Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

Đời Thủy Thủ III (Vũ Thất) -- CHƯƠNG 21: TIỀN ĐỒN BIỂN TÂY NAM

 

Đời Thủy Thủ III (Vũ Thất)

CHƯƠNG 21: TIỀN ĐỒN BIỂN TÂY NAM

– Tôi tên Lan Như. Còn anh?
– Thủy thủ Hoàng Lâm.
Hai người men theo hành lang hẹp, rồi leo lên một chiếc thang sắt dựng đứng mười bậc dẫn lên boong trên. Gió mạnh hơn. Phía trước và phía sau sân thượng mỗi nơi một khẩu đại bác 40 ly nằm im như hai vị thần canh phòng. Lại bước lên một cầu thang nghiêng mười bậc nữa để vào đài chỉ huy sáng sủa, khoảng khoát.
Bảy người hiện diện: Hạm Trưởng đứng bên cánh phải cùng Cố Vấn; cánh trái là sĩ quan và hạ sĩ quan trực phiên; giữa đài chỉ huy, một thủy thủ ngồi trên ghế cao nắm chặt bánh lái; hai bên anh là quan sát viên và điện thoại viên. Lan Như đứng canh trụ la bàn thích thú mở tầm mắt lên biển mênh mông, rải rác hàng trăm ghe đánh cá im lìm phơi nắng.
Rạch Gầm đã giảm tốc độ, len lỏi theo khoảng trống giữa các dãy phao đen đánh dấu lưới cá. Sĩ quan trực phiên liên tục ra lệnh chuyển hướng trong khi vẫn quan sát tìm ngư thuyền có danh bộ lạ, những ngư thuyền không mang số mã các tỉnh miền Nam như KG tức Kiên Giang hoặc AX tức An Xuyên theo sau một dãy số. Bọn xâm nhập có thể giả danh bộ nhưng hình dáng tàu thì vẫn khác biệt.

Thấy Lan Như, Võ Bằng bước lại gần, giọng dịu êm:
– Đài chỉ huy Rạch Gầm hân hạnh tiếp đón phóng viên Lan Như. Thật hân hạnh.
Lan Như thoáng ngạc nhiên vì thái độ thân tình đột ngột. Nàng đáp bằng giọng giữ khoảng cách:
– Thưa anh. Tôi mới là người được hân hạnh.
Võ Bằng thân mật tiếp:
– Để khỏi mích lòng nhau, tôi lưu ý cô vài điểm. Thứ nhất, cô được phép tìm hiểu bất cứ nơi nào – lộ thiên hay trong lòng tàu – ngoại trừ những nơi có bảng “Khu vực giới hạn”. Thứ hai, khi sóng to hoặc về đêm, cô không nên đi một mình bên ngoài. Khi thật cần thiết, hãy gặp Hạm Phó để cử người tháp tùng. Chúng tôi chỉ muốn phòng ngừa tai nạn trơn trợt, rơi xuống biển.

Anh đổi giọng chậm lại, như để nhấn mạnh:
– Điều nữa, dành cho phóng viên: quần đảo Thổ Châu là nơi tụ họp hàng trăm loại phiêu sinh vật nên tập trung nhiều loại hải sản kéo theo đủ loại ngư thuyền. Đây cũng là khu vực… đấu võ tự do. Luật hàng hải có, nhưng phân định ranh giới thì không nước nào chịu nhượng nhau. Cứ thế mà tranh giành.
Anh nhìn mặt biển thẫm xanh:
– Bởi đông khách vãng lai nên khách Bắc Cộng dễ trà trộn. Chúng đợi lúc ta sơ hở, liền phóng vào bờ, rồi rút lui thần tốc.
Quay sang nàng, anh bất ngờ hỏi:
– Cô mong đụng trận chứ?
Lan Như trầm ngâm. Anh chàng hỏi gì mà kỳ cục! Ai lại ước mong đụng trận! Ai lại mong thấy máu me và xác người. Nhưng nghề nghiệp là nghề nghiệp. Nàng đáp nhỏ:
– Ước mong thì không nhưng đó lại là lý do tôi xuống tàu này. Một phóng viên chiến trường phải chứng kiến và tường thuật trung thực, dù sự thật nghiệt ngã đến đâu.
– Hải quân trong sông đã đưa cô đến những chiến trường nào rồi?
– Hố Lương, sông Hàm Luông, Măng Thít.
– Chúng tôi thường công tác xa bờ nên hiếm khi được đọc báo. Sắp tới đây, chắc phải nhờ cô gửi bài báo đến địa chỉ KBC.
– Rất sẵn sàng.
– Hôm qua không tuần phát hiện hai ngư thuyền khả nghi tiến vào vịnh Thái Lan. Có thể chúng hướng về Thổ Châu. Hy vọng có diễn biến đáng tường thuật.
– Trong khi chờ đợi, tôi xin cám ơn về áo giáp và áo lạnh.
– Ở biển, cuối thu lạnh hơn Sài Gòn.

Lan Như thấy đến lúc vào thẳng nghề nghiệp:
– Thưa anh, tôi được phép tiếp xúc những ai để hiểu về chiến hạm?
Võ Bằng mỉm cười:
– Bất cứ ai.
– Còn chụp ảnh?
– Bất cứ nơi nào, trừ khu vực hạn chế.
– Còn với thủy thủ đoàn?
– Cô cần xin phép từng người.
Nàng nâng máy ảnh:
– Vậy trước tiên, xin phép… Hạm Trưởng.
Tiếng cười rộn lên khắp đài chỉ huy. Võ Bằng hài lòng với giọng miền Nam êm ngọt, khuôn mặt tươi vui và phong thái tự nhiên, năng động. Anh gật đầu, cợt đùa:
– Được. Nhưng nhớ chỉnh sửa cho tôi đẹp trai được chút nào hay chút nấy.
– Không cần đâu. Bộ mặt phong sương hiện tại là đủ… ăn tiền rồi!

Mọi người lại cùng cười rộ. Võ Bằng chỉ tay chếch phải hướng mũi tàu:
– Cô Lan Như! Đảo Thổ Châu trước mặt.
Nàng nâng máy lên mắt, bấm hai hình. Con rùa khổng lồ nằm trên tấm thảm xanh miên man đến tận chân trời. Mai rùa là những khối đá tảng cẩm thạch trắng ngà. Võ Bằng xem hải đồ rồi giải thích:
– Quần đảo Thổ Châu có chín đảo. Chúng ta đã qua một số đảo mà vì thấp nên không thấy. Đó là các Hòn Đá Bàn, Hòn Đá Bắc, Hòn Đá Nam. Đảo Thổ Châu, lớn nhất, cao nhất, nên thấy từ xa. Gần đó là Hòn Cao và Hòn Từ. Tiếp đến là Hòn Kiến, Hòn Xanh, Hòn Nhạn.
Lan Như ghi chép nhanh. Thổ Châu: hải đăng sừng sững như hỏa tiễn trên giàn phóng. Hòn Cao: dải cát trắng như lưỡi liềm. Hòn Từ: đen, rêu phủ mượt mà. Nàng nói:
– Đẹp quá, thưa anh.
Võ Bằng gật đầu:
– Ngoài vẻ đẹp hình thức, quần đảo còn nét đẹp tâm hồn. Đó là điểm cuối cùng của lãnh hải Việt Nam.
Lan Như reo lên:
– A, tôi có tựa cho bài phóng sự rồi: “Thổ Châu, tiền đồn giữa biển Tây Nam”.
– Tựa có hồn lắm.
Nàng hỏi về lai lịch các đảo. Võ Bằng lắc đầu:
– Ngày mai chúng ta đổ bộ, cô tha hồ hỏi người già thổ địa. Tôi chỉ biết quần đảo là một xã thuộc đặc khu Phú Quốc, dân khoảng hai trăm. Một trung đội biệt hải bảo vệ an ninh.
Lan Như hỏi về tổ chức chiến hạm, về sinh hoạt, hành quân, kỹ thuật, nghề nghiệp…

Mãi một giờ sau, Rạch Gầm bắt gặp một ngư thuyền lạ, kiểu tàu và kiểu sơn đều khác. Võ Bằng truyền lệnh khám xét.
Khẩu đại liên trên đài chỉ huy sẵn sàng. Toán khám xét bốn người mang M16, Hạm Phó mang Colt 45. Lan Như nhảy theo qua ngư thuyền. Nàng bịt mũi khi mùi cá tanh tưởi xộc vào.
Giấy tờ cho thấy đây là tàu Thái Lan. Hạm Phó dùng Anh ngữ đơn giản giải thích họ đã vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Họ lắc đầu cố cãi. Nhân viên báo cáo chỉ thấy hải sản, không thấy hàng bất hợp pháp. Hạm Phó xin lệnh. Võ Bằng cho lệnh đuổi khỏi vùng kèm cảnh cáo.
Hai tiếng sau, thêm ba ngư thuyền mang danh bộ lạ xuất hiện. Một của Cam Bốt, hai của Mã Lai. Một chủ tàu Mã Lai cưỡng lệnh trục xuất, nhất quyết đây là vùng biển tự do. Giọng ông ta cứng, mắt đỏ ngầu. Rạch Gầm báo cáo Vùng 4. Một duyên tốc đỉnh được điều đến kéo ngư thuyền về An Thới.

Sau khi bàn giao, Võ Bằng cho chiến hạm hướng về mũi Cà Mau, tuần phòng trục Thổ Châu – Hòn Khoai. Máy giảm xuống 6 gút, chậm như dạo chơi mà người thì đều căng mắt quan sát, người thì chú tâm thi hành phần việc giao phó. Sĩ quan hải hành đo gió, tính độ giạt, tránh ghe, xét ghe…
Võ Bằng ghi nhật ký hải hành rồi chỉ thị Hạm Phó liên lạc mời các đơn vị trưởng dự buổi họp với Hạm Trưởng trên đảo Thổ Châu sáng mai lúc 10 giờ.
Lan Như có thời gian nhìn Võ Bằng kỹ hơn. Dù không cao bằng cố vấn nhưng tầm vóc gọn gàng, cử chỉ chững chạc khiến anh trông uy nghiêm. Tóc húi cua, cháy nắng. Đôi mắt đen sâu, dưới hàng mi rậm. Gương mặt khắc khổ nhưng đôi môi như lúc nào cũng mỉm cười, làm giảm đi nét xương xẩu. Ánh mắt lúc trầm ngâm thì lạnh lùng, lúc trò chuyện lại tinh nghịch. Và nàng thấy lòng thêm chút cảm tình.

***

Bữa cơm tối đầm ấm. Lan Như vui vẻ trả lời mọi câu hỏi của các sĩ quan. Nàng 26 tuổi. Tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa. Bốn năm làm phóng viên. Chưa có gia đình và cũng chưa nghĩ đến.
Cứ mỗi khi Lan Như trả lời là anh nghiêng mặt ngắm nàng. Vóc dáng không phải kiểu đẹp lộng lẫy nhưng khuôn mặt thanh tú với đôi mắt sáng toát lên vẻ thông minh và cương nghị. Cách nói chuyện có duyên, thẳng thắn, chuyên nghiệp, từng trải. Trong cuộc tuần phòng đơn độc giữa biển khơi, có được một người đồng hành như nàng thì coi như… trời ưu ái!

Trong lúc ăn tráng miệng và uống cà phê, Võ Bằng thân ái hỏi:
– Cô từng tháp tùng hành quân với nhiều đơn vị bộ binh, vậy khác với ngoài biển ra sao?
– Hoàn toàn khác lạ. Không gian lạ, nếp sống lạ. Bộ binh thì bụi đời, vất vả; hải quân thì lúc nào cũng tươm tất, nhàn hạ.
Cả bàn bật cười. Võ Bằng đấm nhẹ lên bàn, phản đối:
– Cô đưa nhận xét đó vào bài viết là thiếu công bằng. Như cô thấy đó, khi tàu rời bến, mọi người cũng đều vất vả, bụi đời.
Lan Như mỉm cười:
– Đồng ý mọi người vất vả nhưng ngoài biển… không có bụi.
Tiếng cười lại rộ lên. Võ Bằng lắc đầu:
– Tôi sợ lối ngụy biện của cô. Còn nhận xét nào… ác độc nữa không?

Lan Như cười tươi:
– Bây giờ thì vào chính đề. Thưa anh, cho biết tổng quát về lực lượng Hải Quân.
Võ Bằng nhìn quanh:
– Ai đáp lời cô Lan Như?
Thiếu úy Bùi Anh Tuấn ngồi cuối bàn:
– Theo tôi còn nhớ, năm 1955, Pháp bàn giao lực lượng Hải Quân cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Lúc đó có 4 ngàn người và 200 tàu đủ loại. Hiện tại đã tăng lên 15 ngàn người và 900 tàu. Mười bốn năm, hải lực tăng khoảng bốn lần.
Thiếu úy Đỗ Văn Lũy giơ tay:
– Tôi từng phục vụ khối quân huấn nên có biết việc tăng trưởng của Hải Quân. Dự phóng từ nay đến ba năm tới, Hoa Kỳ sẽ lần lượt chuyển giao tất cả chiến hạm, chiến đỉnh và các căn cứ của họ đang tham chiến cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Do đó Khối Quân Huấn phải đào tạo 27 ngàn thủy thủ. Các sĩ quan tương lai thì theo học ở ba trường Thủ Đức, Sinh viên Sĩ quan, và OCS ở Mỹ. Các hạ sĩ quan và thủy thủ thì có Trung tâm Huấn Luyện Nha Trang, Cam Ranh và ACTOV.
Lan Như hỏi:
– OCS và ACTOV là gì?
Thiếu úy Lũy:
– Xin lỗi quen miệng. OCS là viết tắt của chữ Officer Candidate School. Còn ACTOV là Accelerated Turn Over, chương trình chuyển giao cấp tốc đơn vị Hoa Kỳ cho Việt Nam. Chương trình này đã khởi sự thực hiện từ đầu năm nay.
– Xin cho biết về chiến thuật, chiến lược của Hải Quân.
Võ Bằng đáp gọn:
– Trả lời đầy đủ thì dài dòng. Tóm tắt là thế này. Về chiến lược: bảo vệ biển đảo, kiểm soát sông ngòi. Phối hợp liên quân. Về chiến thuật: tuần tiễu, chận xét, truy kích, tiêu diệt. Mỗi chủ đề có những chi tiết thực hành. Thí dụ về tuần tiễu: xác định loại mục tiêu, tốc độ, hướng đi. Giữ khoảng cách một hải lý. Tiếp cận chéo góc tránh bị tấn công bất ngờ. Dùng 76 ly bắn đài chỉ huy địch, 40 ly kép quét triệt tiêu hỏa lực.
– Tại sao không bắn chìm?
– Đó là giải pháp cuối. Bắt sống trọn tàu có lợi hơn.

Lan Như nhìn quanh bàn, nhỏ nhẹ nói:
– Thưa quý anh, tháng rồi tôi có tham dự lễ khánh thành tượng Đức Thánh Trần ở công trường Mê Linh bến Bạch Đằng. Hôm đó tôi có thắc mắc nhưng nhiều việc nên quên. Xin cho biết hình ảnh Ngài chỉ tay xuống dòng sông mang ý nghĩa gì?
Võ Bằng hỏi:
– Ai trả lời câu hỏi này?
Trung úy Bùi Anh Tuấn đáp nhanh:
– Năm 1285, khi vua Trần Thánh Tông muốn hàng trước thế giặc mạnh, Đức Trần Hưng Đạo khẳng khái nói: “Bệ hạ chém đầu thần rồi hãy hàng”. Ba năm sau, quân Nguyên lại xâm lược. Lúc khởi binh đánh trận Bạch Đằng, Ngài chỉ tay xuống dòng sông Hóa thốt lời thề khẳng khái: “Không thắng giặc, thề không trở lại bến sông này.”
Lan Như lặng đi. Tiếng máy tàu mà nàng tưởng như tiếng sóng đang gầm đâu đó, vọng về từ Bạch Đằng xa xưa. Nàng hỏi:
– Có phải Hải Quân tôn Ngài làm Thánh Tổ vì ba chiến thắng lớn?
– Đúng. Đó là ba trận Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng. Nhưng hơn thế nữa: Ngài rất hiểu biển, hiểu dân, hiểu sức mạnh đoàn kết.
– Vua nào sắc phong Ngài là Thánh?
– Không có vua nào sắc phong hết. Toàn dân tin Ngài là linh tướng trấn giữ đất nước, độ dân bình an. Tỉnh nào cũng lập ít nhất một bàn thờ thờ Ngài.

Lan Như trầm tư một lúc rồi thở dài:
– Ngày xưa học sử, tôi học như con vẹt. Không thấy ý nghĩa sâu xa! Cám ơn các anh.
Võ Bằng mỉm cười, giọng trầm ấm:
– Còn sâu xa hơn, Đức Thánh Trần không chỉ là một tướng giỏi, mà còn là nhà tư tưởng.
Lan Như ngac nhiên:
– Nhà tư tưởng?
– Cô chưa đọc “Hịch Tướng Sĩ” và “Binh Thư Yếu Lược”?
– Tôi chỉ học “Hịch Tướng Sĩ”.
– Đó là một thiếu sót lớn với một phóng viên.
Lan Như mím môi, nhăn mặt:
– Quyển ấy quá xưa rồi, giờ còn ích gì?
– Ngược lại, đó là một binh pháp cho mọi thời đại. Chiến trường đâu chỉ là súng đạn…
– Xin anh nói rõ …
Võ Bằng đứng lên, dáng mạnh mẽ:
– Bữa cơm đã lâu, trời cũng đã tối. Tôi phải lên đài chỉ huy. Trưa mai tiếp tục…

Anh lững thững ra cửa. Đang háo hức muốn biết mà Võ Bằng tỉnh bơ bỏ đi, Lan Như ấm ức nhìn theo. Nàng lẩm bẩm: “Được rồi! Anh làm khó tôi. Ngày mai sẽ biết tay!”

Vũ Thất

(Còn tiếp)








Không có nhận xét nào: