Thứ Ba, 1 tháng 10, 2024

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 113 : TRẦM, TRẦN, TRẬN, TRÂU, TRẺ, TREO,TRÊN (Đỗ Chiêu Đức)

 THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 113

         TRẦM, TRẦN, TRẬN, TRÂU, TRẺ, TREO,TRÊN
                            
                                          Trầm Ngư Lạc Nhạn
            
       TRẦM NGƯ LẠC NHẠN 沉 魚 落 雁 là một thành ngữ có xuất xứ từ Tề Vật Luận của Trang Tử 《莊 子· 齊 物 論》nước Tống thời Chiến Quốc. Thành ngữ nầy dùng để hình dung những người đẹp mà khi cá thấy thì lặn sâu xuống nước và chim nhạn trông thấy thì rơi xuống bãi cát không bay nổi nữa. Sau dùng để chỉ Tây Thi 西 施, một cô gái đẹp của nước Việt, khi ra bờ khe giặt lụa, cá dưới khe thấy được cái bóng đẹp đẽ của Tây Thi ở dưới nước nên không bơi nổi nữa mà từ từ chìm xuống đáy khe. Đến đời Hán thì có người đẹp Vương Chiêu Quân 王 昭 君 được chọn để cống Hồ. Khi ra đến ải Nhạn Môn Quan 雁 門 關 các con nhạn đang bay thấy nàng đẹp quá nên không vổ cánh nổi mà cùng rơi cả xuống bãi cát. 
       Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mượn tích nầy để ví von vẻ đẹp tuyệt trần của nàng cung phi trong cung vua như sau:

                   Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
                   Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa.
                   Hương trời đắm nguyệt say hoa,
                   Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình!

      Trong tryện thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài, Tuấn Khanh kể về Cảnh Tiểu Thư con quan Tướng Quốc như sau :

                     Thấy nàng thục nữ hình dung,
              TRẦM NGƯ LẠC NHẠN tuyệt vòng trần gian.

                   
             
                     Tây Thi                           Vương Chiêu Quân

      TRẦN ĐOÀN 陳 摶(871—989)tự là Đồ Nam, hiệu là Phù Dao Tử, Bạch Vân Tiên Sinh, Hi Di Tiên Sinh 希 夷 先 生 HI là Nghe mà không biết; DI là Nhìn mà không thấy, thông hiểu Kinh Dịch và Nội Đan học được Đạo Giáo xem như thần tiên, tôn xưng là Trần Đoàn Lão Tổ, Hi Di Lão Tổ. Vua Tống Thái Tông nhiều lần cho sứ giả đến mời ra làm quan nhưng ông đều từ chối. Trần Đoàn là biểu tượng của những người tu tiên, tiêu dao tự tại, không màng đến phú qúy lợi danh.
      Trong truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, hồi thứ 8, khi Lục Vân Tiên cùng các sĩ tử trên đường đi thi ghé quán cơm, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã cho chủ quán lý luận về công danh ở đời, có nhắc đến Trần Đoàn như sau:

                  Trần Đoàn chẳng chút lo âu,
              Gió trăng một túi công hầu chiêm bao.

                    
                        Trần Đoàn qua họa ảnh và điện ảnh

      TRẬN BÚT là đảo ngữ của chữ Nho BÚT TRẬN 筆 陣 có xuất xứ từ Bút Trận Đồ 筆 陣 圖 của Vệ Phu Nhân, vốn tên là VỆ THƯỚC 衞 鑠, tự là Mậu Y 茂 漪, người đất An Ấp Hà Đông (thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay). Bà là Nhà Thư Pháp nổi tiếng đời Tấn, đã sáng chế ra Bút Trận Đồ 筆 陣 圖 gồm bảy cách vận hành bút lông để viết chữ cho đẹp. Bà lại là thầy dạy thư pháp cho Nhà Thư Pháp nổi tiếng là THƯ THÁNH 書 聖 (Ông Thánh trong Thư Pháp) đời Tấn là Vương Hi Chi 王 羲 之 nổi tiếng với Thiếp Lan Đình; Vì Bà là bà dì cô cậu với mẹ của Vương Hi Chi. Bà mất năm Vĩnh Hòa thứ 5, thọ 78 tuổi. 
      Trong bài thơ thất ngôn cổ phong "Túy Ca Hành" của Đỗ Phủ《醉 歌 行》 杜 甫 có hai câu chỉ khí thế của văn chương và ngòi bút của văn nhân nhiều khi mạnh mẽ đến có thể làm cho nước chảy cuồn cuộn ở Tam Hiệp của Trường Giang chảy ngược lại, cũng như ngòi bút của văn nhân lắm khi dũng mãnh đến có thể quét tan cả ngàn vạn quân thù:
      
詞 源 倒 流 三 峽 水,  Từ nguyên đảo lưu Tam Hiệp thủy,
筆 陣 獨 掃 千 人 軍.  BÚT TRẬN độc tảo thiên nhân quân.
Có nghĩa :
               Lời dũng mãnh đảo lưu Tam Hiệp,
               Bút kiêu hùng quét sạch ngàn quân.

     Trong bài Hát nói (ca trù) "Chí Nam Nhi" của Hi Văn Nguyễn Công Trứ có câu:

                     Đã xông pha BÚT TRẬN, 
                     thì gắng gỏi kiếm cung,
                     Làm cho rõ tu mi nam tử...

     Còn trong truyện thơ nôm khuyết danh "Lưu Nữ Tướng" thì có câu:

                     Có phen đạp tuyết tìm mai,
                 Hứng vui TRẬN BÚT, thơ bài bách thiên.
                 

                                Vệ Phu Nhân và Bút Trận Đồ 

     TRÂU LỖ 鄒 魯 : Tên hai nước thời Chiến Quốc. LỖ là quê hương của Chí Thánh  Khổng Tử; TRÂU là quê hương của Á Thánh Mạnh Tử, nên TRÂU LỖ dùng để chỉ những vùng đất hưng thịnh về văn hóa văn học, hay chỉ những người học trò học theo đạo Nho ngày xưa. Trong bài thơ "Rắn Đầu Biếng Học" của Lê Qúy Đôn theo tích sau đây:

     Tương truyền, một hôm Tiến sĩ Vũ Công Trấn tới nhà thăm bạn là Tiến sĩ Lê Trọng Thứ là người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1724. Đến đầu làng gặp mấy đứa bé đang tắm dưới sông, bèn kêu một đứa bé mặt mày sáng sủa để hỏi thăm nhà của ông Tiến sĩ Thứ. Đứa bé trần truồng leo lên bờ, đứng dang hai tay hai chân ra, hỏi: "Ông biết đây là chữ gì không, nói đúng thì tôi sẽ chỉ đường cho". Thấy thằng bé lí lắc thông minh ngộ nghĩnh, ông mới cười đáp: "Đó là chữ ĐẠI 大, ai mà không biết!" Thằng bé ranh mãnh chỉ tay xuống háng đáp: "Ông nói sai rồi. Đây là chữ THÁI 太!" Nói xong cười ngất, bỏ chạy về nhà. Khi tới nhà bạn mới biết thằng bé khi nảy là Lê Quý Đôn, con của bạn. Nghe kể lại, Lê Trọng Thứ mới gọi con ra trách mắng và đòi đánh đòn. Vũ Công Trấn thấy ông thông minh nên đã xin tha cho ông với điều kiện phải ứng khẩu đọc một bài thơ tạ tội. Ông xin ra đầu đề. Ông Trấn nói: "Phụ thân cậu đã bảo cậu “rắn đầu biếng học”, cậu cứ lấy đó mà làm đề bài". Lê Qúy Đôn ngẫm nghĩ một chốc rồi đọc bài thơ sau đây :

                   Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!
                   Rắn đầu biếng học chẳng ai tha.
                   Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ,
                   Nay thét, mai gầm, rát cổ cha.
                   Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
                   Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
                   Từ nay TRÂU, LỖ xin siêng học,
                   Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!

      Đề bài là do ông Vũ Công Trấn ra, ý nói cậu bé cứng đầu, lười học. Vậy mà Lê Quý Đôn đã rất tài tình sử dụng từ “rắn” để ghép vào trong nội dung các câu thơ của mình; như rắn liu điu, rắn đầu, rắn hổ lửa, rắn mai gầm, rắn ráo, rắn thằn lằn, rắn hổ trâu, rắn hổ mang và lại tự ví mình như là Khổng Tử và Mạnh Tử (từ nay Trâu Lỗ xin siêng học), làm cho ông Trấn hết sức thán phục.
                  
                                  Rắn đầu Biếng học
        
     TRẺ TẠO HÓA chữ Nho là HÓA NHI, là CON TẠO. TẠO HÓA 造 化 là Sáng tạo và diễn hóa, là tạo ra, là làm nên theo diễn biến của tự nhiên. Nói cho dễ hiểu: là đấng thiên nhiên (là Ông Trời) tạo ra vũ trụ, vạn vật và muôn loài kể cả con người. Nhưng trong qúa trình của cuộc sống, người ta hay gặp những điều trắc trở, bất đắc ý, nên thường oán trách là "Tạo Hóa Trêu Ngươi","Con Tạo Lá Lay". Rồi đâm ra khinh bạc mà gọi cái "Đấng Tự Nhiên" tạo ra mình là TRẺ, là CON, là NHI...  Như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã cho nàng cung phi buông lời oán trách:

                     TRẺ TẠO HÓA đành hanh quá ngán,
                     Chết đuối người trên cạn mà chơi...

      Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thì cho Thúy Kiều oán trách khi bị Sở Khanh lừa gạt và bị Tú Bà đuổi theo bắt lại:

                     HÓA NHI thật có nở lòng,
                  Làm cho dày tía vò hồng lắm nao.
                     Một đoàn đổ đến trước sau,
                 Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời...
                
               
                          HÓA NHI thật có nở lòng,
      Theo chương Nội Tắc trong sách Lễ Ký 《禮 記.內 則》có câu: "Tử sinh. Nam tử thiết hồ vu môn tả, Nữ tử thiết thuế vu môn hữu". Có nghĩa: "Con được sinh ra; nếu là con trai thì treo cây cung ở bên trái cửa ra vào; nếu là con gái thì thì treo cái khăn tay ở bên phải cửa ra vào", nên...
      Sanh con trai gọi là TREO CUNG như trong truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính, tả về gia thế của Mãng Ông, cha của Thị Kính, có câu: 

                        Lũng Tài quận ấy không xa,
                  Hồ Nam huyện Bắc, có nhà Mãng Ông. 
                         Gia tư thời cũng bậc trung,
                 Chỉn hiềm trước cửa TREO CUNG còn chầy.
       
      "TREO CUNG còn chầy" là chưa có con trai. Đến khi sinh được Thị Kính là gái thì viết là:

                        Vết Kim Tiễn kể thiêng thay,
               Báo thai mộng nguyệt, mãn ngày TREO KHĂN.
                        Tuy chưa phải đấng thạch lân,
               Khấn cầu cũng bỏ người thân muộn màng.
                         Đặt cho Thị Kính tên nàng,
                Đượm nhuần sắc nước, dịu dàng nét hoa.

             

      TRÊN BỘC TRONG DÂU chữ Nho là TANG TRUNG BỘC THƯỢNG 桑 中 濮 上. Theo sách Lễ Ký 禮 記, chỉ các trai gái của nước Vệ thời Chiến Quốc thường hò hẹn nhau đến rừng dâu trên sông Bộc để hát hò rồi xảy ra chuyện dâm loạn với nhau, nên "Trên Bộc Trong Dâu" dùng để chỉ sự quan hệ bất chính giữa trai và gái.
      Khi Kim Kiều gặp gỡ trong đêm hẹn ước với nhau và khi "Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi" thì Thúy Kiều đã "xì-tốp" chàng Kim Trọng lại bằng câu:

                ... Ra tuồng TRÊN BỘC TRONG DÂU,
                    Thì con người ấy ai cầu mà chi.
                         Phải điều ăn xổi ở thì,
                 Tiết trăm năm nở bỏ đi một ngày?!...

      Còn trong truyện "Trinh Thử" thì nói gọn lại thành TANG BỘC như lời của nàng  Chuột Bạch:
 
                     Ví đem TANG BỘC thói thường,
                  Xưa nay dạ sắt gan vàng như không...
            

    TRÊN BỘC TRONG DÂU là TANG TRUNG BỘC THƯỢNG 桑 中 濮 上  
                  
      Hẹn bài viết tới !

                                                     杜 紹 德
                                                 Đỗ Chiêu Đức











Không có nhận xét nào: