Thơ MẠC ĐĨNH CHI
Mạc Đĩnh Chi 莫挺之 (1272 - 1346), tự là Tiết Phu 節夫, hiệu là Tích Am 僻庵, người làng Lan Khê, huyện Bàng Hà, lộ Lạng Giang (nay là huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Hưng) sau dời sang làng Lũng Động, huyện Chí Linh cùng trong lộ đó (nay cũng thuộc Hải Hưng). Ông là một quan đại thần và là nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, ông thi đỗ Trạng Nguyên. Nhờ thông minh, hiểu biết sâu rộng, ông nhiều lần được cử đi sứ sang Trung Hoa. Ngoài ra, ông còn được biết đến như là ông tổ trực hệ của các đời vua nhà Mạc, được Mạc Thái Tổ truy tôn miếu hiệu là Viễn Tổ 遠祖 (Tổ tiên của các đời xa xưa trước), thụy là Kiến Thủy Khâm Minh Văn Hoàng Đế 建始欽明文皇帝.
Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi còn để lại rất nhiều giai thoại văn chương truyền tụng trong dân gian, nhưng văn thơ thì chỉ để lại vỏn vẹn có môt bài "Phiến Minh", hai bài "Giáo Tử Phú và Ngọc Tỉnh Liên Phú" cùng với Bốn bài thơ sau đây:
1. HỈ TÌNH THI 喜晴詩 :
喜晴詩 HỈ TÌNH THI
好景明人眼, Hảo cảnh minh nhân nhãn,
江山正豁然。 Giang sơn chính khoát nhiên.
烟笼初出日, Yên lung sơ xuất nhật,
波漾嫩晴天。 Ba dạng nộn tình thiên.
岸柳垂金节, Ngạn liễu thùy kim tiết,
汀花朴画船。 Đinh hoa phác họa thuyền.
淒凉宽旅思, Thê lương khoan lữ tứ,
和暖喜新年。 Hòa noãn hỉ tân niên.
莫挺之 Mạc Đĩnh Chi
* CHÚ THÍCH:
- Hỉ Tình Thi 喜晴詩 : là "Thơ mừng trời nắng ráo".
- Khoát Nhiên 豁然 : là "Rực sáng lên một cách bất ngờ".
- Yên Lung 烟笼 : là Khói mờ, là Sương khói làm cho mờ ảo.
- Ba Dạng 波漾 : là Những gợn sóng lăn tăn. Nộn 嫩 : là Non nớt.
- Tình Thiên 晴天 : là Trời quang mây tạnh, trời nắng lại sau cơn mưa.
- Kim Tiết 金节 : là những đốt như vàng. Ở đây chỉ những nhành liễu với những đốt ngã màu vàng rũ xuống sau cơn mưa.
- Đinh Hoa 汀花 : là loại hoa nở trôi nổi trên mặt nước.
- Thê Lương 淒凉 : Thê là Lạnh, Lương là Mát; nên THÊ LƯƠNG là Mát lạnh, cũng có nghĩa là Rất mát mẻ, hoặc rất lạnh lẽo buồn bã (tùy theo ngữ cảnh).
- Hòa Noãn 和暖 : là Hòa dịu ấm áp, chỉ khí hậu ôn hòa ấm áp của mùa xuân.
* NGHĨA BÀI THƠ:
THƠ MỪNG TRỜI NẮNG RÁO
Cảnh đẹp nên làm cho mắt của con người cũng sáng rực lên, và sông múi nước non cũng chợt như rực sáng. Mặc dù khói sương như còn che phủ vầng thái dương vừa ló dạng, nhưng những gợn sóng lăn tăn làm cho bầu trời như phủ màu xanh non hơn. Bờ liễu ven sông cành rũ xuống những đốt vàng lấp lánh và những bông hoa dưới nước cứ vỗ vào mạn thuyền có vẽ hoa văn xinh đẹp. Trong cái mát mẻ đượm chút lạnh lẽo nầy người lữ khách cũng khoan khoái để cho dòng suy tư thả theo cái ôn hòa ấm áp của cái không khí mừng đón năm mới đang sang.
Bài thơ có tựa là "Thơ Mừng Trời Tạnh", có thể là sau cơn mưa, và cũng có thể là trên đường đi sứ. Vì ta thấy Mạc Đĩnh Chi nhắc đến "Họa Thuyền" là thuyền của vua chúa hay quan quyền sứ giả ngày xưa sử dụng, nhất là câu "Thê lương khoan lữ tứ". LỮ TỨ 旅思 là những cảm xúc suy tư của người lữ thứ xa quê sau cơn mưa trời lại sáng trong ánh nắng xuân ôn hòa ấm áp lúc người người đang mừng đón tân niên.
* DIỄN NÔM:
HỈ TÌNH THI
Cảnh đẹp sáng mắt ra,
Sông núi rực chói lòa.
Khói mờ vầng nhật xuất,
Trời xanh gợn sóng xa.
Liễu rũ vàng theo gió,
Sóng vỗ họa thuyền hoa.
Thê lương lòng lữ khách,
Đón mừng năm mới qua.
Lục bát :
Sau mưa cảnh sáng mắt người,
Núi sông rực rỡ xinh tươi nắng vàng.
Vầng dương mới mọc mơ màng,
Lăn tăn sóng gợn trời càng xanh lơ.
Vàng tươi liễu rũ bên bờ,
Sóng xô hoa vỗ ngẩn ngơ họa thuyền.
khoan thai lòng khách thôi phiền,
Ôn hòa ấm áp tân miên đón mừng !
Đỗ hiêu Đức
2. Quá Bành Trạch Phỏng Đào Tiềm Cựu Cư 過彭澤訪陶潛舊居 :
過彭澤訪陶潛舊居 QUÁ BÀNH TRẠCH PHỎNG ĐÀO TIỀM CỰU CƯ
自性本閒曠, Tự tánh bổn nhàn khoáng,
初不比碌碌。 Sơ bất tỉ lục lục.
斗米肯折腰, Đấu mễ khẳng chiết yêu,
解印寧辭祿。 Giải ấn ninh từ lộc.
扶疏五株柳, Phù sơ ngũ chu liễu,
冷澹一籬菊。 Lãnh đạm nhất ly cúc.
寥寥千載後, Liêu liêu thiên tải hậu,
清名吾可服。 Thanh danh ngô khả phục.
莫挺之 Mạc Đĩnh Chi
* CHÚ THÍCH :
- Đào Tiềm 陶潛 (365-427), tự là Nguyên Lượng (元亮), hiệu là Uyên Minh (淵明), lại có biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh (五柳先生), là một trong những nhà thơ lớn của Trung Hoa thời nhà Tấn và Lưu Tống.
- Bành Trạch 彭澤 : Nơi mà Đào Tiềm làm Huyện lệnh, nên ông còn được gọi là Đào Bành Trạch.
- Nhàn Khoáng 閒曠 : là Rảnh rỗi không bận bịu.
- Lục Lục 碌碌 : là Lăng xăng bận rộn.
- Chiết Yêu 折腰 : là Gãy lưng. Chỉ cúi rạp mình xuống.
- Từ Lộc 辭祿 : là Từ chối bỗng lộc, có nghĩa là từ quan.
- Ngũ Chu Liễu 五株柳 : là Năm cây liễu. Trong tự truyện, Đào Tiềm kể về một ông gìa nhà có trồng năm cây liễu, nên mọi người đều gọi ông ta là Ngũ Liễu Tiên Sinh. Đó cũng là hình ảnh mà Đào Tiềm tự ví mình.
- Nhất Ly Cúc 一離菊 : là Một hàng rào cúc (Giậu cúc). Khi về vườn, Đào Tiềm trồng rất nhiều hoa cúc ở phía đông hàng rào nhà mình, nên thơ ông có câu : Thái cúc đông ly hạ 採菊東籬下. Có nghĩa : Hái hoa cúc ở dưới rào mé đông.
- Liêu Liêu 寥寥 : Vốn nghĩa là Thưa thớt, lẻ tẻ. Ở đây dùng chỉ thời gian nên có nghĩa là : Vằng vặc, xa xôi diệu vợi.
* NGHĨA BÀI THƠ:
Đi Ngang Qua Bành Trạch Thăm Chỗ Ở Cũ Của ĐÀO TIỀM
Ta vốn tính phóng khoáng ưa nhàn tản, nên ban đầu cũng không chịu được với thói lăng xăng bận rộn để bợ đỡ người khác. Cũng như Đào Uyên Minh đã không vì năm đấu gạo mà chịu khom lưng để cho người sai khiến, nên mới phải treo ấn mà từ bỏ bổng lộc kia. Thà về nhà vun trồng năm cây liễu thưa thớt và sống đạm bạc với giậu cúc phía tường đông. Xa xôi vằng vặc cả ngàn năm sau rồi, nhưng thanh danh của Đào Tiềm vẫn còn làm cho ta phải cảm phục.
Nhân đi sứ nước người, ngang qua đất Bành Trạch, sẵn ghé thăm nơi mà cao sĩ Đào Uyên Minh đã từng vì năm đấu gạo mà phải làm Tri Huyện ở nơi đây. Ý của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi là cũng muốn mượn cái tính cách thanh cao của Đào Tiềm để tỏ rõ cái ý chí của mình. Khâm phục cái thanh danh của Đào Tiềm tức là đã nâng cao cái phẩm chất của mình rồi đó vậy !
* DIỄN NÔM :
Qua Bành Trạch Thăm Chỗ Ở Cũ Của ĐÀO TIỀM
Vốn ta ưa phóng khoáng,
Không chịu đứa lăng nhăng.
Khom lưng vì đấu gạo,
Treo ấn phải từ quan.
Về trông năm cội liễu,
Vui với cúc một giàn.
Ngàn năm sau vằng vặc,
Người phục lại danh vang.
Lục bát :
Tính ta phóng khoáng thanh nhàn,
Sớm không ưa kẻ lang bang chào mừng.
Vì năm đấu gạo khom lưng,
Thà treo quách ấn nửa chừng từ quan.
Về trồng năm liễu bên đàng,
Vui cùng khóm cúc bên hàng rào đông.
Ngàn năm sau vẫn nhớ ông,
Thanh danh cao nhã cho lòng kính yêu.
Đỗ Chiêu Đức
3. TẢO HÀNH 早行 :
早行 TẢO HÀNH
蝴蝶醒殘夢, Hồ điệp tỉnh tàn mộng,
商郎聞櫂歌。 Thương Lang văn trạo ca.
張帆開夙霧, Trương phàm khai túc vụ,
擺櫂破晴波。 Bãi trạo phá tình ba.
水入九江闊, Thủy nhập Cửu Giang khoát,
山歸三楚多。 Sơn quy Tam Sở đa.
濂溪何處是? Liêm khê hà xứ thị ?
我欲訪煙蘿. Ngã dục phỏng yên la.
莫挺之 Mạc Đĩnh Chi
*CHÚ THÍCH:
- Tảo Hành 早行 : là Khởi hành sớm, Khởi hành lúc ban mai.
- Hồ Điệp... Mộng 蝴蝶... 夢 : là Giấc Bướm, thường dùng để chỉ giấc ngủ chập chờn, do tích Trang Sinh (Trang Tử) nằm mơ thấy mình hoá bướm dạo chơi khắp nơi, tỉnh ra, còn ngờ ngợ, không biết là mình hoá ra bướm hay là bướm đã hóa ra mình. Dùng rộng ra chỉ để chỉ GIẤC NGỦ mà thôi, như ta thường nghe nói "Giấc ĐIỆP hay Giấc BƯỚM."
- Trạo Ca 櫂歌 : Trạo là Mái chèo; nên TRẠO CA là lời hát hò trên sông lúc chèo thuyền.
- Trương Phàm 張帆 : là Giương buồm.
- Túc Vụ 夙霧 : là sương mù buổi sáng sớm.
- Khoát 闊 : là Rộng rãi.
- Yên La 煙蘿 : Yên là Khói; La là Dây leo; Nên YÊN LA là Các dây leo bao phủ quanh các cây lớn như sương như khói.
* NGHĨA BÀI THƠ :
KHỞI HÀNH LÚC BAN MAI
Chợt tỉnh mộng khi giấc bướm vừa tàn, đã nghe tiếng hát hò trên sông Thương Lang. Thuyền giương buồm lên lướt tới rẻ đám sương mù buổi sáng dày đặc. Tiếng chèo khua phá tan sóng nước làm vỡ tan ánh nắng ban mai. Nước Chảy vào Cửu Giang như làm cho dòng sông thêm rộng ra; những dãy núi chạy dọc về Tam Sở như càng lúc càng nhiều hơn lên. Dòng Liêm Khê là ở nơi nào ? Ta muốn đi thăm các cây cối và dây leo chằng chịch như khói như sương ở nơi đó.
Đây chắc chắn là chuyến đi sứ trên đất Trung Hoa với các dòng sông và địa danh bên đó như : Sông Thương Lang, Huyện Cửu Giang thuộc đất Sài Tang, Tầm Dương xưa; đất Tam Sở đời Tần Hán, gồm có Đông Sở, Tây Sở và Nam Sở, cũng như dòng sông Liêm Khê thuộc tỉnh Hà Nam nằm ở dưới chân núi Bàng Lãnh... Cái thư thả của chuyến đi sớm sau khi đã tàn giấc điệp, rất thi vị với các giọng hát hò trên sông với sông nước bao la, núi non trùng điệp hùng vĩ lẫn khuất trong các cây cỏ xanh tươi đẹp đẽ hữu tình.
TẢO HÀNH
Chợt tỉnh sau giấc bướm,
Thương Lang vọng tiếng ca.
Buồm giương trong sương sớm,
Chèo quẫy vỡ sóng xa.
Nước Cửu Giang thêm rộng,
Núi Tam Sở nhiều ra.
Liêm Khê nơi nào nhỉ ?
Ta muốn ngắm cỏ hoa.
Lục bát :
Chập chờn giấc bướm tỉnh ra,
Thương Lang đã vọng tiếng ca câu hò.
Giương buồm lướt gió sương mờ,
Mái chèo quẫy sóng xanh lơ nắng vàng.
Nước về thêm rộng Cửu Giang,
Núi xanh Tam Sở như càng nhiều ra.
Liêm Khê xứ ấy có xa ?
Lòng ta muốn ngắm cỏ hoa khắp vùng .
Đỗ Chiêu Đức
晚景 VÃN CẢNH
空翠浮煙色, Không thúy phù yên sắc,
春藍發水紋。 Xuân lam phát thủy văn.
墻烏啼落照, Tường ô đề lạc chiếu,
野雁送歸雲。 Dã nhạn tống quy vân.
漁火前灣見, Ngư hỏa tiền loan kiến,
樵歌隔岸聞。 Tiều ca cách ngạn văn,
旅顏悲冷落, Lữ nhan bi lãnh lạc,
借酒作微醺。 Tá tửu tác vi huân.
莫挺之 Mạc Đĩnh Chi
* CHÚ THÍCH :
- Vãn Cảnh 晚景 : là Cảnh Đêm, là Cảnh trí lúc về đêm.
- Thúy 翠 : là Màu xanh biếc.
- Thủy Văn 水紋 : là Vết nhăn của nước, có nghĩa là Mặt nước chỉ gợn sóng lăn tăn.
- Lạc Chiếu 落照 : là Ánh nắng còn rơi rớt lại lúc chiều tàn.
- Ngư Hỏa 漁火 : là Lửa của cá, là Đèn đóm trên các ghe chài lưới.
- Loan 灣 : là Khúc quanh của con sông.
- Tiều Ca 樵歌 : là Tiếng hát hò của những tiều phu đốn củi.
- Lữ Nhan 旅顏 : là Nét mặt của người lữ thứ xa quê hương.
- Vi Huân 微醺 : là Say nhẹ, là Chếnh choáng say.
* NGHĨA BÀI THƠ :
CẢNH TRÍ VỀ ĐÊM
Tầng không xanh biếc nổi lên những sắc màu như sương khói. Dòng nước xuân xanh lam chỉ gợn sóng lăn tăn. Những con qụa trên tường kêu oang oác dưới ánh nắng chiều còn rơi rớt lại, trên không đàn nhạn đang bay gấp như đang đưa tiễn các đám mây bay trở về. Đèn đóm của các ghe chài lưới đã thấp thoáng ở khúc quanh phía trước của dòng sông, và tiếng hát hò của các tiều phu bên kia bờ đã vang lên trên đường đi về. (Trước cảnh chiều tàn nầy) Mặt người lữ khách đượm buồn trong buổi chiều lạnh lẽo cô liêu, nên mới mượn chung rượu để chếnh choáng say (cho vơi đi mối sầu lữ thứ)!
Đây là bài thơ cuối cùng còn sót lại của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, mà cũng là bài thơ cuối cùng trên đường đi sứ. Ngồi trên ghe nhìn trời nhìn nước trong buổi chiều tàn, thấp thoáng lửa chài, đâu đó tiếng qụa kêu, đàn nhạn bay về trong tiếng hát cách bờ của các tiều phu cũng đang vội vã quay về. Trước cảnh lạnh lẽo cô liêu của buổi chiều trên sông nước càng gợi thêm mối sầu lữ thứ của kẻ xa quê. Uống chút rượu để chếnh choáng say cho càng thấm thía hơn cái nỗi buồn trên sông nước !
* DIỄN NÔM :
CẢNH CHIỀU HÔM
Trời xanh vờn mây khói,
Nước biếc gợn lăn tăn.
Qụa kêu trong nắng xế,
Nhạn bay về thinh không.
Lửa chài quanh sông nước,
Tiều phu hát cách sông.
Buồn trong chiều xuống lạnh,
Mượn rượu giải khây lòng.
Thơ sáu chữ :
Khói quyện bầu trời xanh biếc,
Sóng xuân nước dợn lăn tăn.
Quạ kêu chiều rơi tường vắng,
Nhạn trời đưa tiễn phù vân.
Lửa chài bên vàm thấp thoáng,
Tiều phu cất tiếng cách sông.
Lữ khách buồn thân cô quạnh,
Giải sầu mượn chén đêm thanh !
Lục bát :
Từng không xanh ngắt khói mờ,
Nước xuân gợn sóng ơ hờ chiều buông.
Oang oang tiếng qụa đầu tường.
Theo mây đàn nhạn kêu sương bay về.
Lửa chài thấp thoáng dòng khê,
Tiếng tiều phu vẳng đi về bên sông.
Chiều buồn lữ khách bâng khuâng,
Mượn lưng chén rượu cho lòng lâng lâng.
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét