Thứ Ba, 14 tháng 9, 2021

Góc Đường Thi : XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ - Trương Nhược Hư (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Đường Thi :                                            

               XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ
                                        Trương Nhược Hư
                        

     
                

TRƯƠNG NHƯỢC HƯ 張 若 虛  (Khoảng 660-720), người đất Dương Châu (thuộc tỉnh Giang Tô hiện nay) là thi nhân nổi tiếng đời Đường. Từng giữ chức Binh Tào ở Đoái Châu, cùng với Hạ Tri Chương, Trương Húc, và Bao Dung hợp xưng là "Ngô Trung Tứ Sĩ 吳 中 四 士". Trong Toàn Đường Thi Tập chỉ còn chép lại có 2 bài thơ của Trương Nhược Hư mà thôi : Bài nầy và bài "Đại Đáp Khuê Mộng Hoàn 代 答 閨 夢 還". Riêng bài "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ 春 江 花 月 夜" là bài thơ được đánh giá là "Bài thơ Thất ngôn trường thiên hay nhất ở thời buổi Thịnh Đường". Ta hãy cùng đọc bài thơ nầy nhé!


  春 江 花 月 夜            XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ

春江潮水連海平,       Xuân giang triều thủy liên hải bình,
海上明月共潮生。    Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
灩灩隨波千萬裏,    Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,
何處春江無月明!?    Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh !?
江流宛轉繞芳甸,   Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
月照花林皆似霰;      Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tán;    
空裏流霜不覺飛,   Không lý lưu sương bất giác phi,
汀上白沙看不見。   Thinh thượng bạch sa khan bất kiến.
江天一色無纖塵,   Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
皎皎空中孤月輪。   Giảo giảo không trung cô nguyệt luân.
江畔何人初見月?   Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt ?
江月何年初照人?   Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân ?
人生代代無窮已,   Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
江月年年望相似。   Giang nguyệt niên niên vọng tương tự.
不知江月待何人,   Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,
但見長江送流水。   Đản kiến trường giang tống lưu thủy.
白雲一片去悠悠,   Bạch vân nhất phiến khứ du du,
青楓浦上不勝愁。   Thanh phong phố thượng bất thắng sầu.
誰家今夜扁舟子?   Thùy gia kim dạ biển chu tử ?
何處相思明月樓?   Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu ?
可憐樓上月徘徊,   Khả lân lâu thượng nguyệt bồi hồi,
應照離人妝鏡臺。   Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
玉戶簾中卷不去,   Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
搗衣砧上拂還來。   Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
此時相望不相聞,   Thử thời tương vọng bất tương văn,
願逐月華流照君。   Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
鴻雁長飛光不度,   Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
魚龍潛躍水成文。   Ngư long tiềm diệu thủy thành văn.
昨夜閒潭夢落花,   Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
可憐春半不還家。   Khả lân xuân bán bất hoàn gia.
江水流春去欲盡,   Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,
江潭落月復西斜。   Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
斜月沉沉藏海霧,   Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
碣石瀟湘無限路。   Kiệt thạch tiêu tương vô hạn lộ.
不知乘月幾人歸,   Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,
落月搖情滿江樹。   Lạc nguyệt diêu tình mãn giang thọ.

 


* Chú thích :
    - Xuất xứ của bài thơ XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ 春 江 花 月 夜 : vốn là tên của một ca khúc nổi tiếng của đất Ngô, tương truyền là do Trần Hậu Chúa của Nam Triều làm ra, Bản từ gốc đã thất truyền. Theo Cựu Đường Thư, thì "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ", "Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa", "Đường Đường"... đều do Trần Thúc Bảo Hậu Chúa cùng các nữ học sĩ trong cung sáng tác và các triều thần hòa thành thơ, rồi Thái Nhạc Lệnh là Hà Tư chọn những bài từ hoa lệ mà phổ thành ca khúc nầy. Sau Tùy Dương Đế cũng có sáng tác qua từ điệu nầy. Trong "Nhạc Phủ Thi Tập 樂 府 詩 集" quyển thứ 47 có chép lại 7 khúc hát với từ điệu "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ", trong đó có 2 bài là của Tùy Dương Đế. Bài thơ "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ" của Trương Nhược Hư cũng làm theo đề từ nầy, nhưng đã khác với các khúc điệu trước đây, nhưng lại là bài thơ nổi tiếng nhất trong các bài đề từ cùng tên. 
  - Diễm Diễm 灩 灩 :Sóng nước chập chờn lấp loáng.
  - Phương Điện 芳 甸 :PHƯƠNG là Mùi thơm của Hoa cỏ. ĐIỆN là Đất ngoài đồng trống, nên PHƯƠNG ĐIỆN là Cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ.
  - Tán 霰 :là Mưa đá thật nhỏ, những hạt nước trắng tinh trông thật tinh khiết dưới ánh trăng.
  - Lưu Sương 流 霜 :Không phải là sương lưu động, mà là những hạt sương như những làn tuyết mỏng bay bay dưới ánh trăng mờ ảo mông lung.
  - Thinh 汀 :Bãi cát hay những cồn cát nổi lên ở trên sông.
  - Tiêm Trần 纖 塵 :TIÊM là mịn màng, TRẦN là bụi bặm; nên TIÊM TRẦN là những hạt bụi thật nhỏ thật mịn.
  - Nguyệt Luân 月 輪 :LUÂN là cái bánh xe, nên NGUYỆT LUÂN chỉ Vầng trăng tròn như là cái bánh xe. Trăng thật tròn.
  - Cùng Dĩ 窮 已 :là Cùng tận, là hết mức.
  - Câu "Giang nguyệt niên niên CHỈ tương tự 江 月 年 年 只 相 似:Còn có một dị bản là “Giang nguyệt niên niên VỌNG tương tự 江 月 年 年 望 相 似”。
  - Đản Kiến 但 見 :Chỉ thấy, Chỉ thấy là...
  - Du Du 悠 悠 :là Xa xôi diệu vợi.
  - Thanh Phong Phố 青 楓 浦 :PHỐ là Bến nước, nên THANH PHONG PHỐ là Bến nước Thanh Phong ở tỉnh Hồ Nam hiện nay. Ở đây phiếm chỉ chỗ ở của người du tử.
  - Phố Thượng 浦 上:là Trên bến nước, là Bên bờ sông. Câu nầy lấy ý từ bài Cửu Ca của Khuất Nguyên (屈 原 九 歌):“Tử giao thủ hề đông hành, Tống mỹ nhân hề nam phố 子 交 手 兮 東 行,送 美 人 兮 南 浦”. Hai câu thơ trên hàm ý chia tay giả biệt:
                           Nắm tay giả biệt về đông,
                  Đưa người nam phố cho lòng ngẩn ngơ. 
  - Biển Chu Tử 扁 舟 子 :là Chiếc thuyền con, ý chỉ phiêu bạt như người du tử.
  - Minh Nguyệt Lâu 明 月 樓 :là Lầu trăng sáng, chỉ sự nhớ nhung của người cô phụ, theo như bài thơ "Thất Ai Thi" của Tào Thực đời Tấn 曹 植《七 哀 詩》:
             明 月 照 高 樓,  Minh nguyệt chiếu cao lâu,
             流 光 正 徘 徊。  Lưu quang chánh bồi hồi.
             上 有 愁 思 婦,  Thượng hữu sầu tư phụ,
             悲 嘆 有 餘 哀!   Bi thán hữu dư ai !
     Có nghĩa :
                   Lầu cao trăng chiếu mênh mông,
                   Ánh vàng bàng bạc cho lòng ngẩn ngơ.
                   Cô đơn thiếu phụ bơ phờ,
                   Tiếng than não nuột thẫn thờ bi ai !
  - Ly Nhân 離 人 :Những người ly biệt, ở đây chỉ người cô phụ xa chồng.
  - Trang Kính Đài 妝 鏡 台 :Cái đài gương, cái giá gương để trước bàn trang điểm, chỉ chung Bàn Phấn của qúy bà qúy cô.
  - Ngọc Hộ 玉 戶 :Cửa có dát ngọc, chỉ các lâu đài cao sang hoa lệ.
  - Đảo Y Châm 搗 衣 砧 :Cái chày bằng đá ngày xưa dùng để giặt giũ.
  - Tương Vọng 相 望... Tương Văn 相 聞 :Nhìn nhau... Nghe thấy nhau.
  - Trục 逐 :Rượt theo, đuổi theo.
  - Nhàn Đàm 閒 潭 :chỉ Đầm nước yên tịnh phẵng lặng.
  - Phục Tây Tà 復 西 斜 :Lại nghiêng ngã về tây.
  - Tiêu Tương 瀟 湘 : chỉ 2 con sông Tương Giang và Tiêu Thủy ở tỉnh Hồ Nam hiện nay.
  - Kiệt Thạch 碣 石 : Hòn đá đứng trơ trọi một mình, tên núi ở tỉnh Hà Bắc hiện nay, nên KIỆT THẠCH và TIÊU TƯƠNG : Một ở bắc một ở nam, chỉ đường xá xa xôi khó thể gặp nhau. 
  - Vô Hạn Lộ 無 限 路 :Đường xá không có giới hạn, chỉ xa xôi vô cùng.
  - Thừa Nguyệt 乘 月 :Thừa lúc ánh trăng sáng, nhân lúc sáng trăng.
  - Diêu Tình 搖 情 :Tình cảm dao động, chỉ xúc động tâm tình. 
        

* Nghĩa bài thơ :
                       Đêm Hoa Nguyệt Trên Sông Xuân
       Thế nước thủy triều của mùa xuân dào dạt hòa cùng nước biển liền thành một dãy, một vầng trăng mọc lên từ mặt biển như cùng trào dâng với nước thủy triều. Ánh trăng sáng chiếu trên sông xuân gợn sóng lấp loáng cả muôn vạn dặm. Không có chỗ nào trên sông là không có ánh sáng trăng chiếu đến. Nước sông uốn khúc chảy quanh cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ, ánh trăng thì rải đầy trên rừng cây lấp lánh hạt mốc sa.
        Ánh trăng sáng mông lung như sương bay bay phất phơ khắp nơi. Bãi cát trắng xóa hòa cùng ánh trăng trong làm ta không còn phân biệt được cát trắng hay trăng trong. Sông và trời như liền làm một không chút bụi trần, còn vầng trăng thì vẫn vằng vặc treo lơ lửng trên bầu trời. Bên dòng sông ai là người thấy trăng mọc trước nhất? Còn vầng trăng trên sông thì năm nào mới bắt đầu chiếu ánh sáng cho người? Đời người thì đời nầy qua đời khác nối tiếp nhau không dứt, còn vầng trăng trên sông thì năm nầy qua năm nọ cũng vẫn như thế mà thôi! Không biết là vầng trăng trên sông đang chờ đợi ai đây, chỉ thấy nước sông trường giang cứ không ngừng trôi chảy mãi. 
      Người du tử như đám mây trắng vằng vặc bay mãi bay đi, còn người cô phụ ở lại trên bến Thanh Phong thì cứ sầu hoài sầu mãi. Chàng du tử nhà ai đêm nay còn thả một con thuyền nhỏ phiêu bạt trên sông? Và nơi nào có nàng cô phụ đang ngắm trăng trên lầu mà thương nhớ? Khá thương thay ánh trăng cứ lởn vởn mãi trên lầu, lẽ ra phải chiếu vào bàn trang điểm của kẻ đã đi xa. Ánh trăng chiếu vào rèm ngọc của người cô phụ cuốn cũng không đi, chiếu trên chiếc chày đá giặt giũ phủi cũng không được. Đang lúc này cả hai đang cùng nhìn ngắm trăng nhưng lại cùng không nghe thấy tiếng của nhau. Mong ước rằng sẽ được như ánh trăng vượt ngàn để soi rọi cho nhau. Chim hồng nhạn không ngừng bay lượn, nhưng vẫn không bay ra khỏi được ánh trăng mênh mông vô bờ. Vầng trăng chiếu trên mặt sông, rồng cá dưới nước như cũng đang quẫy đuôi làm nổi lên những gợn sóng lăn tăn. (Ý muốn nói, bóng chim tăm cá gì đều bặt vô âm tín). Hôm qua mơ thấy hoa rụng bên đầm nước vắng lặng, chỉ tiếc là mùa xuân đã đi qua một nửa rồi mà vẫn còn chưa được về quê. 
          Nước sông xuân cứ chảy mãi không thôi như mùa xuân sắp tàn, và bóng trăng trong đầm nước cũng sắp ngã về hướng tây. Trăng tàn dần dần chìm xuống trong sương mờ trên biển, những tảng đá chơ vơ trên núi Kiệt Thạch miền bắc và hai dòng sông Tiêu Tương ở miền nam xa cách nhau ngàn trùng diệu dợi. Không biết đã có những ai nhân vầng trăng sáng nầy mà về lại quê nhà, chỉ có ánh trăng tà sắp lặn mới biết được cái ly tình kia nên rải ánh trăng lên khắp cả các rừng cây ven sông!...

    Cả bài thơ xoay quanh 5 chủ đề của cái tựa là XUÂN, GIANG, HOA, NGUYỆT, và DẠ để thể hiện cái đẹp của đêm trăng trên sông xuân với hoa thơm cỏ đẹp trong đêm làm rung động lòng người. Cả bài theo tuần tự của cảnh trí đưa đến triết lý rồi biểu hiện của tình cảm biệt ly... Cảnh, Lý, Tình cứ lần lượt bày ra trước mắt người đọc: Cảnh sáng trăng đẹp đẽ nên thơ trên dòng sông xuân, cảm khái phát sinh khi đối diện với cảnh trí đẹp đẽ nên thơ nầy và cuối cùng lồng vào nỗi niềm biệt ly nhung nhớ của người cô phụ và kẻ lãng tử giang hồ. Với thủ pháp trực khởi thi nhân đã vào đề bằng cách tả ngay cảnh đẹp đẽ nên thơ của vầng trăng mới mọc lên trên sông biển bằng "Giang triều liên hải, nguyệt cộng triều sinh 江 潮 连 海,月 共 潮 生" (Nước sông mênh mông liền với biển cả và vầng trăng nương theo sóng nước mà mọc lên)... rồi kết thúc bằng cảnh trăng tà sắp lặn khi đêm đã gần tàn trên sông nước "Lạc nguyệt diêu tình mãn giang thọ 落 月 搖 情 滿 江 樹". Trăng sắp rụng nhưng ánh trăng vẫn như còn trải đầy trên sông nước rừng cây...

* Diễn nôm :

                  XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ
            
            


               Nước sông xuân biển liền bằng phẵng,
               Trăng sáng như mọc thẳng từ sông,
               Nhấp nhô lấp lánh mênh mông,
               Nơi nào chẳng có trăng lồng dáng xuân.

               Sông uốn khúc qua vùng cỏ lạ,
               Trăng chiếu hoa lả chả sương rơi,
               Sương bay bay khắp muôn nơi,
               Mông lung bãi cát sáng ngời ánh trăng.

               Trời liền sông trong ngần tựa bạc,
               Một vầng trăng vằng vặc trên cao,
               Ai người ngắm trước trăng nào ?
               Trăng bên sông nước năm nào chiếu ai ?

               Người nhân thế đổi thay kiếp kiếp,
               Trăng năm năm vẫn tiệp một màu,
               Trăng ơi, trăng đợi ai nào ?
               Nước trường giang cứ dạt dào đêm đêm.

               Như mây trắng trôi êm đi mãi,
               Bến Thanh Phong cỏ ái lòng sầu,
               Thuyền người du tử về đâu ?
               Tương tư thiếu phụ bên lầu trăng soi.

               Trăng bồi hồi vàng gieo ngấn nước,
               Chiếu đài gương chênh chếch trăng treo,
               Cuốn rèm trăng chẳng cuốn theo,
               Tiếng chày giặt lụa càng gieo càng sầu.

               Ngắm trăng ở hai đầu cùng lúc,
               Cùng chẳng nghe cùng chẳng thấy nhau.
               Trăng lồng nhạn mãi bay cao,
               Cá rồng chìm nước âm hao mõi mòn.

               Đêm qua mơ hoa còn chưa héo,
               Muốn hồi gia sợ kẽo xuân đi.
               Sông xuân nước chảy liền khi,
               Đầm xuân trăng rụng khác gì nước trôi.

               Trăng nghiêng nghiêng bồi hồi sương biển,
               Bắc Nam kia vĩnh viễn hai đường,
               Theo trăng mấy kẻ hồi hương,
               Trăng tà ánh vẫn phủ sương cây rừng !
                                      Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
      
      "Xuân Giang Hoa Nguyệt Da 春 江 花 月 夜" là thi phẩm tiêu biểu cho thơ ca của buổi Sơ Đường bước vào thời kỳ Thịnh Đường. Bài thơ đã nêu lên cái đẹp thiên nhiên của đêm trăng sáng, cái ảo diệu của vầng trăng sáng đối với cuộc sống của nhân sinh, bao la của vũ trụ và khát vọng của tình yêu, mang lại cho người đọc cái lòng yêu cuộc sống và khẳng định lại giá trị, tác động của quang cảnh mùa xuân đã mang đến cho con người hơi thở, hy vọng, và sức sống bồng bột mãnh liệt trong đêm trăng trên sông xuân. Bài thơ được đánh giá là "Dĩ cô thiên áp toàn Đường 以 孤 篇 壓 全 唐. Có nghĩa: "Chỉ có một bài thơ mà đè bẹp cả toàn Đường thi". Ý muốn nói "Đây là bài thơ hay nhất của tất cả thơ đời Đường".
     Danh sĩ đời Thanh Vương Khải Vận 王 闓 運 đánh giá là: "Cô thiên hoành tuyệt, cánh vi đại gia 孤 篇 横 絕,竟 為 大 家 " có nghĩa: "Chỉ một bài thơ độc nhất tung hoành tuyệt đĩnh, là một Đại Gia trong thơ". Một học giả cận đại Văn Nhất Đa 聞 一 多  đánh giá là: "Thi trung đích thi, đĩnh phong thượng đích đĩnh phong 詩 中 的 詩,頂 峰 上 的 頂 峰". Có nghĩa: "là Thơ ở trong thơ, là Đĩnh cao trên  đĩnh cao!" 
                     


            Hẹn bài viết tới !

                                                                杜 紹 德
                                                             Đỗ Chiêu Đức








Không có nhận xét nào: