VỊNH CÂY TRE
Cao lớn làm chi tre hỡi tre
Ruột gan không có vỏ xanh lè
Sơ sơ gió thổi khom lưng lại
Thoảng thoảng rìu qua trợn mắt ghe
Rễ mọc tùm lum ăn xấu đất
Thân ngâm nồng nặc thối tràn khe
Lập lờ mang tiếng chân quân tử
Há để thân danh lụy rứa hè
Tú Quỳ
* Tú Quỳ tên thật là Huỳnh Quỳ, hiệu Hướng Dương, sinh ngày 15.5 năm Mậu Tý (1828) tại làng Giảng Hòa, tổng Quảng Hòa, huyện Duy Xuyên (nay là xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc). Tú Quỳ xuất thân trong một gia đình có ông nội, cha và chú đều đỗ Tú tài. Thuở nhỏ Tú Quỳ theo học với cụ Tú Sáu tức cụ Tú Trần Thế Thận ở Phi Phú, Gò Nổi, Điện Bàn. Năm 19 tuổi ông thi đỗ Tú tài, sau đó thi tiếp nhưng cũng chỉ đỗ Tú tài. Ông về quê vui với việc dạy trẻ và dùng văn chương bày tỏ lòng yêu quê hương đất nước, yêu nông dân nghèo, đả kích những thói hư tật xấu của xã hội.
Ông qua đời tại quê nhà ngày 6.3 năm Bính Dần (17.5.1926), hưởng thọ 98 tuổi.
Cẩn Họa:
CẢM TƯỞNG
Cụ tú Huỳnh Quỳ lại mượn tre
Diễu quân tử ngụy sống chua lè
Dân lành khổ hải chờ trôi sóng
Bọn nhũng Thần Phù chạy sắm ghe
Thối hoắc thanh danh còn hĩnh mặt
Hôi rình rác rưởi mãi lềnh khe
Thời nay phẩm giá thua tiền bạc
Xã hội chi mô tệ quá hè !
Lý Đức Quỳnh
21/3/2023
GIẢ DANH
Cùng họ mà sao trúc khác tre ?
Đây thì quân tử, nọ chua lè
Thân non chẻ lạt đan nia thúng
Quá lứa làm kèo lợp nóc ghe
Rễ bám ăn luồn hư hại đất
Thân trôi úng nước bốc mùi khe
Lòng không tâm rỗng mơ danh vọng
Để bị đời chê tệ thế hè !!!
Kiều Mộng Hà
March21st2023
VỮNG THÂN TRE
Vườn thu dào dạt gió ru tre,
Ẽo vẹo xanh khoe sắc lóe lè.
Thân vững vẫn đưa lên chống bão,
Dáng thon luôn giúp kéo thuyền ghe.
Rễ trông xấu xí chui bùn đất,
Mình dẻo bền che chắn núi khe.
Quân tử vốn đồn vang đối trí,
Mãi không e sợ nắng khô hè.
HỒ NGUYỄN
(22-3-2023)
TỘI CÂY TRE
Mảnh mai cao ốm tội cây tre
Bão tố nắng mưa đâu sợ lè
Che mát quanh vườn mùa nắng táp
Đông về nước ngập bện làm ghe
Thanh nhân quân tử chìu lam lũ
Rách sạch đói thơm đời chẳng khe
Mọi bữa cơm rau tôn sỉ diện
Không ham vật chất xấu mang hè …
Yên Hà
22/3/2023
LŨY TRE XANH
Nhà nông cố lý lũy xanh tre
Chắc nuội gốc cây, mắt lưỡi lè
Gió thổi, mưa dầm, khom cúi trót (1)
Rìu qua, lũ quét, uốn cong ghe
Tùm lum rễ chỗi, xinh măng mụt
Nồng nặc thân ngâm thối nước khe
Mượn tiếng chính nhân quân tử dỏm
Mãng tham trục lợi háo danh hè…! (?)
MAI XUÂN THANH
March 22, 2023
(1) cúi trót : cúi đầu
Cái trót : cái đầu
“Ăn cơm cúi trót, đội nóp la làng” (nóp: cái thúng của ngư phủ)
Ăn thì cúi đầu lo ăn
Đội thúng nặng lại la to để có người giúp đỡ cho…!
VỊNH CÂY TRE
Cây lớn cao xanh dịu quặt tre,
Có lòng dạ thẳng khó thè lè.
Còng lưng đón gió không hề gãy
Cứng dạ cười mưa chẳng khắt khe.
Che chở quanh làng lo kẻ trộm,
Cản ngăn kè nước giữ thân ghe.
Còn nhiều công dụng cho đời nữa,
Cũng xứng danh thơm quân tử hè !
Liêu Xuyên
THÂN CÂY TRE
Tầm vông vạt nhọn mầy đây tre
Giặc sợ bẫy chông kéo lưỡi lè
Kháng chiến tay vun trên đất mẹ
Quê làng nhẹ gánh dưới xuồng ghe
Sườn nhà mái lá dây thừng buộc
Hữu dụng trăm điều khắp rãnh khe
Ruột rỗng không ngờ lại cứng cựa
Anh hùng ai bão chẳng tin hè...
Hải Rừng
22/3/2023
CÂY TRE
Vương mình lắm đốt rỗng tâm tre,
Mảnh khảnh vút cao vỏ lục lè.
Đưa đẩy oặt oằn khom cánh gió,
Đứng ngay thông dụng... kết mui ghe.
Lỏi luồn rễ lẻn soi mòn đất,
Thân dẽo sống dai ngại chi khe.
Cứng rắn sớ suôn chia mặt lóng,
Đời nêu quân tử đúng chăng... hè?.
Song Linh
23-03-2023
HỌ HÀNG TRE
Xưa nay làng xóm vốn cần Tre
Đồng hạn khô khan, nắng chói lè
Trưa nóng, rùng mình, chèo cạn nước
Chiều hanh, tránh nắng, khách chờ ghe
Đầu thôn, cuối bến, cây thay lọng
Đường dốc, ven sông, suối nhớ khe
Kẽo kẹt Lồ Ô hay Nứa vậy
Thưa không, xào xạc Trúc sau hè ...
Rancho Palos Verdes 23 - 3 - 2023.
CAO MỴ NHÂN
Bạn Cùng Tre
Dân mình thuở trước bạn cùng tre
Cụ Tú chơi ngang giọng chát lè
Những lúc rường, mè, nia, thúng, sõng
Bao thời trụ, cột, rổ, nong, ghe
Đằng Giang bến nọ bày thân cọc
Khắp Lũy Thầy kia chặn kín khe
Giữ đất đôi bờ, che gió bão
Công to chẳng kể nói chi hè!?
Chu Hà
Tòa Thánh Tây Ninh Tạm Cất Bằng Tre
" 1926 - 1933"
Khi Xưa Tòa Thánh cất bằng tre,
Chót vót Đài cao chiếu sáng lè.
Thân thẳng Tre già nên cứng chắc,
Dựng Lầu Chuông,Trống đẹp như khoe.
CAO ĐÀI Khai mở nên xây tạṃ.
Cắt xã thân Tre tận suối khe...
Đòn, cột, mè rui, sườn mái lợp...
Thật là vinh diệu kiếp Tre hè...
23/03/2023 - ÂL, 02/03/Quý Mão.
XỨNG DANH TRE
Sum cành vững cội tiếng bờ tre
Chằng chịt đầy gai nhọn hoắt lè
Bão giáng ì ầm nào bật gốc
Sóng nhồi tá lả hề chi ghe
Uy thần chiến lũy ghìm chân giặc
Tiếng dội hào chông giữ tuyến khe
Tố dập oằn cong nào chịu khuất
Càng đâu nỡ quỵ… xứng không hè …
Mai Vân-VTT, 30/3/23.
MÁI CHÈO TRONG SÔNG RẠCH
Ven bờ sông rạch mấy hàng tre
Xóm lá xanh xanh rực sáng lè
Lóm đóm hoa rừng che áng mặt
Lào rào sào chống cúi chèo ghe
Con đò lướt sóng đưa du khách
Chim chốc đón chào ghé bến khe
Bình bát, rong rêu, giăng tứ phía
Lái đò nghiêng nón lúc trưa hè
Trần Đông Thành
VỊNH CÂY TRE
Sức mạnh dẻo bền đã có Tre
Thân cao nào chịu thấp tè lè
Cao nguyên trai bản làm cung nỏ
Duyên hải bạn chài chế thúng ghe
Lắm kẻ ôm cần, câu cạnh suối
Nhiều người nôm cá, lội quanh khe
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Biết đến Quốc Huy* nước Việt... hè !( nè )
DUY ANH
* Tre là biểu tượng trong Quốc Huy của
nền Đệ Nhứt Cộng Hòa Việt Nam .
CÂY TRE
To hơn khóm trúc, đó bờ tre
Vẫy gió vờn trăng cũng lập lòe!
Yên phận ao làng quen nắng gắt
Hóa thân mái lá hợp mưa ghe
Măng ra tới tấp nên chèn đất
Lá rụng vô chừng tự bít khe
Chẳng khác cây hoang và cỏ dại
Thấp hèn chịu vậy, sánh chi hè?
Phan Kim Thành
3/24/23
THƯƠNG QUÁ TRE XANH
Bao bọc quanh làng có luỹ tre,
Lá xanh nhọn hoắt lưỡi thè lè.
Thăm chồng? Cho mượn làm quang gánh,
Vượt biển? Xả thân giặm chiếc ghe.
Quyết chống quân thù xâm lấn đất,
Không cho nước lũ lở bờ khe.
Cuồng phong chẳng sợ xô cho gẫy,
Ẻo lả khôn ngoan thương quá hè! (1)
Đô Quang Vinh
26-3-2023
(1) Dưới mắt của người Tây Phương, như ông Pujarniscle, một giáo sư người Pháp đã nhận định: “Đây không phải là sự cương-quyết của cây sến đứng đầu bão-táp, mà là của cây sậy hay đúng hơn của cây tre rất ẻo-lả nhưng rất cứng-rắn, mà người Việt-Nam gọi là khôn-ngoan, có lẽ bởi chưng cây tre ngã xuống mà không gẫy, điều này trước tầm mắt họ là sự khôn-ngoan tột-độ" (M. Pujarniscle, cité dans Méditation sur l’histoire du Vietnam par Phạm-Quỳnh (Franc-Asie No 59 pages 1089-1090).