Huế chuyên ngành cổ học, bạch thoại, triết học và văn chương, các Trường Nữ hộ sinh Quốc gia, Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật v.v với trường ốc xây dựng và phát triển đều đặn là những thách thức đối với chế độ CS Miền Bắc chỉ cách Huế không đầy 100 km rằng: “Có chúng tôi đây!”.
        Theo nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Cường, một trí thức xuất thân từ miền Bắc, từng là nghiên cứu sinh thuộc Đại học Harvard, cho biết một chi tiết thú vị là Viện Hán Học ở Miền Nam Việt Nam được thành lập sớm hơn về thời gian (1959) và tổng hợp hơn về nhiệm vụ công tác so với Ban Hán Nôm (năm 1972) và Viện nghiên cứu Hán Nôm của Miền Bắc. Như thế Viện Hán Học Huế của VNCH ra đời trước Ban Hán Nôm và Viện Nghiên cứu Hán Nôm là 13 năm, nhờ viễn kiến của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhận xét về Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Giáo sư Nguyễn Tuấn Cường, bây giờ là Viện trưởng Viện Hán Nôm Hà Nội, trong bài Giáo dục Hán học tại Miền Nam Việt Nam trong bước chuyển văn hóa – xã hội: Viện Hán Học Huế (1959-1965), đã viết: “Nhân vật Ngô Đình Diệm (1901-1963) dù xuất thân trong một gia đình Công giáo mộ đạo, bản thân ông cũng là người Công giáo, nhưng lí lịch và cách hành xử của ông vẫn mang đậm tính chất của một con người Nho giáo, gắn với nền Hán học truyền thống.” Bài viết này trích từ một chuyên luận nghiên cứu về các hoạt động văn hóa Nho giáo - Hán học tại miền Nam Việt Nam [1955-1975] – Harvard-Yenching Institute. Viện Hán Học Huế, nơi mà thế hệ chúng tôi được đào tạo trong Khóa I, theo học trình dẫn trên, qua lời viết của GS. Nguyễn Tuấn Cường, “được khai sinh năm 1959 bởi một “văn quan” 58 tuổi có tư tưởng Nho giáo truyền thống, tức Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901-1963), rồi được khai tử năm 1965 bởi một “võ tướng”trẻ, khi ấy mới 35 tuổi, tức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011). Có thể thấy số phận Viện Hán Học gắn liền với sự thăng trầm của quyền lực chính trị. Viện được thành lập theo “mĩ ý” của Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1959, và khó có thể nói rằng đó là một quyết định sai lầm. Trong một xã hội đang chuyển đổi theo hướng “Mĩ hóa”mạnh mẽ về nhiều mặt, thì việc thiết lập một đơn vị chuyên trách việc đào tạo và nghiên cứu văn hóa truyền thống là điều cần thiết, trước khi truyền thống ấy bị đứt gãy hoàn toàn với hiện tại do không còn có các nhân tố con người được đào tạo đến mức có đủ khả năng nối kết. Viện được thành lập ở Huế cũng là một sự lựa chọn đúng đắn nếu xét đến các khu vực trung tâm trong toàn bộ lãnh thổ VNCH khi ấy, bởi trong suốt gần 150 năm triều Nguyễn, đất Thần Kinh ( )là nơi hội tụ được nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng, lưu giữ được nhiều di tích và tư liệu cổ, vẫn còn nhiều nhà cựu học tâm huyết với việc trao truyền văn hóa kinh điển Hán học.”
        Thông qua việc giới thiệu quyển sách của tác giả Thái Gia Kỳ, chúng tôi viết đôi dòng về Viện Hán Học Huế để muốn nói lên tấm lòng tri ân đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một bậc vĩ nhân của đất nước. Sở dĩ chúng tôi có cơ hội học được chữ Hán trong thời buổi Nho học đã suy tàn, qua khóa học đầu tiên, cùng chung một lớp với rất nhiều bạn lớn tuổi lúc bấy giờ như quý anh Ngô Văn Lại, Phạm Liễu người Quảng Nam, Lê Ngọc Bích, Lê Nhất (người Huế), Nguyễn Lý Tưởng (Dương Lộc, Quảng Trị), Trần Vinh Anh (Hướng Hóa, Quảng Trị), Hoàng Xuân Minh (Huế), các anh La Cảnh Hùng, Dương Trọng Khương, Ngô Khôn Liêu  là người Hoa với vốn chữ Hán của họ lúc bấy giờ so với chúng tôi rất trội xa, mà học trò lại có kẻ ngang tuổi với thầy…  Nhờ Tổng Thống Ngô Đình Diệm rất coi trọng việc học và việc giáo dục nên qua Viện Đại Học Huế và Viện Hán Học cũng như các cơ sở giáo dục khác như Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật, Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Trường Kỹ Thuật Huế v.v… được thành lập và phát triển, đã giúp ích rất nhiều cho sinh viên nghèo của Miền Trung hiếu học.
        Cũng từ năm 1959, chúng tôi học môn triết học Trung Quốc với Giáo sư Tiến Sĩ Nguyễn Văn Dương (1932- 2017) qua tập giáo trình Đại cương triết học sử Trung Quốc của Phùng Hữu Lan 1895-1990 (Fung Yu-lan) do thầy Dương dịch từ bản tiếng Pháp phối hợp với bản tiếng Anh (bản in ronéo năm 1966) sau này sách có in do Viện Đại Học Vạn Hạnh và Nhà xb Thanh Niên (1998). Phùng Hữu Lan là một triết gia rất có quyền uy trong lãnh vực lịch sử triết học Trung Hoa với trường phái Phùng học ngày nay có uy danh tại Hoa lục và khắp nơi trên thế giới. Một bộ “A History of Chinese Philosophy” gồm hai cuốn viết bằng tiếng Anh do Derk Bodde chuyển ngữ, Princeton University Press xuất bản với hơn 1330 trang,  năm 1952. Mới đây ở Việt Nam, bộ sách khá đồ sộ “Lịch sử triết học Trung Quốc gồm hai tập, tập I: Thời đại Tử học (560 trang) tập II: Thời đại Kinh học (808 trang) của triết gia Phùng Hữu Lan, do Lê Anh Minh dịch và in năm 2013, cũng rất cần thiết cho những ai muốn nghiên cứu về Hán học.
        Công bình mà nói, ngành Hán học ở Miền Bắc không phải là đến năm 1972 mới có, như Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Cường đã phát biểu trong bài tham luận viết về Viện Hán Học của Miền Nam Việt Nam được ông trình bày tại Hội nghị về ngành Hán học năm 2014 tại Philippines, mà đã được tổ chức từ cuối năm 1965 trong một phạm vi nhỏ hẹp. Một cuốn sách cho biết rằng, cuối thời điểm 1965 “ Thủ tướng phủ ký quyết định tổ chức một Lớp đại học Hán học giao cho Viện Văn học quản lý, và bổ nhiệm Giáo sư Cao Xuân Huy là Giáo sư chính.” (Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nguyễn Huệ Chi soạn, chú, giới thiệu, Nhà xb. Văn Học, 1995, trang 55). Tài liệu vừa trích cho thấy không rõ ai là người trong phủ Thủ tướng ký quyết định (chắc là một cấp thừa hành nào đó, không phải Thủ tướng Phạm Văn Đồng) và bức hình chúng tôi có trong quyển sách của Cao Xuân Huy nói là lớp Hán học từ năm 1965-1968 có khoảng gần 30 người trong đó chưa kể gia đình cụ Cao Xuân Huy, cháu nội cụ Cao Xuân Dục và ba đứa trẻ có đứa còn bồng trên tay. Đọc qua tài liệu và xem bức hình, chúng tôi thấy rõ Miền Bắc lúc bấy giờ chưa ý thức rõ tầm mức quan trọng của Hán học trong nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, như Tổng Thống Ngô Đình Diệm từng quan tâm đến trong viễn kiến chính trị của mình qua việc thành lập Viện Hán Học ở cố đô Huế năm 1959.
(Còn tiếp)




Không có nhận xét nào: