Thứ Sáu, 3 tháng 9, 2021

Góc Việt Thi: Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (6) (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Thi : 

              Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (6)
               
              
                     
26. Bài thơ HẠ LẠI :

     下 瀨                                     HẠ LẠI
黃 頭 下 瀨 疾 如 飛,    Hoàng đầu hạ lại tật như phi,
潦 委 浮 春 日 夜 馳。    Lạo ủy phù xuân nhật dạ trì.
光 景 漸 隨 流 水 去,    Quang cảnh tiệm tuỳ lưu thuỷ khứ,
世 間 恐 未 有 人 知。    Thế gian khủng vị hữu nhân tri !
      
                            

* Chú thích :
    - Hạ Lại 下 瀨 : HẠ là Đổ xuống; LẠI là Nước chảy xiết, nên HẠ LẠI là Dòng nước chảy xiết từ trên đổ xuống, tức là chỉ Thác Nước.
    - Hoàng Đầu 黃 頭 : Chỉ Người trẻ tuổi, chỉ Ý chí Kiên cường. Ở đây HOÀNG ĐẦU HẠ LẠI chỉ Thác nước mạnh mẽ.
    - Tật 疾 : Danh từ là Bệnh; Trạng từ là Nhanh; TẬT NHƯ PHI 疾 如 飛 là Nhanh như bay.
    - Lạo 潦 : Nước đọng tràn bờ. 
    - Trì 馳 : chỉ ngựa phóng nhanh.
    - Tiệm 漸 : là Từ từ, dần dần.
    - Khủng 恐 : là Sợ, là E; KHỦNG VỊ HỮU 恐 未 有 là E rằng chưa có...

* Nghĩa bài thơ:
                                THÁC NƯỚC
       Thác nước mạnh mẽ từ trên cao đổ xuống nhanh như bay, nước tràn đọng tựa dòng xuân đang ngày đêm chảy băng băng như ngựa phi. Cái quang cảnh nầy cứ dần dần ngày một qua đi theo dòng nước chảy, mà trên thế gian nầy e rằng chẳng có ai thèm biết tới đâu!
       Cảnh trí thiên nhiên cứ diễn ra một cách mạnh mẽ hùng vĩ rầm rộ trong núi rừng, nhưng cũng rất âm thầm lặng lẽ, vì người đời há có ai thèm biết tới đâu!

* Diễn Nôm :
                              HẠ LẠI 
                
                  

                 Mạnh mẽ tuôn nhanh kìa hạ lại,
                 Đêm ngày cuồn cuộn cuốn như bay.
                 Cảnh quang cứ thế trôi trôi mãi...
                 Nào biết trên đời mấy kẻ hay !...
      Lục bát :
                 Thác kia nước chảy như bay,
                 Dòng xuân cuốn hút đêm ngày tựa phi.
                 Cảnh quang theo nước trôi đi,
                 Thế gian mấy kẻ biết gì tới đâu !...
                              Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

   27. Bài thơ  KINH ĐIỆP SƠN :         

   經 叠 山                          KINH ĐIỆP SƠN
江 因 潮 上 黃 流 合,Giang nhân triều thướng hoàng lưu hợp,
柳 得 春 多 翠 色 明。Liễu đắc xuân đa thúy sắc minh.
詩 客 幾 回 傷 往 事,Thi khách kỷ hồi thương vãng sự,
艤 舟 石 畔 問 山 名。Nghĩ chu thạch bạn vấn sơn danh.
     
                     

* Chú thích :
    - KINH ĐIỆP SƠN 經 叠 山 : KINH là Đi ngang qua; ĐIỆP SƠN là Núi Tam Điệp; nên KINH ĐIỆP SƠN là Đi ngang qua núi Tam Điệp.
    - Hoàng Lưu 黃 流 : Chỉ chung dòng nước lớn chảy cuồn cuộn. HOÀNG LƯU HỢP : Ở đây chỉ nước sông Hồng và Hoàng Long khi thuỷ triều lên thì hoà vào nhau và dâng cao, thuận tiện cho thuyền bè đi lại. Sông Hoàng Long chảy qua Ninh Bình, là đường thuỷ đi tới Thanh Hoá. (Chú thích trong Thi Viên).
    - Thúy Sắc 翠 色 : là Màu xanh biếc.
    - Nghĩ Chu 艤 舟 : là dừng thuyền lại; ghé thuyền lại.

* Nghĩa bài thơ :
                        ĐI NGANG QUA NÚI TAM ĐIỆP
       Nhân nước thuỷ triều lên, con nước lớn hòa quyện vào dòng chảy, cũng như cây dương liễu kia hưởng được ánh nắng xuân mà xanh biếc hơn lên. Làm cho khách thơ phải bồi hồi thương cảm những chuyện đã qua, mà phải đỗ thuyền lại bên bờ đá để hỏi thăm tên núi.

* Diễn Nôm :
                        KINH ĐIỆP SƠN    
                   
                    

                Hòa quyện triều lên nước cuốn nhanh,
                Liễu nương xuân sắc biếc như tranh.
                Khách thơ mấy lượt hờn xưa cũ,
                Bờ đá đỗ thuyền hỏi núi xanh !
    Lục bát :
                Triều lên nước quyện sông Hoàng,
                Bên bờ xuân sắc liễu càng biếc xanh,
                Bồi hồi chuyện cũ vờn quanh,
                Khách thơ bờ đá hỏi rành núi chi ?!
                           Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
         
28. Bài thơ KINH HƯNG BANG QUAN :

    經 興 邦 關                    KINH HƯNG BANG QUAN
霧 猿 恨 竹 怨 斜 陽,     Vụ viên hận trúc oán tà dương,
枕 上 繁 花 夜 雨 涼。     Chẩm thượng phồn hoa dạ vũ lương.
閱 世 老 盆 庚 甲 古,     Duyệt thế lão bồn canh giáp cổ,
羊 公 湛 湛 斷 人 腸。     Dương công trạm trạm đoạn nhân                                                     trường!
    
                 

*Chú thích :
   - KINH HƯNG BANG QUAN 經 興 邦 關 : QUAN là Quan ải, nên KINH HƯNG BANG QUAN là đi ngang qua cửa ải Hưng Bang.
   - Vụ Viên 霧 猿 :là con vượn trong sương mai. Theo thơ tả cảnh đẹp trong núi của Đào Hoằng Cảnh thời Nam Bắc Triều 南 北 朝  陶 弘 景 : Hiểu vụ tương yết, viên điểu loạn minh; Tịch nhật dục thốc, trầm lân cạnh diệu 曉 霧 將 歇,猿 鳥 亂 鳴;夕 日 欲 頹,沉 鱗 競 躍. Có nghĩa: Sương mai sắp tan, vượn chim cùng hót; Nắng chiều sắp tắt, muôn cá quẩy đuôi.
   - Lão Bồn 老 盆 : là Cái bồn già, ý chỉ Cái Bồn Tắm đã cũ. Theo Sách Lễ ký, chương thứ ba của sách Đại Học chép: Vua Thành Thang nhà Thương cho khắc vào bồn tắm câu “Cẩu Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân 苟 日 新,日 日 新,又 日 新” (Để ngày mới, ngày ngày thêm mới, mỗi ngày một mới).
   - Canh Giáp 庚 甲 : là 2 ngôi của Thập Vị Thiên Can, thường dùng để chỉ niên đại, năm tháng.
   - Dương Công 羊 公 : là Ông già họ Dương, Chỉ Dương Hỗ 羊 祜 đời Tấn Vũ Đế 晉 武 帝, thời Tây Tấn làm Thái Thú quận Tương Dương, rất thanh liêm. Có người biếu cá, không đừng được phải nhận, song treo cá lên mà không ăn. Người biếu cá lại đem cá biếu, ông chỉ chỗ cá treo, người đó xấu hổ ra về. Từ đó không ai dám quà cáp hối lộ. Ông mất, dân lập bia kỷ niệm, ai tới xem bia cũng phải nhỏ lệ, vì vậy, sử gọi bia này là Trụy Lệ Bi (Bia rơi lệ).

* Nghĩa bài thơ :
                     Đi Ngang qua cửa ải Hưng Bang
       Như con vượn hú lên buổi sáng hận rừng trúc và oán ánh nắng lúc chiều tàn. Đêm mưa gió lạnh chập chờn bên gối mộng phồn hoa, sáng ra nhìn chậu nước rửa mặt lại chạnh nhớ đến cái Lão Bồn có niên đại rất xưa (nhưng trên đó lại có câu "Cẩu nhựt Tân, nhựt nhựt tân, hựu nhật tân" của vua Thành Thang), lại chợt nhớ đến sự liêm khiết của Dương Công càng làm cho người ta thêm đứt ruột!

* Diễn Nôm :
                     KINH HƯNG BANG QUAN
                   
                     

               Vượn sương hú trúc giận chiều buông,
               Bên gối phồn hoa mưa lạnh suông.
               Trải đời bồn cũ nhiều năm tháng,
               Chợt nhớ Dương Công những đoạn trường !
    Lục bát :
               Bâng khuâng tiếng vượn sáng chiều,
               Đêm mưa bên gối tiêu điều phồn hoa.
               Bồn xưa năm tháng trôi qua,
               Dương Công chợt nhớ xót xa đoạn trường !
                              Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
                                    
29. Bài thơ LỘNG NGUYỆT THI :

   弄 月 詩                                LỘNG NGUYỆT THI
六 卒 不 驚 哮 虎 臥,     Lục tốt bất kinh hao hổ ngoạ,
清 光 倒 浸 水 晶 宮。     Thanh quang đảo tẩm thuỷ tinh cung.
林 泉 興 少 無 新 夢,     Lâm tuyền hứng thiểu vô tân mộng,
萬 象 乾 坤 玉 鏡 中。     Vạn tượng càn khôn ngọc kính trung.

       
                           

* Chú thích :
    - LỘNG NGUYỆT THI 弄 月 詩 : LỘNG là Thao tác, là Chọc ghẹo, là Đùa giởn, nên LỘNG NGUYỆT THI là Bài thơ giởn trăng.
    - Lục Tốt 六 卒 : như LỤC QUÂN 六 軍 là 6 cấp quân binh ngày xưa: là Lãnh Quân, Hộ Quân, Tả Hữu nhị vệ, Kiêu Kỵ và Du Kích 領 軍、護 軍、左 右 二 衞、驍 騎、遊 擊 為 “六 軍”。 thường được gọi tắt cho gọn là TAM QUÂN 三 軍, gồm có Tiền Quân, Trung Quân và Hậu Quân, ta gọi Ba Quân. Còn TAM QUÂN thời bây giờ là Hải, Lục, và Không Quân.
    - Hao 哮 : Tiếng gầm, tiếng Rú, Tiếng Hú của muôn thú.
    - Đão Tẩm 倒 浸 : là Ngâm ngược ở dưới nước; ở đây chỉ bóng dáng của cảnh vật bị đảo ngược ở dưới nước.
    - Ngọc Kính 玉 鏡 : Chỉ tấm gương bằng ngọc trong suốt.

* Nghĩa bài thơ :
                       BÀI THƠ GIỞN TRĂNG
        Sáu cấp binh lính theo hầu vua đều im thinh thích không chút kinh động như con hổ nằm yên không gầm thét. Ánh trăng trong vắt chiếu ngược cảnh vật in trong mặt nước lung linh như thuỷ tinh cung. Ở nơi chốn lâm tuyền nầy không có nhiều hứng thú nên cũng không có thêm mộng mơ gì. Cả vũ trụ đất trời vạn vật như chìm trong tấm gương trong suốt bằng ngọc thủy tinh.

* Diễn Nôm :
                    LỘNG NGUYỆT THI  
                  
                     

               Ba quân tựa hổ không gầm thét,
               Cảnh vật đắm chìm dưới thuỷ cung.
               Rừng suối thôi mơ chùn cảm hứng,
               Đất trời vạn vật tựa gương trong !
     Lục bát :
               Lục quân tựa hổ im hơi,
               Ngược chìm đáy nước sáng ngời thuỷ cung. 
               Lâm tuyền ít hứng mộng không,
               Càn khôn vạn vật đắm trong gương trời !
                            Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm  

30. Bài thơ LƯƠNG SÀNG :
      涼 床                                     LƯƠNG SÀNG
興 時 花 畔 閑 憑 月,    Hứng thời hoa bạn nhàn bằng nguyệt,
倦 裡 窗 前 獨 臥 風。    Quyện lý song tiền độc ngọa phong.
保 護 處 無 傷 折 患,    Bảo hộ xứ vô thương chiết hoạn,
百 年 長 伴 白 頭 翁。    Bách niên trường bạn bạch đầu ông.

      
                  

* Chú thích :
    - LƯƠNG SÀNG 涼 床 : Giường nằm mát, giường nằm hóng gió.
    - Quyện Lý 倦 裡 : Trong lúc mỏi mệt.
    - Thương Chiết Hoạn 傷 折 患 : Cái hoạn nạn do bị thương bị gãy.
    - Trường Bạn 長 伴 : Làm bạn dài hạn.

* Nghĩa bài thơ :
                          CHIẾC GIƯỜNG NẰM MÁT
       Khi hứng thú thì làm bạn với hoa, khi nhàn nhã thì bạn cùng ánh trăng. Lúc mỏi mệt thì nằm trước song cửa một mình mà hóng gió. Cố giữ sao cho đừng bị cái nạn gãy đổ tổn thương, thì trăm năm vẫn mãi làm bạn với ông già đầu bạc.

* Diễn Nôm :
                         LƯƠNG SÀNG
                  
                         


                 Nhàn ngắm trăng lên hứng ngắm hoa,
                 Mệt ngã bên song đón gió qua.
                 Giữ sao cho khỏi nghiêng rồi gãy,
                 Bạn mãi trăm năm với lão già !
       Lục bát :
                 Hứng ngắm hoa, nhàn ngắm trăng,
                 Mệt thì đón gió ta nằm bên song.
                 Giữ cho chẳng gãy chẳng long,
                 Trăm năm bạn mãi cùng ông bạc đầu !
                                Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

     Hẹn bài dịch tới !
                    Góc Việt Thi : 
                                        Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (7)

                                                         杜 紹 德
                                                    Đỗ Chiêu Đức









Không có nhận xét nào: