Để nhớ những người có thật trong bối cảnh tự dựng của
câu chuyện
Trời
bất chợt mưa, phơn phớt, lất phất nhẹ, làm dáng trên tóc trên vai người qua
lại trên đường, từ phía bên kia sông, miệt Thủ Thiêm, nhạt từng sợi, nắng ngập
ngừng len lén xuyên màn nước mờ đục màu bụi lùa ngược lên, lẻ loi ở cuối góc phố. Trường vừa qua ngang nhà ga xe lửa, đành đội mưa đi
cho thật lẹ, để kịp chuyến xe đò sớm về Tây Ninh, sau hai ngày xuống Sài Gòn,
thân quê mùa, ăn nhờ ở đậu tại nhà một người quen xa, để lảnh chứng chỉ tú tài
một ở Nha Khảo Thí, tới ngã rẽ đầu đường Phạm Hồng Thái thì xe đã qua khỏi bồn binh Lê Văn Duyệt rồi, mưa cũng vẫn
mưa, như nãy giờ, nhưng lại nặng hột hơn, đành chờ chuyến sau.
Khách chờ xe đứng ngồi, trốn mưa đông nghẹt
trong dãy quán dọc theo bến, xúm xít ồn ào. Nhìn qua nhìn lại, không còn chỗ trống,
thấy phía bên kia đường, mái hiên trước căn nhà cửa sắt đóng kín của ai đó,
không người, Trường nhanh chân băng qua, chưa kịp đứng nép sát vào, thì từ hướng mấy cái
quán ăn, cô con gái tóc dài ngang nửa lưng, quần tây, áo thun vàng nhạt cũng vừa
tới, chiếc xách tay nhỏ ôm trước ngực, trông là dân thành thị, Trường đứng lùi qua một
bên cho rộng chỗ hơn, gật đầu nhìn mưa rồi nhìn cô ta chào, đưa tay vuốt hờ mấy
giọt nước thưa đọng đâu đó trên tóc, cô khẻ cười, cái cười đẹp thật đẹp, bẽn lẽn
cám ơn, hỏi nhau mới biết cô nàng cũng chờ xe về Tây Ninh.
Làm quen, ngồi bên nhau trên xe, hỏi thăm
qua lại chuyện trường học, đất trời mưa nắng chuyện trên phố dưới sông, từ giã
nhau khi xe ngừng ở bến Gò Dầu. Bảo Nghi xuống ngay đầu ngã ba phố, cả hai chào
nhưng không hẹn lần nào gặp lại. Xe rời bến, Trường tiếc rẽ nhìn theo, bóng cô
nàng nhỏ dần cuối đường, tóc bay ngược thả dài theo chiều gió sông lên. Nắng sắp
chiều, vắt lững lơ trên đầu hàng cây phượng già không còn hoa, lưa thưa xác phượng
cuối mùa tím bầm một màu trên đầu dốc chợ.
Cũng
sắp giữa trưa, mùng hai Tết, sẵn mượn được chiếc xe Honda của người nhà bên
cạnh, Trường xuống Gò Dầu tìm Quốc, thằng bạn chơi thân cùng lớp của mấy năm đầu
trường tỉnh, trước khi về lại Gò Dầu lúc trường quận mới có thêm mấy lớp đệ nhị
cấp, nhà ở phía dưới cuối chợ, ven sông, ngay góc ngã ba, mà cũng lâu lắm hai
người không gặp. Chợ đông nghẹt, người chợ kẻ quê, áo quần thơm mùi vải mới, xe
lam xe lôi trên đường, ghe lớn ghe nhỏ dưới bến, ồn ào rộn rã tiếng nói tiếng
cười, tiếng lân tiếng pháo, góc này cả chục sòng bầu cua cá cọp hò hét, góc kia
lanh lảnh tiếng kêu lô tô số năm số mười, hai bên phố cửa tiệm im lìm nhưng đường
trên ngõ dưới người đông hơn cả buổi nhóm chợ. Bỏ xe ở nhà Quốc, Trường vòng vòng cho
biết sự tình, thử thời vận con cá trái bầu tìm hên năm mới nhất là mùa thi định
mạng cũng ngấp nghé đâu đó, đầu trên xóm dưới thấy cũng đủ, hai người tới ngồi
ngoài lề cái quán cà phê đầu dốc chợ, ngó qua trường tiểu học, nhìn thiên hạ lại
qua trên đường, hỏi nhau chuyện ngày mai, nhớ lại ngày tháng cũ.
Bên kia, hai cô gái cười nói băng qua đường,
chiếc xe lôi máy chở đầy người ì ạch lên dốc, bóp kèn chỉ chỏ, Quốc đứng bật dậy
gọi “Bảo Nghi” rồi đi ra. Trường ngồi
bất động. Quốc quày trở vô, hai cô chậm bước theo sau. Bảo Nghi nhìn Trường. Quốc
chưa kịp nói gì thì hai người cùng buột miệng “Bảo Nghi, anh Trường”. Ngồi xuống, Quốc và cô bạn gái đi chung chờ,
hai người kể cho nghe chuyện quen nhau hôm trời mưa chờ chuyến xe về Gò Dầu ngày đó. Trời ướm chút nắng chiều sớm, từng vạt lơ lững vắt ngang bên kia sông,
chợ quận vẫn cứ người và người, tay bắt tay chào chúc nhau nhiều may hơn rũi. Bảo
Nghi cùng cô bạn bỏ đi trước, lần này nói khẻ với Trường “hẹn có ngày gặp lại”, bất chợt đời bổng vui, Trường cười một mình
nhìn theo, Quốc gục gặc đầu nói thầm “thôi
rồi thằng bạn mình đang muốn chết trong lòng một ít đây”.
Trở lại nhà Quốc, chia tay, hai người đứng
nấn ná nói thêm nói bớt vài chuyện, Quốc chỉ qua căn nhà gạch khá lớn có lầu,
có hàng rào bông giấy đỏ bao quanh và cái sân trước trải sỏi trắng, cách nhà
anh ta chừng bốn năm căn, cũng ngó mặt ra sông, cho biết là nhà của Bảo Nghi. Ba của cô, bác Đạm, hiện là Dân biểu Quốc Hội đơn vị Hiếu Thiện. Anh trai lớn đang
là sĩ quan huấn luyện viên ở trường Võ Bị Đà Lạt. Bảo Nghi năm nay học đệ nhị
cũng là năm thi, nghe nói có nhà nữa đâu đó dưới Sài Gòn. Về tới Trà Võ rồi mà
lòng Trường cứ ray cứ rứt, tưởng chừng như đã bỏ quên cái gì đó cần phải tìm lại
ở lại Gò Dầu.
Lớp học, sân trường, con sông chia đôi bờ,
bên này bên kia, nắng sớm mưa muộn, phố chợ Tây Ninh thôi còn là cái mến cái
thương của những ngày tháng cũ, những ngày mới chập chững, ngập ngừng năm đầu
trung học, làm quen chốn lạ. Giờ ngồi bên bàn học, sách vở mở hờ, ra vào thẩn
thờ cứ nhung nhung nhớ nhớ, nhớ buổi sáng trời mưa ở bến xe dưới Sài Gòn, nhớ góc
đường quen đầu dốc chợ Gò Dầu ngày đó, bạn bè cùng ở trọ trong khu ký túc xá
nhìn nhau, “thằng Trường, anh Trường giờ
thấy là lạ”. Chính Trường cũng thấy mình là lạ, cứ nhớ Gò Dầu và chớm biết
thương một người, thương da diết.
Bốn
người, ngồi quanh cái bàn nhỏ ngoài
hiên quán cơm cuối dãy phố, ngó qua đường vào trường trung học quận. Sáng thứ bảy
giữa trưa trời có chút mù mờ bên kia sông, không mưa nhưng chưa chịu nắng. Coi
vậy mà Quốc cũng làm được việc, hôm từ giã nhau
mùng hai tết ở nhà Quốc, Trường có nhờ anh ta “nói ra nói vô” hẹn hò sao đó, để mình có dịp gặp lại cô nàng, tại
sao thì Quốc đã biết rồi. Cô bạn gái của Bảo Nghi nói nhiều nhưng có duyên,
cũng đã “đánh hơi” được nỗi lòng ai
đó cho nên “bóng gió” nửa lời, thỉnh
thoảng nhìn qua Quốc “thêm mắm thêm muối”. Bảo Nghi ngồi nhìn cười mỉm mà “không
thêm không bớt” lời nào. Hỏi nhau hết chuyện xa chuyện gần, rồi chuyện mình
chuyện người, cũng chưa hết chuyện, bất chợt loáng thoáng vài vạt mưa nhẹ lấm tấm
như sương hờ hững về ngang từ phía dưới sông không lâu rồi ngưng. Có tiếng người
lơ xe chuyến cuối về Tây Ninh gọi khách ngoài bến, ba người đưa Trường đi, đứng
đó không ai nói gì, nhìn theo xe từ từ ra khỏi ngã ba, buồn tênh buồn man mác.
Chừng ngần
ấy thôi, Trường ôm ấp chút tình thương thầm đầu đời
mới có riêng mình mà chưa biết khi nào mới dám thật sự nói ra, có những đêm ngồi
học bổng chợt buồn đâu đó thoáng qua, làm ngưng ngay nỗi nhớ. Nghĩ lại mình,
nhà nghèo vách đất mái tôn, nằm nép mình ngay ngả rẻ đầu ấp dưới chợ xã Trà Võ,
con đường đất làng đi xuống cái bến cũ bỏ hoang, không đò bên này bờ sông Vàm Cỏ
Đông, ngó qua bên kia Bời Lời, ba mẹ Trường làm công nhân ở nhà máy xay lúa giữa
dãy nhà dọc theo tỉnh lộ, chú hai Trứ. Ba Trường, bỏ học từ năm lớp ba lớp tư,
trôi giạt từ miệt Dầu Tiếng Khiêm Hanh về đây, làm công việc canh giữ cho máy
chạy. Mẹ Trường, thiếm hai Bông, phụ giao bao bố chỉ may cho người đem lúa tới
xay và quét dọn góc này góc kia. Từ ngày còn học trường làng, hễ tới mùa trái rụng,
mấy ngày nhà máy đóng cửa trong tuần, Trường tay mang cái bao bố cát xanh, theo
cha mẹ vào rừng lượm hột cao su đong bán cho ông ba Thức, chủ tiệm tạp hóa đầu
phố, thu mua gom lại chất thành đống rồi
chở đi đâu đó. Cũng như người dân nghèo trong xã, Trường vẫn đi lượm hột cao su
cho tới những năm học đệ tứ. đệ tam trong ba tháng nghỉ hè. Lên lớp đệ nhị chú hai Trứ
không cho Trường làm nữa, dặn dò con phải ráng học thi. Ở trên tỉnh tuy bài vở
nhiều nhưng thứ Bảy, Chủ Nhật nào không về nhà, Trường đi làm phụ bán hàng cho một
tiệm bán quần áo, giày dép trong nhà lồng chợ, nên cũng có chút tiền dư cho giấy
mực bút sách. Gọi là nghèo, tuy nhiên cũng tạm đủ ăn đủ sống, dành dụm chắt
chiu, khá hơn nữa thì chắc không được rồi. Nghĩ về người, không phải nói thêm,
nhìn căn nhà gạch khang trang hoa lá, rào kín cổng khép và theo những gì Quốc
cho biết thì, Trường không dám nghĩ xa hơn.
Xế
trưa sau bữa ăn ngoài cái tiệm cơm lớn, cuối dốc chợ, ngó qua văn phòng quận,
mừng thi đậu, người Tú Tài một, kẻ Tú Tài hai rộn ràng mừng vui. Bảo Nghi vẫn vậy,
ít nói cười nhiều, Quốc thì cũng “thêm
hành thêm tỏi” cho chuyện anh chuyện em “có chút mặn mòi” như thường lệ. Theo lời mời, cả bọn năm sáu đứa
kéo nhau về lại nhà Bảo Nghi. Đám con gái vào nhà cười nói vang rân lâu rồi, vì
Trường nấn ná ngài ngại nên Quốc cũng lẩn quẩn bên ngoài, làm bộ chỉ chỏ đò
ngang đò dọc dưới bến chợ. Bác sáu gái, mẹ Bảo Nghi, niềm nở bước ra cửa gọi
vào, Quốc dạ một tiếng lớn rồi đẩy Trường đi trước. Bà hỏi han chuyện này chuyện
kia, Trường cứ “một dạ một thưa” chưa
trọn tiếng. Ở nhà sau, tiếng đám con gái nói cười vẫn còn nghe rõ mồn một. Ra về,
Quốc đưa Trường lên bến xe, Bảo Nghi cùng đám bạn đứng ngoài cổng nhìn theo. Ở một phía trời bên kia, nắng chợt buông mình tắt sớm, chiều lấp lững qua sông trải
một màu vàng nhạt. Cuối dãy phố Trường quay nhìn lại, Bảo Nghi vẫn còn đứng đó
một mình. Chuyến xe lam chiều về Trà Võ buồn hắt buồn hiu, Trường vẫn chưa dám
nói ra những gì mình muốn nói.
Âm ỉ và dai dẳng từ mấy năm qua, chiến
tranh giờ bộc phát dữ dội và đôi lúc ác liệt nhiều nơi hơn trước, tiếng súng tiếng
bom, tiếng người khóc, tiếng kèn tiễn hồn người lính chết trận nghe quen dần
đâu đó đường trên ngõ dưới, cuối ấp đầu làng. Đám bạn bè quen lạ cùng lứa cùng
lớp, có đứa không may ghế trường thi, đã vào lính, khoác áo trận miệt mài rừng
sâu núi cao sông rộng. Lên đại học, Trường vào trường kỹ thuật Phú Thọ, học ban
cán sự công chánh hai năm, ngắn hơn, thay vì bốn năm như bên kỹ sư, đở phải lo
tiền ăn tiền mặc, mau có công ăn việc làm sớm đở cho gia đình, ở trọ chung với
hai ba thằng bạn quê miệt Cầy Xiêng Thanh Điền trên một căn gác cây, trong cái
hẽm nhỏ sát hông trường Đắc Lộ, cạnh bến xe ngã tư Bảy Hiền. Quốc thì vào trường
Dược, ở với gia đình người cậu bên chợ Hòa Hưng, mấy ngày mới xuống Sài Gòn. Đầu
năm học hai người còn chạy qua chạy lại “mầy
mầy tao tao” nhớ chuyện xưa nhắc chuyện cũ nhưng rồi, bài vở sách đèn chất
chồng, phận ai nấy lo, it khi gặp. Từ đó Trường cũng chưa có lần ghé lại Gò Dầu
mỗi khi về Trà Võ, dù chuyến xe đò nào đi sớm về muộn gì cũng đều ghé ngang. Một
vài lần gởi thư viết vài giòng thăm hỏi Bảo Nghi nhờ Quốc đưa khi anh ta về
trên đó, rồi nhận lại đôi lời nhắn từ cô nàng lúc Quốc trở xuống Sài Gòn, vậy thôi,
vẫn cứ thương thầm như ngày mới gặp đã thương từ buổi sáng hôm ấy.
Trời
lấp lững chiều, thiếm hai Bông, mẹ của Trường, trợt chân té từ trên đầu ống
máng cao, nơi lúa xay thành gạo rớt xuống chỗ treo bao bố chờ hứng phía dưới
sàn nhà máy, xuống đất khi cố leo lên, vói tay lùa mớ gạo tắt nghẽn, đùn lại một
chỗ cứng. Ông bác đứng từ nãy giờ thấy còn lâu mới đầy, bỏ ra ngoài cửa kéo vài
hơi thuốc lá, trở vô hớt hơ hớt hãi la lớn kêu cứu khi thấy thiếm hai Bông nằm
co quắp, bất động không xa mấy xấp bao bố không. Người trong nhà máy bu lại,
khiêng thiếm lên, đặt trên tấm thiếc lớn, đem ra ngoài cửa, cho máy tắt. Chú
hai Trứ chạy xộc lại, nắm tay nắm chân kêu trời kêu đất, thiếm hai vẫn không
nhúc nhích, ông khóc ngất. Ai đó chạy kêu chị Mật, y tá ở trạm y tế xã lên,
chị cũng không làm gì hơn. Không lâu sau, và cũng may anh năm Hoạch còn ở nhà,
nên kịp đưa thiếm lên bệnh viện trên tỉnh. Đã ba ngày, thiếm hai Bông vẫn mê
man, chưa tỉnh lại, vì máu còn đọng trong đầu khi thiếm té đập mạnh xuống sàn
xi măng của nhà máy xay lúa, cùng lúc cột xương sống lưng nứt, cong qua một
bên, cả bác sĩ của bệnh viện và bên quân y viện tỉnh, ngày đêm tìm mọi cách cứu
cho được, chú hai Trứ cứ ngồi bên giường khóc và khóc.
Trời đứng bóng giữa trưa, nắng đầu hè hừng
hực nóng, xuống xe, Trường vừa đi vừa chạy tới bệnh viện, bước lên bậc thềm trước
cửa phòng bệnh, anh quăng túi xách xuống đất, hai cha con ôm nhau khóc rưng rức. Đã không ngủ mấy ngày nên chú hai Trứ mệt đừ, đứng không vững, Trường đở ông ngồi
xuống một bên giường bệnh, cái mền đắp trên người thiếm hai Bông cũng không động
đậy. Không lâu Trường lại dìu ông ra ngồi ngoài hành lang chờ cô y tá chích thuốc
cho thiếm hai. Trường nhìn vào trong, lòng đau nhói. Được tin anh tư Lân, con rễ
ông ba Thức, lái xe hàng chở đồ đi Long An, ghé ngang nhắn sáng sớm, Trường quăng
sách vở học thi vào một góc, không màng chuyện thi cử cuối năm mấy ngày tới
đây, vội vã đón xe về Tây Ninh, ngồi trên xe thầm van thầm vái cho mẹ mình tai
qua nạn khỏi, giờ thì bà nằm đó, có muốn nói muốn hỏi gì cũng không biết làm
sao. Bỏ nhà cửa hai ba ngày, người đuối nhiều, như đã bàn với nhau, sáng hôm
sau, chú hai Trứ đón xe về Trà Võ, lấy thêm chút quần áo để có mà thay đổi và
cũng để nhờ người quen kế bên trông coi giùm, mặc dù trong nhà chẳng có gì quý
giá. Ông đi rồi, thiếm hai vẫn vậy, Trường đứng tựa lưng ngoài cửa phòng bệnh
nhìn theo, sương đêm tan dần trong sân bệnh viện, ngoài cổng tiếng người tiếng
xe lại bắt đầu một ngày ồn ào như mọi ngày.
Sau
mười mấy ngày trong bệnh viện về nhà, bà con chòm xóm, cùng mấy người quen thường
xay lúa ở nhà máy đến thăm hết người này người nọ, thiếm hai Bông lành bệnh
nhưng giờ không đứng thẳng, đi khập khễnh, phải có cây nạng gỗ chống, trí nhớ
thì còn đó nhưng lại có khi nhớ trước quên sau, tàn tật thì không gọi là tàn tật
nhưng không còn làm gì hơn, thiếm nằm nhiều hơn đi, lòng vòng, quanh quẩn trong
nhà trong sân. Ông sáu Điển, chủ nhà máy xay lúa tốt bụng, giúp hai vợ chồng một
số tiền kha khá, để chú hai Trứ nghỉ lo thuốc thang cho thiếm vài bữa rồi trở lại
nhà máy. Trở xuống Sài Gòn, căn gác vắng tanh, mấy thằng bạn về Tây Ninh chắc
cũng lâu rồi, mùa thi cuối năm đã qua, Trường không có mặt trong phòng những
ngày thi đó, sách vở bỏ ngang nằm bừa bải trên bàn, trong góc phòng vẫn còn
trang đóng trang mở. Trường ngồi thừ ra, thở dài, lặng thinh nhìn xuống đường,
người chen chúc người hai bên phố giữa cái nắng xế trưa của mấy ngày giữa hạ. Chần
chừ chốc lát, Trường bỏ đi nhanh xuống, bắt kịp chiếc xe buýt về chợ Sài gòn vẫn
còn đó, xuống xe, băng qua bên kia đường, đứng ở một góc ngã ba vào cư xá Lữ
Gia, trốn nắng dưới hàng phượng cao, ngập hoa đỏ, đỏ như màu nắng, nhìn qua sân
trường, vắng tanh không một bóng người, bỗng dưng Trường bật khóc. Chuyến xe đò
về Trà Võ hôm sau không ghé Gò Dầu, héo
hắt buồn hơn những chuyến xe ngày trước.
Hai người đứng tiễn nhau ngoài đường, ngồi
trên xe Honda, Quốc nấn ná chưa chịu đi, nhìn nhau cười, giấu buồn trên mặt, trời
quá trưa, gió từ bên kia rừng cao su mang theo mùi lá chết lùa trong cái nắng
quê hâm hấp nóng, chợ xã thưa người từ lâu, chuyến xe lam chở khách đi Gò Dầu của
anh năm Hoạch chưa chịu chạy. Thi xong, Quốc lên Ngã Tư Bảy Hiền tìm Trường,
không còn ai ở đó, hỏi thêm thì bác chủ nhà cho biết Trường về quê cả tháng nay
rồi chưa thấy xuống, Quốc ngờ ngợ “còn
ngày thi cuối năm thì sao”. Về tới Gò Dầu, cũng chưa gặp lại Bảo Nghi, Quốc
vội vã lên Trà Võ ngay hôm sau, cho nên giờ thì cũng không nói được gì về cô ta
hơn, vẫn cứ lặng thinh, Quốc nổ máy cho xe chầm chậm quay đầu ra đường nhựa. Hai ba người lính nghĩa quân quen, từ
phía đồn lính bên văn phòng hội đồng xã đi về hướng vào chợ, thấy Trường vẫy
tay chào, Quốc quay lại “có gì cho tao biết”
rồi chạy vụt đi, Trường nhìn theo thì thầm “ừ
thì có gì tao cho mầy biết”.
Hết hè, trước ngày trở xuống Sài Gòn, vào học
lại, Quốc một lần nữa lên Trà Võ, chú hai Trứ cho biết Trường đã vào lính, nghe
nói ở trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, không biết chừng nào mãn khóa, Quốc ngỡ
ngàng không ít, buột miệng tại sao, khi biết rằng Trường vẫn còn được tiếp tục hoản
dịch, không phải bị động viên vì là con duy nhất của gia đình. Thiếm hai Bông vẫn
vậy, cười cười hỏi hỏi không đầu không đuôi nhưng Quốc không chắc là thiếm có
biết mình là ai không, chào ra về. Nhìn lại căn nhà, Quốc cắn môi, lòng chùn xuống nặng trĩu buồn. Suốt năm học đó, về Gò Dầu thăm nhà thứ Bảy, Chủ Nhật nhiều
lần nhưng không lần nào gặp Bảo Nghi, có lần ghé tạt qua thăm bác gái, bà cô bảo
cô thỉnh thoảng cũng có về nhưng không ở lâu, cô ta vào năm thứ nhất Nha Khoa,
đưa cho Quốc cái địa chỉ nhà dưới Sài Gòn dặn khi nào rảnh đến chơi.
Chiến
trận giờ càng khốc liệt hơn trước, trên cả nước, đâu đâu cứ tăng dần, chưa
thấy và không biết chừng nào mới yên. Xe cộ đi về Sài Gòn Tây Ninh bị kẹt vì Việt
Cộng đấp mô gài mìn là chuyện thường tình, không còn chuyện một ngày một bữa nữa,
nhất là đoạn khỏi Củ Chi, Suối Sâu Suối Cụt, Trãng Bàng, Bình Nguyên, Gò Chùa, Bến
Mương, quân xa lính trận đôi lúc rầm rập suốt ngày trên đường, bất kể chiều mưa
sáng nắng. Tiếng đại bác, tiếng bom từ đâu đó, khi thì gần lúc thì xa, đì đùng dội
về phố xá nghe rõ, đêm như ngày, lo mà sợ nhưng riết rồi cũng quen dần đi. Trước Tết vài ngày, hôm trên đường về Gò Dầu, trời có chút nắng sáng lấp lóe, tới ngã
ba đầu ngõ vào Tha La xe đò xe hàng đủ loại, nhỏ lớn kẹt lại, nối đuôi nhau ngừng
một hàng dài. Phía trên kia có mấy cái mô đất, cao lớn, do du kích Việt Cộng
trong vùng ra đấp tối hôm qua. Hành khách tủa nhau xuống, người ngồi kẻ đứng
hai bên đường, xì xầm to nhỏ, dường như quen rồi, không thấy ai vội vã,
than phiền, chờ lính địa phương quân VNCH của quận Trãng Bàng lên mở đường. Xuống
xe, đứng xớ rớ cũng lâu, tới lui quanh qua quẩn lại, thôi thì ráng vui theo cái
vui của người, Quốc bỏ đi ngược lại góc ngã ba, định kiếm chuyện tán dốc với mấy
anh lơ xe đang đứng tụm nhau nói cười hút thuốc lá. Có tiếng ai đó gọi mình
phía sau, ngay dãy quán bán bánh canh, Quốc quay đầu nhìn lại, từ xa Bảo Nghi vẫy
tay gọi, hỏi nhau dăm ba câu thì đường đã dọn, đầu trên đầu dưới, người ta gọi
nhau ơi ới, tài xế lơ xe lăng xăng rục rịch nổ máy, hai người vội đi lại xe
mình, hẹn gặp nhau ở Gò Dầu.
Trong góc quán cũ, cũng trưa mùng hai Tết,
Quốc nói hết những gì muốn nói về Trường, nói mà buồn thiu buồn thít. Bảo Nghi
ngồi lặng thinh, nhìn ra ngoài ngã ba, chiếc xe đò về Tây Ninh vừa vào bến, nắng
khuất đâu đó bên kia cầu, dăm ba người khách thong thả xuống, không có ai quen,
lòng buốt đau, Quốc bỏ đi trước một khoảng khá xa, Bảo Nghi vẫn còn ngồi đó, vẫn
nhìn hướng bến xe, vắng tanh, thì thầm “xin
lỗi, đã muộn rồi Trường ơi”.
*
Ra
trường, Trường chọn binh chủng Nhảy Dù, về Trà Võ thăm nhà, ngang qua Sài
Gòn nhưng không tìm Quốc, thiếm hai Bông chẳng khá gì hơn, cũng cứ quên trước quên
sau, cười cũng như khóc, hai cha con ngồi nhìn, không biết vui hay buồn, thôi
đành cho số mạng, cầu mong trời đất ông bà còn nhủ lòng thương. Lộc Ninh mất,
giữa tháng Tư năm 1972, An Lộc bị quân Bắc Việt xiết chặt vòng vây, quân trú
phòng VNCH cố giữ phần đất còn lại chừng vài cây số vuông, không làm sao bung
ra mở đường được. Tiểu đoàn 6 Dù của Trường được trực thăng vận xuống ấp Srok
Ton Cui, cách An Lộc chừng bốn năm cây số về phía đông, trước để dọn bãi đáp
cho tiểu đoàn 5 và 8 nhảy xuống theo một ngày sau, rồi hai tiểu đoàn này dàn
quân tiến về An Lộc, tiểu đoàn 6 ở lại giữ Đồi Gió bọc hậu. Sau đó bị quân Bắc
Việt từ hướng Phước Long càn quân xuống tấn công suốt mấy ngày đêm bằng mọi thứ
họ có, người, xe tăng, và đại pháo, cố sức chống cự nhưng trước quân số biển người,
tiểu đoàn đành thua cuộc. Trường bị trúng đạn pháo, được mang theo trên đường
rút quân nhưng không sống nổi vì máu ra nhiều quá, dù đã được quấn buột bởi
không biết bao nhiêu là băng là vải. Khi số quân còn lại bắt tay được với quân bạn
nới rộng được vòng đai từ An Lộc bung ra, mấy người lính mang anh theo, thay
phiên nhau vuốt mắt, một hai anh có đạo, đọc lầm thầm gì đó, vừa làm dấu thánh
giá vừa rưng rức khóc. Trong túi áo Trường, người ta tìm được hai lá thư, một
ngắn một dài, đề ngày viết chừng hơn mười ngày trước.
Trước hôm nghỉ hè vài ngày, buổi trưa từ
trường về, cầm lá thư mới nhận sáng nay do bà mợ đưa lại, người gởi đề chữ tắt
và số KBC của quân bưu, thấy lạ, đi ngay vào phòng, mở thư đọc, Quốc gục xuống
bàn, tay bưng mặt khóc “trời ơi”. Sáng
hôm sau, Quốc ra ngã tư Bảy Hiền, đón chuyến xe sớm về Gò Dầu vì chiều hôm qua,
lần đầu tìm đến nhà Bảo Nghi bên đường Phan Thanh Giản, nhưng ở đó cho biết cô
đã về trển mấy ngày nay.
Đứng trước nhà nhìn qua, trời đã quá giữa
trưa, nắng hừng hực nóng, cái nắng của những ngày đầu Hạ từ bên kia sông lùa về,
rọi sáng rực hàng chữ “Lễ Đính Hôn” trên
tấm bảng gỗ treo trước cổng nhà Bảo Nghi một màu đỏ thắm. Trong sân nhiều cô ra
vào, tay hoa tay lá, cười nói như đã nói cười hôm Quốc và Trường theo về đây
sau bữa ăn mừng thi đậu ngoài chợ quận. Bỏ lá thư tình dài, nói tiếng yêu của Trường nhờ đưa vào lại túi áo, lòng buồn chùn xuống, thương cho bạn, lặng
lẽ vào nhà, Quốc nói một mình “thôi không
cần phải đưa làm gì”. Trên đường lên bến xe, cúi đầu, Quốc vội vã bước nhanh
ngang qua nhà Bảo Nghi, không nhìn lại, sau lưng người càng lúc càng đông ở đó,
nắng dịu đi chút đỉnh, chợ quận không còn mấy ai, Quốc đưa tay sờ lá thư trong
túi, bước nhanh hơn thì thầm “thôi để cho
người có hạnh phúc trọn vẹn đi Trường ơi.” Có tiếng đại bác đâu đó trên miệt
trời biên giới Miên, xa xa lẻ loi vọng về. Chuyến xe đi Sài Gòn rời bến, qua khung cửa kiếng, Quốc nói thay Trường hai tiếng
“vĩnh biệt”.
Thuyên Huy
Giữa mùa mưa xứ người 2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét