Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2024

TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 6)-Diển Đàn Khai Phóng


TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 6)-Diển Đàn Khai Phóng

 Đức nhân trong chương 8 Thái Bá và chương 9 Tử Hãn

Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng

Phàm lệ

–         Dịch là của Nguyễn Hiến Lê.

–         Chú thích và Bàn thêm là của Jinsai.

–         Các hạng mục khác là của người dịch.

CHƯƠNG 8 THÁI BÁ

Bài 8.3 Vai trò làm gương của cấp bậc lãnh đạo cho cấp dưới và quần chúng vào thời đại nào cũng quan trọng vì đó quy luật tâm lý của con người.

(Tử viết: “Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ, dũng nhi vô 

lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giảo.”)

“Quân tử đốc ư thân, tắc dân hưng ư nhân; cố cựu bất di, tắc dân 

bất du.”

(子 曰:恭 而 無 禮 則 勞,慎 而 無 禮 則 葸,勇 而 無 禮 則  亂,

直 而 無 禮 則 絞。)

君 子 篤 於 親,則 民 興 於 仁。故 舊 不 遺,則 民 不 偷。

Ghi chú

Trong sách của Nguyễn Hiến Lê là Bài 8.2. Trong nguyên bản Luận

 Ngữ vốn gồm có câu đầu trong ( ) nhưng sau đó Chu Hy đã tách

 câu thứ 2 làm thành 1 bài nên trong Luận Ngữ Cố Nghĩa, câu sau

 trở thành Bài 8.3. Số thứ tự của bài trong chương 8 của Cổ Nghĩa 

lớn hơn số trong sách cụ Lê 1 số. Tuy nhiên, trong Luận Ngữ Tập

 Chú của Tsuchida Kenjirô chú dịch thì Bài 8.2 giống như của cụ

 Lê, nghĩa là không chia ra làm 2 như Jinsai viết trong Cổ Nghĩa.

 Người dịch không hiểu tại sao.

Dịch

(Khổng tử nói: “Cung kính mà không biết lễ (nghĩa là không thích 

hợp, vừa phải) thì khó nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì nhút nhát,

 dũng cảm mà không biết lễ thì loạn động, ngay thẳng mà không biết

 lễ thì gắt gao, mất lòng người.”)

“Người quân tử (cầm quyền) giữ trọn đạo với người thân thì dân 

phát khởi lòng nhân ái; không bỏ người cũ thì dân không bạc bẽo.”

Chú thích

“Hưng” là phấn phát (khởi). “Du” là mỏng. Bài này vốn cùng đứng

 chung với Bài 2 trước nhưng Chu Hy tách ra làm 1 bài riêng như 

hiện nay.

(“Bất di” là không bỏ.)

Giải thích

Trần Lịch陳 櫟(1252~1334) viết “Yêu thương cha mẹ, người trong

 thân thuộc là nhân. Người có thân phận cao có đức nhân thì người

 có thân phận thấp sẽ phấn phát lập chí có đức nhân. Việc không

 quên sự thân thiết ngày trước trong quá khứ là do có tình cảm sâu

 đậm. Nếu tình cảm của người cấp trên sâu đậm thì người cấp dưới 

cũng có khuynh hướng giống như vậy. Nếu người cấp trên thực hiện 

điều này thì người cấp dưới cũng bắt chước theo”.

Khi thực hiện chính trị bằng đức thì dân chúng tâm phục, và tác dụng

 cảm hóa sẽ phổ biến rộng xa. Nếu thực hiện chính trị bằng luật pháp

 thì dân chúng sẽ sợ nhưng tác dụng cảm hóa sẽ hời hợt nông cạn. 

Do đó, phương pháp quản trị thiên hạ của các bậc thánh vương 

ngày xưa là bằng đức chứ không phải bằng luật pháp. Đó là lý do 

mà các vương triều kế tục trong vài trăm năm, và giữ gìn được xã tắc

 và tôn miếu. Đến thời đại về sau, không phải là không có các vị vua

 và quan chức ưu tú nhưng đạo (phương thức) quản trị thiên hạ tất 

cả đều trái ngược với thời xưa. Do đó không phải là vua và quan 

không muốn quản trị tốt thiên hạ nhưng là không thể quản trị tốt 

được bởi vì không dùng phương pháp đúng. Thánh nhân hoặc người

 hiền (người tài giỏi và có đức hạnh tốt) khi luận bàn về thực chất 

của chính trị thì tất cả đều nói về quản trị bằng đức chứ không phải 

quản trị bằng luật pháp là do lý do này.

Ngày 26/7/2024

Nhận xét

(1)   Trong Luận Ngữ Trưng, Sorai đồng ý với Ngô Vực呉 棫 (đậu

 tiến sĩ vào năm 1124, đời Tống) là bài này độc lập với bài trước 

nhưng không đồng ý là Ngô Vực là bài này là của Tăng tử. Ông cũng

 cho rằng giải thích của Chu Hy “hưng” là “phấn phát (khởi)” là

 không đủ ý (Jinsai đã theo chú thích của Chu Hy), phải hiểu là 

“thịnh vượng”. Người dịch nghĩ rằng ý kiến của Sorai là thích hợp.


(2)   Vấn đề nghiên cứu cụ thể nội dung chính trị bằng đức thích hợp

 cho thời đại ngày nay là cần thiết nhưng không phải dễ dàng và cần

 nhiều thời giờ và công sức. Tuy nhiên, việc rõ ràng và quan trọng 

đồng thời không cần phải nghiên cứu thêm là vai trò làm gương của

 cấp bậc lãnh đạo cho cấp dưới và quần chúng vào thời đại nào cũng

 quan trọng vì đó quy luật tâm lý của con người.

Nhiều người cho rằng nội dung giáo dục của quốc gia là quan trọng

 tuy nhiên nếu cấp lãnh đạo không làm gương thì dù chính sách giáo

 dục có tuyệt vời cũng trở thành vô dụng. Nhận xét của Trần Lịch 

không có nội dung gì mới nhưng rất xác đáng, tiếc là ít được quan 

tâm áp dụng.

Bài 8.8 Kẻ sĩ (người lãnh đạo ) cần phải khoan dung và nhẫn nại

Tăng Tử viết: “Sĩ bất khả dĩ bất hoằng nghị, nhiệm trọng nhi đạo 

viễn. Nhân dĩ vi kỷ nhiệm, bất diệc trọng hồ? Tử nhi hậu dĩ, bất diệc

 viễn hồ?”

曾 子 曰:士 不 可 以 不 弘 毅,任 重 而 道 遠。仁 以 為 己 任,

不 亦 重 乎!死 而 後 已,不 亦 遠 乎!

Ghi chú: Ở sách Khổng Tử & Luận Ngữ của Nguyễn Hiến Lê là 

Bài 8.7.

Dịch

Tăng tử nói: “Kẻ sĩ không thể không cương cường, quyết tâm, là vì

 nhiệm vụ nặng mà đường xa. Nhiệm vụ là làm điều nhân, như vậy

 chẳng nặng sao? Làm cho đến chết mới thôi, như vậy đường chẳng

 xa sao?”

Chú thích

1) “Tăng tử… đạo viễn”.“Hoằng” là quảng đại (rộng lớn, khoan 

dung) nghĩa là có thể thông thả, chậm rãi, không gấp gáp. “Nghị” 

nhẫn nại, chịu đựng. Để đủ tư cách là người sĩ (kẻ sĩ, trí thức ở Việt 

Nam; võ sĩ, lãnh đạo ở Nhật Bản) phải có đủ hoằng và nghị. Nếu 

không thì không thể hoàn thành và đảm nhận trách nhiệm trọng đại

 lâu dài.

2) “Nhân dĩ vi… viễn hồ”. Đức nhân thật là to lớn. Bởi vì lấy đức 

nhân làm trách nhiệm nên trách nhiệm rất nặng nề. Lấy đức nhân 

làm trách nhiệm của mình nên phải phụ trách cho đến chết, nên nói

 là “xa” (“xa” ở đây ý nói là thật lâu dài, cho đến chết mới hết).

Giải thích

Lý do người sĩ nhất định phải xem trọng hoằng nghị (khoan dung 

và nhẫn nại) là bởi vì nếu không có độ lượng này thì không thể hoàn

 thành và bền bỉ gìn giữ lâu dài trách nhiệm nặng nề. Đức mà có tác

 dụng, có hiệu quả đến khắp mọi nơi là đức nhân. Cảm hóa có tác 

dụng và hiệu quả đến cả côn trùng là đức nhân. Giáo hóa lan rộng

 khuếch tán đến cả muôn đời là đức nhân. Cứu giúp được bất hạnh

 và ngăn chặn được tai họa là đức nhân. Bởi vì nhận các việc làm 

này làm trách nhiệm của mình không phải thật sự nặng nề lắm sao?

 Một khi còn hơi thở thì không thể đánh mất chí hướng này, không 

phải là con đường đi thật sự xa lắm sao? Do đó lý do nói “Bất khả dĩ

 bất hoằng nghị” (không được không hoằng nghị, nghĩa là phải có

 đủ hoằng nghị) là bởi vì thường ngày lúc nào cũng phải biết lấy việc

 tu dưỡng bản thân làm trọng yếu.

Nhận xét

(1) Người dịch nghĩ rằng dịch “hoằng nghị” là “cương cường, quyết

 tâm” là không diễn tả được ý của Tăng tử! Hiểu như Jinsai mới thật

 là chí lý! Thật hay lắm thay cho hai chữ hoằng nghị với ý nghĩa 

khoan dung và nhẫn nại! Trong Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh

 cũng chỉ giải thích nghĩa của “nghị” là “quả quyết” nhưng khi giải 

thích nghĩa “nghị lực” ông lại giải thích “cái sức bền vững để tiến 

lên”. Thiết nghĩ “nghị” trong bài này cần phải hiểu là nghị lực. Người

 dịch tin chắc, người lãnh đạo, người hướng dẫn tập thể rất cần đức

 tính khoan dung và nhẫn nại. Hiểu đúng chính xác của từ vựng rất 

quan trọng vì có hiểu đúng ý tưởng truyền đạt thì mới thực hiện đúng

 và mới có được kết quả tốt! Nhất là trong việc học tập.

(2) Người dịch nghĩ rằng Tăng tử là người có thể nói là tiếp nhận 

đúng tinh túy của Khổng học. Sau khi đọc giải thích bài này của Shibusawa Eiichi (sẽ giới trong dịp khác), người dịch cho rằng Tăng

 tử đã diễn tả thật đầy đủ và xác đáng đức tính của một người có vai

 trò sĩ nghĩa là kẻ sĩ hoặc người sĩ với ý nghĩa “sĩ” là người lãnh đạo

 tập thể, đám đông hay cả lãnh tụ của một quốc gia. Người dịch tin 

rằng một trong những yếu tố chi phối sự tiến bộ của một quốc gia có

 vững mạnh hay không là số người sĩ như bài này nói của quốc gia 

đó có nhiều hay ít.

Bài 8.11  Việc gì cũng cần phải thỏa đáng, nghĩa là vừa đủ. Do đó 

mới khó. Nên ghi nhớ lời của Tokugawa Ieyasu để giải quyết khó 

khăn này: “Không đủ thì có thể đền đáp lại sau, còn quá đáng thì 

không thể lấy lại được”.

Tử viết: “Hiếu dũng, tật bần, loạn dã. Nhân nhi bất nhân, tật chi dĩ 

thậm, loạn dã.”

子 曰:好 勇 疾 貧,亂 也。人 而 不 仁,疾 之 已 甚,亂 也。

Ghi chú: Ở sách Khổng Tử & Luận Ngữ của Nguyễn Hiến Lê là

 Bài 8.10.

Dịch

Khổng tử nói: “Kẻ hiếu dũng mà lại ghét cảnh nghèo khổ thì sẽ làm

 loạn. Người bất nhân mà bị ghét bỏ thái quá thì sẽ nổi loạn.

Giải thích

Sự thích đức dũng là việc tốt. Tuy nhiên nếu không biết an phận thì

 chắc chắn sẽ tự mình gây ra loạn.

Sự chán ghét người bất nhân là tốt. Tuy nhiên, nếu chán ghét quá 

đáng thì trở nên quá khích đến mức gây ra loạn.

Cần phải có sự phân biệt giữa tốt và xấu nhưng việc gây ra loạn thì

 chỉ là một (ý nói dù là lý do gì thì việc gây ra loạn chỉ có xấu xa). Do

 đó không thể không cảnh giác.

Nhận xét

(1)   Đối với trường hợp chống lại ngoại xâm thì sao? Đúng là gây ra

 loạn lạc, chiến tranh sẽ làm khổ nhiều người nhưng vì vậy mà phải

 chịu đựng mất nước sao? Hay phải theo cách bất bạo động của Mohandas Karamchand Gandhi (1869~ 1948). Một đề tài rất quan 

trọng của loài người để tránh tai hại tàn khốc của chiến tranh bạo 

lực.

(2)   Khổng tử nói “Quá đáng cũng như không đủ” (Thái quá do bất

 cập, Bài 11.15). Do đó, ông chủ trương Trung Dung. Tuy nhiên, Tokugawa Ieyasu nói “Không đủ thì có thể bù trừ, đền đáp lại sau, 

còn quá đáng thì không thể lấy lại được”. Cách suy nghĩ này thật

 đáng cho chúng ta suy nghĩ khi hành động, nhất là khi ở trong trạng

 thái tức giận.

Ngày 26/7/2024

CHƯƠNG 9 TỬ HÃN

Bài 9.1 Lý do Khổng tử ít nói về: lợi, thiên mệnh và đức nhân. Nhưng

 thật sự lời ghi chép về đức nhân trong Luận Ngữ không ít.

Tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân.

子 罕 言 利,與 命 與 仁。

Dịch. – Khổng tử ít nói tới lợi, với mệnh, và đạo nhân.

Giải thích

Nói đến lợi ích thường hay ngăn trở sự xúc tiến việc nghĩa. Tuy nhiên

 nếu là lợi ích của quốc gia hay lợi ích của dân chúng thì cần phải 

nói đến, không nói không được. Nguyên lý của thiên mệnh (nguyên

 văn: mệnh chi lý) thì vi diệu (không rõ ràng, khó hiểu rõ). Nếu nói

 hấp tấp không đầy đủ, tận tường chắc chắn dễ gây hiểu lầm đưa đến

 sự xem nhẹ sự quan trọng của các quan hệ gần gũi đối với người và

 vật. Hiệu quả của đức nhân rất vĩ đại. Nếu hấp tấp nói ra dễ gây ra 

hiểu lầm đưa đến việc không đánh giá xác đáng mức độ hiệu quả 

thật sự to lớn của đức nhân. Đó là lý do phu tử ít đề cập về lợi ích,

 thiên mệnh và đức nhân. Đó là phong cách phu tử xem trọng đức 

và thận trọng trong các lời dạy của mình.

Có người hỏi tôi như sau. Trong sách Luận Ngữ số lần đề cập về đức

 nhân rất nhiều sao ở bài này nói ít đề cập là tại sao? Đọc kinh Thi,

 kinh Thư và thực tập lễ là việc mà phu tử thường đề cập tới. Tuy 

nhiên, hiện nay nội dung về việc này còn lưu lại rất ít. Suy xét từ sự

 thật này chúng ta có thể đoán có nhiều nội dung về việc làm thời xưa

 đã bị cắt bỏ. Tuy nhiên về đức nhân, điều được xem là quan trọng, 

do đó chắc chắn đã được các môn nhân và đệ tử của phu tử đã ghi 

chép lại chi tiết, đầy đủ nên còn lưu lại đến ngày nay. Việc này có thể 

hiểu được. (Ý nói các việc khác không quan trọng bằng đức nhân

 nên không được truyền lại do cắt bỏ đi, còn đức nhân quan trọng

 nên được truyền lại đầy đủ. Kết quả nội dung về đức nhân trở thành

 nhiều.)

Nhận xét

(1)   Đối với ngũ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí, và tín, số bài về đức trí

 nhiều nhất và thứ 2 là về đức nhân.

(2)   Việc ít nói về thiên mệnh của Khổng tử rất đáng để chúng ta suy

 ngẫm và nễ phục ông. Đúng như nội dung ông đã dạy cho Tử Lộ

 “Biết điều gì thì nhận là biết, không biết thì nhận không biết, như 

vậy là biết.” (Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.) Vào lúc thời

 của ông, khoa học còn chưa phát triển mà ông đã tinh thần như vậy

 trong khi về sau khoa học đã tiến bộ xa hơn nhưng có nhiều học giả

 vẫn nói nhiều về thiên mệnh.

Bài 9.28 Hiệu quả chính yếu của 3 đức, trí: không sai lạc; nhân: 

không lo âu; dũng: không sợ sệt.

Tử viết: “Trí giả bất hoặc, nhân giả bất ưu, dũng giả bất cụ.”

   子 曰:知 者 不 惑,仁 者 不 憂,勇 者 不 懼。

Dịch

Khổng tử nói: “Người trí thì không mê hoặc, người nhân thì không 

lo, người dũng thì không sợ.

Giải thích

Nội dung bài này ca ngợi trí, nhân, dũng là đức tối thượng.

Người có đức trí thì giỏi về lý (nguyên lý, quy luật chi phối sự vật) 

nên không sai lạc.

Người có đức nhân thì tâm hồn khoan đại (khoan dung, độ lượng 

rộng) nên không lo âu.

Người có đức dũng thì quyết đoán giỏi nên không sợ sệt.

Ba điều này là toàn thể của đạo đức, là cương lĩnh (các điều trọng 

yếu) của việc học.

Nguyễn Sơn Hùng

Bổ sung ngày 4/9/2024

Tài liệu tham khảo

1)    Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản

 13, Chuokouronsha

2)    Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)

3)    Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994),

 Heibonsha.

4)    Chu Hy: Luận Ngữ Tập Chú, Tsuchida Kenjirô dịch chú (2014),

 Heibonsha.

5) Shibusawa Eiichi (nói miệng), Otate Koretaka (viết ghi lại) (1925):

 Luận Ngữ Giảng Nghị (tiếng Nhật), Nhị Tùng Học Xá xuất bản bộ.


Mời Xem Lai :

TÌM HIỂU Ý NGHĨA 

ĐỨC NHÂN TRONG 

LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA 

CỦA ITÔ JINSAI 

(Bài 4)












Không có nhận xét nào: