Thằng Nhỏ Bán Kẹo Dừa
(Một phần thật nhưng được viết lại bằng bối cảnh và
tình tiết khác, đổi tên nhân vật, tưởng tượng thêm, để nhớ những cục kẹo dừa
trong sân trường nào đó cũng giống như cái sân trường của câu chuyện.)
Chuông
ra chơi, học trò chạy túa ra sân. Trời
sắp hè, nắng lưng lửng trưa, loáng thoáng rớt, xuyên qua đám tàn lá xum xuê của
hàng cây phượng già, dọc sân trường, dài theo đường lộ, từng mảng, chỗ sáng chỗ
tối. Hiển đứng ở cửa lớp nhìn theo cười một mình, đúng là trẻ con, không lo
không nghĩ, tụ nhau từng tốp, con gái con trai, áo quần đủ màu, màu chợ búa màu
ruộng bùn, tay nắm tay níu, nhảy cò, bắn bi, tạt lon, đánh đủa, ồn ào không
thua gì người ta nhóm chợ. Hiển thấy vui lây, chuyện hoán chuyển với một cô,
cũng ra trường cùng khóa Sư phạm Sài Gòn, sau hơn một năm mấy ở chợ Bún, Bình
Dương, về trường tiểu học Trãng Bàng này, bắt đầu dạy mới hai ba ngày nay, xem
ra không có gì hối tiếc. Cuối sân đâu đó có chút gió mát lùa về từ cánh đồng xanh
cỏ dại ngang phía sau hông trường.
Định quay vào trong, bất chợt thoáng thấy ngoài
khoảng sân trước lớp mình, một đứa con trai chừng năm sáu tuổi, lầm lũi, mang
trên vai, cái thùng thiếc nhỏ, không nhập bọn với đám trẻ, không biết có phải là
học trò ở đây hay không, mà đi qua đi lại, đến quanh đám đông đang mãi mê chơi
đùa, nói nói gì đó, rồi lẳng lặng bỏ đi. Thấy lạ, Hiển bước ra hàng ba, chầm chậm
theo hướng nó, chưa bắt kịp đã thấy nó đứng vòng tay, cái thùng thiếc bỏ dưới
chân cô Quế, bà chị dạy lớp tư, nằm ở cuối dãy lớp học, đang hỏi nó gì đó, từ
xa nhìn lại chào Hiển. Anh đi tới thì cũng vừa lúc thằng nhỏ cầm cái thùng thiếc
lên, cúi đầu chào thầy chào cô rồi quay trở lại, chen vào đám học trò vẫn còn
la hét, gọi nhau ơi ới. Hiển nhìn theo, cô Quế cũng nhìn theo, buồn buồn quay
qua Hiển: “tội nghiệp, nó tên Chữ, học lớp
tư của chị đó, nhà nghèo quá, đi học vậy cứ môt hai ngày thì mang theo cái
thùng thiếc đựng mớ kẹo dừa gói giấy kiếng màu, bán trong giờ chơi, bữa bán hết
bữa còn nguyên” rồi cô lắc đầu cười “cô
thầy là khách hàng của nó đó, coi vậy mà học giỏi lắm em ạ!” Chuông vào lớp
vang lên, học trò không còn đứa nào ngoài sân, Hiển nhìn quanh nhìn quất, không
thấy thằng Chữ đâu đó, buồn bất chợt.
Sáng chủ nhật trời tốt, theo lời chị Quế chỉ,
Hiển thả bộ lên ngã ba, đường vào Tha La xóm đạo. Căn nhà thằng nhỏ Chữ cũng dễ
tìm, vách ván miếng thưa miếng vụn, mái tôn sét từ dưới lên trên, từ sau ra trước,
cất liêu xiêu trên miếng đất trũng, thấp hơn mặt đường, lưa thưa vài bụi chuối
già, hai ba cụm hoa Mười Giờ khô cằn khô cỗi, nằm lẻ loi như cố tránh xa mấy
căn nhà gạch nhà ngói xế quốc lộ Sài Gòn Tây Ninh, ngó qua dãy hàng quán bán
bánh canh bột lọc xứ Trãng. Mặt trời vừa hừng đông mà người ta, xe hơi xe lôi,
chật cả một khúc đường. Tới trước cửa, nói là cửa chứ cũng chỉ là tấm tôn hở
nhiều hơn kín, chưa kịp lên tiếng thì thằng Chữ từ trong nhà đi ra, thấy Hiển,
nó đứng khựng lại vòng tay, ấp úng, lẫm bẫm “thưa
thầy”, cũng vừa lúc nghe tiếng người ngoài cửa, người con gái theo sau nó
bước ra, thấy Hiển, chị đứng chết trân “phải
Hiển không”. Hiển đứng sửng gật đầu hỏi lại “phải Trăm không”. Thằng Chữ, đứng nép sau lưng Trăm, lấm lét sợ,
nhìn hết người này tới người kia, không dám nhúc nhích.
*
Chị Nhạn bỏ
Vũng Liêm bồng con, thằng Hiển, về Bến
Mương năm nó được ba tuổi. Sau ngày anh Tụ, chồng chị chết, không tìm được xác
trong chuyến đi theo ghe đánh cá ra biển tận ngoại cửa Đại, Trà Vinh, chìm
trong một ngày bảo tố bất thường tháng Ba. Chị Nhạn mồ côi từ nhỏ, không nhớ nhỏ
cở nào, không biết cha mẹ là ai, ngủ bờ ngủ bụi vòng vòng chợ quận Vũng Liêm, được
một bà bác tu tại gia, bà hai Lắm, cái nhà có mấy cây dừa già nhỏ cuối ấp, nơi
giáp ranh với đám ruộng thưa bên Cái Nhum, dọc theo đường lộ về Vĩnh Long, thường
đi chợ sớm, đem về nuôi lúc Nhạn mười một mười hai tuổi. Ở hủ hỉ với bà được vài
năm, lớn một chút, chị đi nhổ mạ cấy mướn, gặt lúa đập lúa vần công cho người có
ruộng làng trên ấp dưới, có khi qua tới bên Cái Nhum, người quen lâu, người mới
quen, thuê mướn đều thương mến chị vì tánh tình, ăn nói nhỏ nhẹ hiền từ, siêng năng
chịu khó.
Mùa gặt năm mười tám, chị quen anh Tụ, khi anh
từ bên Cái Nhum qua đập lúa vần công cho ông bà chủ ruộng trên chợ Trung Thành,
rồi hai người phải lòng thương nhau. Anh Tụ cũng con mồ côi mồ cút, ở với mẹ
nhưng bà đã mất chừng một năm nay. Gia tài còn lại là cái nhà lớn hơn cái chòi
một chút, cất trên miếng đất công ở Quới An, ở từ chục năm nay, làng xã chẳng
màn đòi lại. Tết năm sau, hoàn cảnh tội nghiệp thấy mà thương, bà hai Lắm, thay
mặt ai đó hai bên làm chứng, bà cho anh chị lấy nhau, vậy thôi, không cần trầu
cau hoa quả. Hai người đưa nhau về Quới An, anh Tụ thôi không làm ruộng mướn nữa,
đi với người quen xuống Trà Vinh theo
ghe đánh cá biển, chuyến đi chuyến về cả tháng trời. Khi nào anh Tụ đi, chị Nhạn về Vũng Liêm với bà hai Lắm. Cứ như vậy chừng một năm sau chị sinh ra thằng Hiển. Thằng Hiển vừa tròn một tuổi thì năm đó anh Tụ, ba thằng Hiển chết, ngóng ngóng
chờ chờ nhưng cả nguyên mười mấy người theo ghe đều không tìm được xác. Cuối
cùng, sau bữa cơm cúng đơn sơ bốn mươi chín ngày cho chồng, chị Nhạn, trả miếng
đất lại cho xã, rồi bồng con về Vũng Liêm sống với bà hai Lắm. Những ngày sau
đó, chị Nhạn lại đi cấy thuê gặt mướn như trước, nhờ có bà trông coi thằng nhỏ
cũng tiện.
Mấy
lúc sau này, bà hai Lắm ngày càng già và yếu hơn, đi đứng chậm chạp, tiếng
mõ câu kinh không còn đều như trước, khi có khi không, chị Nhạn ở nhà thường, lúc
làm lúc nghỉ vừa lo cho con vừa chăm sóc bà. Gần Tết, theo ý bà muốn, hai người
cùng thằng nhỏ Hiển đón xe đò về Vĩnh Tế, An Giang, quê của bà hai Lắm, trước
là thăm bà con sau là bà hai muốn về lại đây, sống với họ hàng vì chắc không còn bao
lâu sẽ ra đi, được yên mồ yên mả. Nếu đúng như bà tính thì hai mẹ con chị Nhạn
lo căn nhà ở Vũng Liêm cũng tốt, ít nhất cũng có chỗ ăn chỗ ở, đở vất vả bờ bụi
như xưa. Ở nhà người cháu gái bà hai Lắm không xa chợ Vĩnh Tế bao nhiêu, qua
mùng bốn, cả nhà đưa nhau lên Miếu bà Chúa Xứ, núi Sam Châu Đốc, đi lễ đầu
năm, cầu xin ơn trên ban phước lành cho đời họ, những mảnh đời khốn khổ. Đường
lên miếu Bà người là người, chen chân mà đi, tứ phương đổ về chật cứng, đông
nghẹt, khói nhang mù mịt chuông trống liên hồi, vang rền cả một trời.
Ngồi nghỉ mát dưới một gốc cây lớn, chỗ đầu
đường lên Miếu, chờ bà hai trở xuống, bên cạnh có hai người đàn bà, một lớn
một nhỏ, cở tuổi chị Nhạn cũng đang ngồi vừa uống bịch nước dừa vừa thở dốc. Thấy
thằng nhỏ Hiển chạy qua chạy lại, dễ thương, hai người xích lại gần làm quen. Họ
là người xa tít trên Bến Mương, Tây Ninh, cũng nghèo, là hai dì cháu. Người dì, dì ba Sắn, bị tật ở cánh tay trái, không cử động được, không chồng; người cháu,
chị Khả, làm công nhân cạo mủ cao su cho đồn điền Pháp “Societe de Heveas” Vên
Vên. Hỏi thêm, chị Nhạn thấy công việc cạo mủ của chị Khả không khó khăn lắm,
nên chợt thoáng nghĩ trong đầu, mình cũng làm được thay vì đi cấy đi gặt, lội
bùn lội nước, gai đâm chân cỏ cắt tay, thẹo nhỏ thẹo lớn. Chị Nhạn cũng kể thân
phận mình, ôm con kể mà như muốn khóc. Rồi họ làm quen với nhau, chị Nhạn
em Khả, dì dì cháu cháu, tay bắt tay chào hẹn ngày gặp lại.
Bà hai Lắm quyết định ở lại Vĩnh Tế luôn
như đã tính, chị Nhạn trở về Vũng Liêm với người cháu gái của bà để lo thu xếp
đồ đạc và những thứ cần dùng như bà dặn. Mấy hôm sau đó, ra Giêng, chị Nhạn ẳm
con trở xuống Vĩnh Tế lần nữa để cho thằng Hiển gặp mặt bà ngoại Lắm, trước khi
đi Tây Ninh như đã hẹn với dì cháu chị Khả.
*
Về Bến
Mương, mẹ con chị Nhạn ở chung với nhà dì ba Sắn và Khả, căn nhà mái tranh vách
đất trên miếng đất thấp phía dưới triền bờ con rạch nhỏ, chảy ra sông lớn Vàm Cỏ
Đông, chung quanh có hai ba cây dừa cao già nhưng sai trái, nằm xa cách dãy nhà
phía ngoài dọc theo tỉnh lộ Gò Dầu Tây Ninh chừng ba bốn đường đê ruộng, men
theo con đường đất mòn. Trong nhà có thằng nhỏ chạy tới chạy lui coi vậy mà
vui. Dì ba Sắn tay trái không làm gì được nhưng tay phải một hai nhất định phải
nựng nịu, kéo lôi thằng nhỏ cho bằng được. Không bao lâu sau, Khả xin được cho
chị Nhạn vào làm công nhân cạo mủ cùng chỗ với mình, khu rừng cao su do thầy bảy
Điển làm giám thị, phía trên chợ xã Trà Võ. Giờ có chị có em, sáng đi chiều về,
hết thui thủi một mình như trước, chòm xóm láng giềng thấy vậy cũng vui lây.
Sau Tết năm thằng Hiển lên năm, có ai đó
trong họ đạo Cao Đài xã mai mối, người từ Suối Cụt lên nói chuyện với dì tư Sắn,
hỏi cưới Khả cho con trai mình. Không lâu, sau đám cưới, Khả theo chồng, dì tư
cũng đi theo về dưới, để lại căn nhà cho hai mẹ con chị Nhạn, không tính tiền
tính bạc gì hết. Ngày đi, đứng chờ đón xe đò ngoài đường lộ, bà con chòm xóm ai
nấy bịn rịn buồn thiu, hai chị em, bà cháu ôm nhau rưng rưng nước mắt. Hai dì
cháu chị Khả đi rồi, căn nhà vắng vẻ, chắc cũng là cái vắng của những ngày chưa
có mẹ con chị Nhạn về ở. Giờ thì mỗi sáng sớm đi làm, chị gởi thằng nhỏ cho nhà
bên cạnh, chú thiếm tư Tịnh, đổ bánh tráng bánh phồng, ba chân bốn cẳng tới chỗ
làm. Cạo mủ hàng cây xong, trong khi chờ mủ ra trút vào thùng, chị quày quả về, ở với con được hai ba tiếng, cho nó ăn,
đem qua gởi lần nữa, rồi trở lên chỗ làm. Cũng đở là công việc làm chỉ quá trưa
là xong, nên chị chỉ làm nửa buổi, buổi chiều nghỉ nên có thì giờ rảnh rổi lo cho
con. Ấp thì không bao nhiêu người, ai cũng quen cũng biết, thấy chị Nhạn hiền
lành, nói năng nhỏ nhẹ, chịu khó chịu cực, ai kêu một tiếng cũng nhanh tay
nhanh chân tới phụ. Tiếng tốt đồn xa, lên tới tận Bông Trang, Bàu Nâu, xuống
mãi dưới Gò Chùa, Gò Dầu, Trà Võ thì khỏi nói, nhiều chỗ bắn tiếng muốn kết bạn
trăm năm nhưng chị một mực xin lỗi, chưa nghĩ tới vì con còn nhỏ quá, đợi nó lớn
chút xíu rồi mới tính.
Ngày khai trường, năm đầu thằng Hiển đi học
lớp năm, tròn sáu tuổi, sau khi cạo mủ xong, trời chưa sáng, chị Nhạn hối hả chạy
về nhà, lo quần áo thẳng thốn cho nó, rồi dắt con đi bộ, cặp theo con đường đất
ven mé rừng cao su, khoảng chừng hai cây số, lên trường tiểu học Thạnh Đức,
phía sau trụ sở hội đồng xã và nhà lồng chợ Trà Võ, đứng bên ngoài cửa lớp nhìn
vào. Thằng nhỏ thấy mẹ nhìn ra cười, chị Nhạn mừng muốn khóc. Trưa trút mủ
xong, giao thùng cho anh cặp –rằng chấm công xong, chị chạy miết tới trường dẫn con
về ăn cơm, Tới chiều chị lên sớm ngồi bên hông chợ chờ, tan trường hai mẹ con lửng thửng thả bộ về , nói cười cười
nói. Từ đó ngày nào chị Nhạn cũng đưa đón thằng Hiển như vậy.
Một
hôm mưa lớn, Chủ Nhật không đi làm, trời chưa sáng lắm, ngồi trong nhà nhìn ra
sau, hai ba trái dừa khô rụng nằm rải rác trên sân đất, chị Nhạn chợt nhớ Vũng
Liêm, nhớ bà hai Lắm, nhớ những cục kẹo dừa mà bà dạy cho chị làm. Mấy năm chị nay
lo làm kiếm tiền nuôi thân nuôi con, hẹn với lòng sẽ về dưới thăm bà nhưng chưa
đi được. Hai ba ngày sau, buổi sáng khi đưa thằng Hiển vào trường rồi, chị Nhạn
nấn ná ngang qua tiệm tạp hóa chú Phinh, có bán tập vở, viết mực tìm tìm kiếm
kiếm, nhìn thấy cũng có bán giấy kiếng mỏng đủ màu, xanh đỏ tím vàng, chị gật đầu
cười một mình như chợt khám phá ra cái gì đó.
*
Bắt
đầu qua Tết, cứ một hai ngày Hiển mang theo cái thùng thiếc lớn cở cái cặp,
có lắp miếng kiếng một bên, nhìn thấy rõ những cục kẹo dừa, mà chị Nhạn đã hái
dừa khô quanh nhà, mài thành bột, nấu với đường tán, cuộn giấy kiếng đủ màu mua
từ tiệm tạp hóa chú Phinh trên chợ, ngồi quấn tròn bằng tay, dài ngắn không đều,
bằng ngón tay, suốt đêm, dưới ánh đèn dầu leo lét, làm theo cách bà hai Lắm đã
dạy khi còn ở dưới Vũng Liêm, bán cho học trò trong giờ ra chơi, hay ra về nếu
có ai muốn mua, sau ngày chị Nhạn vào trường ấp úng trình bày tình cảnh mẹ con
để thầy cô cho phép. Mấy lần đầu còn lúng la lúng túng nhưng dần dà rồi quen việc,
Hiển quên hẳn chuyện chơi đùa, nghe tiếng trống nghỉ ra chơi mừng ra mặt, bưng
cái thùng kẹo, nhanh ra sân, đi hết chỗ này tới chỗ kia mời mời mọc mọc. Có đứa
mua có đứa lắc đầu, đặc biệt là mấy thầy mấy cô lại là khách hàng thường xuyên.
Học trò trong trường mới đầu còn thấy lạ, nhìn tới nhìn lui, xầm xì gì đó nhưng
rồi đâu cũng vào đấy, trẻ con mà, và cũng từ đó Hiển có thêm cái tên “Hiển kẹo dừa”
mà nói ra cả trường đều biết. Cô Phụng, cô giáo của Hiển thương nó không ít, tội
cho con nhà nghèo, lâu lâu cô cho cuốn tập, cây viết mới ngoài việc mua kẹo,
mua chưa ăn hết thì mua thêm, trong những ngày nó đem kẹo theo bán. Cô cũng còn
giúp cho Trăm, học chung lớp, những thứ mà cô đã cho Hiển nữa.
Tuy vậy Hiển cũng có cái vui của mình,
Trăm, cô bạn nhỏ thân cùng lớp, ngồi cùng bàn, lúc nào cũng đi bên bạn, phụ một
tay, gọi đứa này kêu đứa nọ mua không ngớt, không màn chuyện nhảy cò đánh đủa. Bữa nào bán không được nhiều, thấy Hiển ôm thùng kẹo dừa, ngồi ở góc sân trường
buồn thiu, Trăm cũng buồn theo, buồn muốn khóc. Tan trường Trăm không về trước mà đi
theo Hiển ra khỏi chợ, cười nói gì đó tới ngoài đường lộ, rồi mới quay trở lại,
mấy cục kẹo Hiển cho, không dám ăn, cứ cất để dành trong cái hủ đựng chao, lâu
lâu lấy ra nhìn mà vui thầm trong bụng. Nhà Trăm ở cuối ấp, gần khoảng ngã ba
con đường ngang khu rừng tre đi xuống bờ sông lớn, xa mấy căn nhà mé rìa chợ chừng hơn cây số, cũng nhà tranh vách đất, nghèo nàn mái dột cột xiêu. Trăm
không còn ba, sống với mẹ, bà lam lũ tát đìa tát mương, bắt cua bắt còng, cắm
câu, mò tôm mò tép, nhìn qua nhìn lại, nhìn tới nhìn lui, cả hai đứa nghèo như
nhau.
Hiển
cứ bán kẹo dừa như vậy và Trăm cũng đi bên cạnh bạn “tay đở miệng mời” trong sân trường dù mưa hay nắng cho tới cuối năm
lớp nhất. Cuối năm đó, Hiển đậu vào đệ
thất trường tỉnh, Trăm thôi học, ở nhà phụ mẹ vì bà bị phong thấp nặng, sưng khớp
xương tay rồi chân, có lẽ do dầm sông lội nước, đau nhức, không còn cử động
bình thường như xưa. Tiền bạc vốn đã nghèo, giờ phải thuốc thang thì tình cảnh
khốn khổ trăm phần. Lên tỉnh học, Hiển nhớ nhà nhiều mà nhớ bạn cũng nhiều, từ năm đệ
thất rồi đệ lục, mỗi lần về Bến Mương là không lần nào mà không lên Trà Võ kiếm
Trăm. Hai người mừng vui gặp nhau nói đủ thứ chuyện mà chuyện trên tỉnh nhiều hơn chuyện ở
quê ở làng, vì ở đây có gì mới đâu, cũng rừng cao su mùi lá mục, cũng con sông
Vàm lớn ròng, cũng cái chợ phố, một nửa nhà ngói một nửa nhà tranh, cũng tiếng
trống trường khi khoan khi nhặt lúc vô lúc về, vậy thôi. Lần về thăm nhà năm đệ
ngủ, Trăm không còn ở Trà Võ, hai mẹ con đã dắt díu nhau về dưới Chợ Gạo, Bến
Tranh, và Hiển đã không gặp lại Trăm từ đó.
Về
Chợ Gạo, hai người ở với vợ chồng bà dì, bà con xa của mẹ, nhà ở trên đầu dốc
bến phà, Trăm phụ làm nghề đan giõ đan đục, nôm bán cho người câu người lưới.
Chừng vài tháng sau, đi lên đi xuống bán hàng trên phà, chuyến qua chuyến lại,
ít học nhưng lanh lẹ, niềm nở, vui vẻ. Không biết quen biết làm sao, chủ phà mướn
Trăm làm người quét dọn, công việc không nặng nhọc lắm, cực thì cũng có cực
nhưng vui, nhờ vậy mà có thêm tiền mua thuốc thang cho bệnh tình của mẹ mình. Nhưng, không qua nổi phần số, bà mất vào một chiều đầu mưa tháng sáu, mưa dầm
mưa dề hơn hai năm sau, năm Trăm vừa qua tuổi mười bảy. Nghe lời mấy bác lớn tuổi
ở chợ quận, sau đám tang không bao nhiêu người đưa, một người khóc, không kèn
không trống nhưng cũng tạm tươm tất, bà con hùn tiền giúp, đưa xác mẹ Trăm đi hỏa
thiêu dưới Tân Thạnh, Gò Công, rồi đem hủ tro cốt về lại gởi trong một cái chùa
nhỏ bên vàm lớn ở Bến Tranh, chùa không có tên nhưng được người dân kêu đại riết
rồi quen “Chùa Vàm Lớn”.
Cũng mấy tháng rồi, một sáng cuối Thu, nhân
chiếc phà hư máy, phải sửa một hai ngày, được nghỉ, Trăm đi đò ngang qua chùa
thăm mẹ. Chùa vắng vẫn vắng tanh như vậy từ đó đến giờ, khói nhang quạnh quẽ, ngoài
ông sư già trong chùa có thêm thằng bé trai chừng độ một tuổi, chập chững đi
qua đi lại trong chánh điện. Thằng nhỏ mặt mài kháu khỉnh, dễ coi, không biết lạ
biết quen, tay nắm tay kéo, bập bẹ tiếng mất tiếng còn, thấy mà thương, Trăm
cũng phải bật cười theo. Ngồi nghe ông sư già nói lại, thằng bé mồ côi, cha mẹ
làm nghề giăng lưới trên sông, không biết vì sao chết, khi nó vừa dứt sửa mẹ. Ai đó đem về nuôi lớn chút xíu rồi đem gởi đây, tên là Chữ. Ông sư tạm lo, thằng
nhỏ ăn uống cũng dễ, chao tương không sao, chờ tìm người chịu nuôi, nếu không
có, chắc phải đem nó vào cô nhi viện đâu đó. Hai người, một già một trẻ nói
chuyện gì đó với nhau thật lâu, thằng nhỏ ngây thơ bắt chước ông sư già, lắc lắc
bàn tay xá xá dưới chân tượng Phật. Không lâu sau, Trăm tay dắt thằng bé Chữ,
tay xách cái giõ đan bằng giây lát, có cái hủ đựng tro cốt cở hủ chao, từ
giã ông sư già ra về. Đi cũng khá xa, nhìn lại ông sư già vẫn còn đứng trước cổng
chùa nhìn theo, chấp tay miệng lâm râm “nam
mô a di đà Phật”.
*
Thứ
hai vào học lại, vài ngày nữa nghỉ hè, thằng Chữ thôi không còn mang theo
cái thùng thiếc bán kẹo dừa. Học trò chẳng màng thắc mắc làm gì, tụm năm tụm ba,
đánh đôi đánh đọ như cũ. Thầy cô cũng không còn chờ mua nữa. Bãi trường, Hiển
và Trăm dắt thằng bé Chữ, đón xe đò về Bến Mương. Căn nhà tranh cũ, sau ngày Hiển
ra trường đi dạy, có dư chút tiền dành dụm, được cất lại khang trang, nền gạch,
vách ván, mái tôn, cửa nẻo hẳn hoi, sân trước sân sau ngay hàng thẳng lối. Mấy
cây dừa vẫn trái xanh trái già. Chị Nhạn không còn đi cạo mủ, bà con trong ấp
ai nấy cũng vui lây. Ba người lớn, một thằng bé quây quầng bên nhau trong nhà,
sân trước sân sau, bờ sông mé ruộng, chuyện ngày đó chuyện bây giờ nói hoài cả
ba tháng hè mà không hết, với chị Nhạn, chừng này là đủ mãn nguyện lắm rồi.
Hạ ngấp nghé tàn, thưa thớt hoa úa một màu đỏ
bầm, nấn níu bám đám cành lá khẳng khiu trên mấy cây phượng già, già theo tuổi
của đời người quanh sân trường cũ, trường tiểu học Thạnh Đức. Hiển, Trăm và thằng
Chữ đứng ngoài cổng nhìn vào, dãy hành lang, lớp học, cái sân cát trắng rộng vẫn
như xưa, cây Bồ Đề vẫn xum xuê lá cành như ngày đó, ngày Hiển mang cái thùng
thiếc lang thang bán kẹo dừa có Trăm bên cạnh, nhất là cái góc sân trường chỗ mấy
cây Gòn cao những hôm không ai mua, Trăm ngồi bên, không đứa nào nói gì nhưng đứa
nào cũng buồn muốn khóc. Bây giờ, đứng
ở đây, vị ngọt của mấy cục kẹo dừa bỏ trong hủ chao năm xưa đang thắm dần,
êm ả xuôi dòng như con rạch Bần cuối làng êm ả chạy ra sông lớn, trong từng mạch
máu về tim, con tim bất chợt có niềm vui đến muộn, Trăm rươm rướm nước mắt.
*
Hôm tiễn
con ngoài đường lộ về lại Trãng Bàng, Bến Mương, nắng chiều hanh hanh vàng,
gió lất phất ươm mùi nước bùn của sông pha mùi lá rừng cao su mục, ba người lên
xe rồi, chị Nhạn nói với theo “hôm đó nhớ
về nghe mấy đứa”, thằng Chữ sướt mướt “nội
ơi nội ơi”. Xe chạy xa tít dưới cầu Đá Hàn lâu lắm rồi, chị Nhạn vẫn còn đứng
đó, vui mà muốn khóc. Chị đâu biết trên xe Hiển và Trăm cũng vui mà muốn khóc
theo.
Thuyên Huy
Ballarat những ngày dứt mưa 2019
Viết cho thằng con nhà nghèo có những ngày như vậy ở
một ấp quê nửa thế kỷ trước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét