Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

Chữ Nghĩa Làng Văn - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng



Chữ Nghĩa Làng Văn
                     Ngộ Không Phí Ngọc Hùng



“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phí Ngọc Hùng.


***


Chữ Việt cổ

Bủm: túm lại

(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)



Đồng Tháp Mười

Đồng Tháp Mười: Theo tập san Sử Địa số 14, 15 năm 1969, viết:
“Tháp mười là một trong những ngôi tháp làm bằng đá do vua Jayavarman VII xây cất để thờ vị thần Bà La Môn.

Thời gian trôi qua, tàn phá tất cả các công trình kiến trúc cổ, chỉ còn một tượng sư tử đá và một linh phù (linga) cũng bằng đá, dưới bệ có khắc chữ Bắc Phạn (sanscrit) ghi tên Tháp thứ mười.

(Nguồn gốc một số địa danh miền Nam – Hồ Đình Vũ)



Chữ Việt cổ

Chậy: sai

(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)




Nếu sinh vào tháng nào thì tính cách ứng với loại cây nào?

Theo như có những người sinh vào những tháng khác nhau, cũng sẽ có khí chất, khuôn mẫu khác nhau. Bạn sinh vào tháng mấy, bởi sách Lễ Ký có câu: "Tháng đầu Xuân, đức lớn tại Mộc". Cây cối mọc vào các mùa khác nhau, mỗi mùa đều có tính chất riêng.

Tháng Giêng, cây bách
   
    1 - Tháng giêng - cây bách   
Ngạo nghễ nhìn liễu rụng, cười nhạo cánh mai rơi
Chẳng sợ đông giá rét, gió sương chẳng tổn thương

("Cây bách mới trồng trong sân" - Sầm Tham)

Những cây bách kiêu hãnh trước sương giá và tuyết rơi, quanh năm xanh tươi. Bạn sinh ra vào tháng 1, tính cách cứng cỏi, bướng bỉnh. Làm việc có nguyên tắc, có giới hạn, không ai có thể khiến bạn cúi đầu. Biết rõ mình muốn gì và làm việc để có được mục tiêu đã đề ra.

           (Lý Văn Hàm)




Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

Không tham lam không phải quan huyện
Không nhìu chiện không phải…. Ziệt Nam





Thi sĩ Đinh HùngVũ Hoàng Chương

Những thiên tài bạc mệnh của Sài Gòn xưa


Vũ Hoàng Chương dạy học tại trường Văn Lang. Đinh Hùng viết báo và bình thơ tại đài phát thanh. Cả hai kiếm tiền không đến nỗi chật vật nhưng lại đều không tậu được cho mình một mái ấm là vì họ trót dính đến "nàng tiên nâu" nên kiếm tiền bao nhiêu đều tan thành mây khói. Để kiếm một chỗ ở thoải mái hơn, họ Đinh và họ Vũ tạm chia tay nhau, mỗi gia đình đi thuê một nơi ở khác. Tác giả “Thơ Say” dọn về chợ Vườn Chuối. Họ Đinh thì mướn một căn gác hẹp ở xóm lao động gần đường Frères Louis (trước 1975 là đường Võ Tánh). Xóm lao động này có ngõ dẫn ra đường Lê Lai. Con đường nằm bên cạnh ga xe lửa Sài Gòn.

Chỗ ở mới cũng không hơn gì căn nhà ở xóm Hòa Hưng, chật hẹp, tối tăm, nóng bức. Mỗi lần xong việc ở đài phát thanh, Đinh Hùng thường rủ chúng tôi về nơi ở, không phải ở nhà anh mà là họp nhau tại một quán rượu ở gần nhà, đường Lê Lai. Đường này thường đêm vắng ngắt, có lần uống say, Đinh Hùng cao hứng mở cuộc thi… bò ra đường xem ai bò nhanh. Thế là Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Đinh Hùng, Thái Thủy, Hoàng Thư, Quách Đàm… hăng hái tham gia. Bò xong rồi nằm lăn ra đường, vừa đọc thơ, vừa cười.

                 (Tô Kiều Ngân)


Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 1
Ðúng như tên gọi, tác phẩm “Ðỗ Ngọc Yến giữa bạn bè” một tuyển tập những ký sự và hồi ký của 53 tác giả vừa hoàn tất và được báo Người Việt ấn hành. Sách dày 412 trang kể cả một số trang hình ảnh kỷ niệm với bìa trình bày trang nhã, đã lần lượt đến tay những thân hữu. Con số 53 tác giả đã góp thành tuyển tập “Ðỗ Ngọc Yến giữa bạn bè” gồm những bằng hữu của ông, những người đã cùng ông dấn thân vào những hoạt động thanh niên, giáo dục và xã hội từ cách đây nửa thế kỷ, những thân hữu, những đồng nghiệp có ít nhiều kỷ niệm với nhà báo sống trọn đời mình cho thanh niên, xã hội và báo chí truyền thông này.

Nội dung cuốn sách chẳng có gì to tát để có thể gọi là vinh danh hay ngợi ca những việc làm của một người, mà ngược lại hầu hết các trang sách đều liên quan đến những kỷ niệm vui của những người từng biết nhà báo Ðỗ Ngọc Yến từ thời trai trẻ cho đến lúc sau này. Tôi gọi tác phẩm chỉ là một tập hợp những lời chia sẻ, gợi nhớ với nhau những kỷ niệm của những người bạn đã có với ông Yến trong suốt những giai đoạn hoạt động thanh niên và báo chí, cho tới khi luống tuổi, gần đất xa trời.

Kỷ niệm đó có thể sâu đậm, có thể chỉ là thoáng qua, nhưng tựu trung nó có thể góp lại thành bức chân dung sống động của “một nhà báo tò mò,” “một nhà báo thích lang thang,” “một nhà báo giang hồ vặt,” và nhất là lòng đam mê báo chí ngay cả lúc nằm trong bệnh viện... như lời Ðỗ Quý Toàn đã viết trong bài “Yến, từ những ngày tuổi trẻ.

                     (Vũ Ánh)

  
Bia - Do Ngoc Yen 2 
Tiểu sử
Đỗ Ngọc Yến sinh năm 1941 – Mất ngày 17.8.2006
Tác phẩm
Nhà báo, sáng lập báo Người Việt và Thế Kỷ 21 tại Westminster, California.


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Nghe trong vần chuyển đất trời
Có ta hạt bụi giữa đời phù du




Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 2
Những kỷ niệm với nhà báo Ðỗ Ngọc Yến còn trải dài qua những bài viết đáng chú ý của Lê Thiệp, Nguyễn Ðình Toàn, Nguyễn Xuân Hoàng, Nhã Ca, Phạm Cao Dương, Phạm Phú Minh, Phạm Quốc Bảo, Phan Huy Ðạt, Phan Nhật Nam, Thảo Trường, Thụy Khuê, Trần Mộng Tú, Võ Long Triều, Võ Phiến, Vũ Ánh,…v...
Trong những bài viết, những tác giả chỉ nói tới những kỷ niệm với một người bạn, một đồng nghiệp cho nên những nét chấm phá đó đã tạo nên những khối màu khác nhau, đa dạng, lạ lùng nhiều khi làm cho những người bạn cùng chơi thân với Ðỗ Ngọc Yến nhưng chưa bao giờ được nghe.
Chẳng hạn như Lê Thiệp, một nhà báo trước đây từng làm việc cho tờ Chính Luận từ Washington DC xuống quận Cam chơi và cũng để góp bài về Ðỗ Ngọc Yến, đã âm thầm mở cuộc phỏng vấn bà Lã Phương Loan, người bạn đời của ông Yến. Không hình ảnh nào trung thực hơn là vợ mô tả chồng mình và đây là một chi tiết thú vị trong bài “Người nữ đằng sau”:
“...Kể lại chuyện đám cưới sau 40 năm, bà Ðỗ Ngọc Yến cười cho hay, một tí nữa thì đám cưới bất thành... vì không có chú rể. Vào tối hôm trước, khi nhà trai ở Sài Gòn đã thu xếp xong, thuê hẳn một chuyến xe đò đi Nha Trang rước dâu, mọi người tề tựu thì không thấy chú rể. Cả nhà túa đi tìm, nhưng không biết tìm nơi đâu. Chả là vì chú rể vẫn còn mải họp hành, tổ chức, hội thảo biểu tình gì đó, suốt đêm chưa xong... Khi ông Yến mắt nhắm mắt mở trở về nhà, vẫn còn ngáp lên ngáp xuống, đầu bù tóc rối, quần áo lếch thếch. Xe đò tới Nha Trang, việc đầu tiên là chú rể phải ra tiệm hớt tóc.” (trang 185)

                    (Vũ Ánh)


            
Vu Anh 1  
 
Vũ Ánh tên thật Vũ Văn Ánh sinh ngày 5 tháng 5 năm 1941 tại Hải Phòng. Từ năm 1964, ông làm phóng viên chiến trường, dần dần lên đến Chánh Sự Vụ Sở Thời Sự Đài Phát thanh Sài Gòn, một chức vụ khiến ông bị bắt và bị giam trong trại cải tạo suốt 13 năm. Ông được xem là nhà báo mẫu mực, có kiến thức thâm sâu, và là người cương trực, thẳng thắn và tôn trọng sự thật. Ông qua đời đột ngột ngày 14 tháng 3 năm 2014.
tuduyen_tranbinhtrong
Họa si Tú Duyên (1915-2012), tên thật Nguyễn Văn Duyến, sinh tại Bắc Ninh, từng học tranh khắc gỗ ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Năm 1939, gia đình vào Sài Gòn, ông bắt đầu vẽ cho các báo và sáng tác tranh lụa. Năm 1942, Tú Duyên cải tiến kỹ thuật làm tranh mộc bản gọi là ‘ thủ ấn họa’, tạo dấu ấn đặc biệt trong giới nghệ thuật tạo hình. Qua nhiều cuộc triển lãm cá nhân và tập thể, tranh của họa sĩ được trân trọng và lưu lại tại nhiều bảo tàng trong và ngoài nước.

Không khí buổi trưa vừa tạm yên ắng, dịu bớt sự oi ả của một ngày cuối năm, con đường Nguyễn Công Trứ, với những quán cà phê ‘dã chiến’ rải rác hai bên lề tại trung tâm thành phố Sài Gòn vào cuối thế kỷ 20 luôn ồn ào hối hả trong cuộc sống thường nhật của thị dân. Giữa căn phòng không rộng dùng làm nơi tiếp khách, bề bộn những tranh vẽ treo trên vách và những khuôn khắc gỗ dựng, treo lủ khủ đó đây. Ngồi trên chiếc ghế nhỏ thấp lè tè là một người đàn ông trông khá cao tuổi, chân mang guốc mộc, dáng hơi gầy nhưng phong thái nhanh nhẹn. Trong chiếc áo măng tô cũ dài chấm gối, lấm tấm vệt màu, tay vừa chỉnh lại tròng kính lão, người đưa mắt nhìn đăm đăm vào bức tranh vẽ dở chưa xong còn treo trên vách. Đó là Tú Duyên, người họa sĩ đã cách tân nghệ thuật làm tranh khắc gỗ (woodcut paintings) mà người ta gọi là ‘thủ ấn họa’ (hand wood engraving paintings).

                          (Nguyễn Thanh)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Ngày sẽ hết và tôi không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian này mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
(Bùi Giáng)


Chữ nghĩa làng văn
Đoàn Phú Tứ (1910-1989) là một nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả nổi danh từ thời tiền chiến. Khi viết, ông ký tên thật hoặc các bút danh như : Tam Tinh, Tuấn Đô, và... Ngộ Không,
Ông lấy bút danh “Ngộ Không” dựa vào “Vạn sự giai không” là mọi thứ trên đời đều là tạm bợ, hư ảo không có thật..

Vạn sự giai không” thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan căn bản nhất của tư tưởng đạo Phật: Kinh Bát nhã ba la mật chép: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”
Với ngữ nghĩa sắc chính là không, không chính là sắc.


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Thiên đường hữu lộ vô nhân vấn
Địa ngục vô môn hữu khách tầm



Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Mỹ nhân và danh tướng có điểm giống nhau là đều có những phút huy hoàng; một bên là nhan sắc, một bên là chiến công lừng lẫy. Họ muốn giữ mãi danh vọng ấy nên không muốn cho nhân gian thấy hình ảnh của mình khi tàn tạ.
Thời gian là kẻ thù của tồn tại. Thời gian làm mục nát mọi thứ, làm tàn phai những gì người đời tôn quý. Những vàng son chói lọi ngày nào rồi chỉ còn lại là vết bụi mờ trong ký ức.
Cảm nhận ý này, Nguyễn Bính, nhà thơ tài hoa mệnh bạc đa tình lìa đời năm 48 tuổi - tuổi 48 chưa phải là lúc đầu bạc - Thơ vận vào đời, nhà thơ tài hoa viết bài Viếng Hồn Trinh Nữ, khóc mĩ nhân sớm lìa trần:

Tôi với nàng đây không biết nhau,
Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.


Nguyễn Bính kết thúc bài thơ đa tình bằng hai câu vốn quen thuộc từ xưa. Câu thơ được người đời nhắc mãi mà xuất xứ thơ từ đâu thì không rõ lắm. Nhiều truyền thuyết giải thích khác nhau.

Tùy Viên thi thoại của Viên Mai chép lại câu chuyện kể:

…Chú của Tiến sĩ họ Tra có làm bài thơ Điệu Vong Cơ khóc người thiếp qua đời. Bài thơ được nhiều người họa lại. Riêng bài họa của một hầu thiếp tên là Diễm Tuyết có hai câu kết: “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng/ Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu” (Người đẹp nghìn xưa như tướng giỏi/ Chẳng hẹn nhân gian thấy bạc đầu) là hay nhất.

Lại có thuyết khác:
Cuối đời Khang Hy nhà Thanh, có người thiếp nhà họ Ðồng tên là Triệu Diễm Tuyết ngụ tại “Ðồng Gia lâu” bên bờ sông Vệ, thành phố Thiên Tân. Lúc này ở Thiên Tân đang thịnh hành tục tế Thần Hoa. Theo phong tục, vườn nhà “Ðồng Gia Lâu” trồng đầy cả hoa hải đường. Giỏi thơ văn, Triệu Diễm Tuyết có làm bài thơ Tiêu Hồn Hải Đường với nhiều ý mới lạ, được nhiều người truyền tụng. Từ đó Đông Gia Lâu được gọi là Diễm Tuyết Lâu. Riêng bài thơ của Triệu Diễm Tuyết nay chỉ còn lưu giữ được hai câu cuối trên.


Những tác phẩm trong… sọt rác
Vậy là Hai sắc hoa ti gôn đi vào đời sống thơ ca Việt Nam...
     Kể câu chuyện tâm sự mấy mươi năm xưa cũ, nhà văn Ngọc Giao (*) còn cầm bút ghi vào cuốn sổ lưu niệm của một bạn văn cùng thời là nhà văn Phạm Văn Kỳ cũng từng làm thư ký toà soạn tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Những dòng lão nhà văn Ngọc Giao ghi vào sổ lưu bút của lão nhà văn Phạm Văn Kỳ có đoạn:

“Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh bị bỏ rơi sọt rác như vậy. Nó càng được bạn đọc nhắc đến bao nhiêu, tôi càng ân hận về lỗi làm ăn cẩu thả, sơ xuất bấy nhiêu. Nếu không có cái đám ma qua phố thổi kèn rầu rĩ đó thì tôi đã đội mũ lên đầu, không cúi xuống sọt rác... thì đoá hải đường Hai Sắc Hoa Ti Gôn đành an phận nằm trong đó, rồi người ta mang đi theo thường lệ, người ta phóng lửa đốt cả. Trong đó, rất có thể cả những áng văn hay mà cái anh thư ký toà soạn quan liêu, cẩu thả đã ném đi!...”.
(Hồi ức của nhà văn Ngọc Giao (*)
về bài thơ Hai sắc hoa ti gôn)



* Ngọc Giao sinh ngày 5 tháng 5 năm 1911 tại Huế trong một gia đình trung lưu. Quê quán ông ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Năm 7 tuổi, ông theo gia đình ra Bắc, học ở Quảng Yên rồi Hà Nội. Sau khi đỗ bằng Thành chung (1928), ông ra làm báo và viết văn. Nhà văn Ngọc Giao mất ngày 8 tháng 7 năm 1997 tại Hà Nội, thọ 86 tuổi.
Tác phẩm: Truyện Thôn Kiều, Truyện Ngắn và Ký, Hà Nội Cũ Nằm Đây, Đốt Lò Hương Cũ, Phan Đình Phùng


Ngô Thì Sỹ với Tán Lý Thường
Ông Thường (Tán Lý Thường), đời loạn Tây Sơn ra lấy Bắc, con nhà học trò giỏi văn chương chữ nghĩa, cũng là bạn học với ông Ngô Thì Sỹ; giận ý kẻ nịnh lại hổ vì bị nhục mà vào Gia Định ở, đầu thầm với vua Gia long. Vô một năm rồi ra ngoài Bắc, giả chết, biểu vợ con giả đò chôn cất để tang để chế cho, rồi mới vào lại làm tôi vua Gia Long.
Khi trước ở ngoài ấy còn hàn vi đi đường gặp ông Ngô Thì Sỹ là bạn học, mà khi ấy làm quan lớn, đi võng điều lọng lợp binh gia rần rộ (làm quan cho vua Quang, nhà Tây Sơn). Mặc áo rộng, đội nón tu lờ điệu học trò; đi né tránh bên đường, lính nó nói sao có vô phép, nó bắt nó vật xuống đánh cho vài chục. Quan lớn mới hỏi là ai, thì bẩm rằng mình là học trò; thì Ngô Thì Sỹ mới rằng: "Có phải là học trò thì ra câu đối cho mà đối". Ra rằng:
Ai công hầu? Ai khanh tướng? lúc trần ai, ai dễ biết ai?
Ông Thường đối lại rằng: 
Thế chiến cuốc, thế xuân thu, gặp thì thế, thế nào thì thế.

(Kể chuyện câu đối Việt Nam - Vũ Xuân Đào)


Chữ nghĩa làng văn
Người tình cuối trong cuộc đời Hồ Xuân Hương là ai?
Trong thời gian yêu và lấy Trần Phúc Hiển, Xuân Hương đã vài lần phải tạm xa chồng, bằng chứng là có hai bài thơ Nôm trong tập Lưu Hương ký ghi lại việc này. Bài thơ vừa đề tặng và cũng để nhắc nhở đấng phu quân chớ quên tình nghĩa vợ chồng.

Bạch Đằng giang tặng biệt
(Tặng bạn khi chia tay ở sông Bạch Đằng)

Khấp khểnh đường mây bước lại dừng,
Là duyên là nợ phải hay chăng.
Vín hoa khéo kẻo lay cành gấm,
Vục nước xem mà động bóng giăng.
Lòng nọ chớ rằng mây nhạt nhạt,
Lời kia này đã núi giăng giăng.
Với nhau tình nghĩa sao là trọn,
Chớ thói lưng vơi cỡ nước Đằng.


Khi chồng giữ chức Tham Hiệp trấn Yên Quảng, Xuân Hương đã được chồng nhờ giúp các công việc hành chính ở công đường và nổi tiếng là một tài nữ. Xuân Hương đã đi thăm nhiều nơi. Trấn Yên Quảng khi đó có phủ Hải Đông gồm 3 huyện (Yên Hưng, Hải Đông, Hoành Bồ) và 3 châu (Tiên Yên, Vạn Ninh, Vân Đồn) với 16 tổng, 123 phường, phố, vạn, xóm.
                     (Uông Triều)


Ai là người dịch Chinh phụ ngâm
Sách Đăng Khoa Lục sưu giảng của Trần Tiến đời Lê có chép chuyện bà Nguyễn Thị Điểm. Sách Tang Thương Ngẫu Lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đời Nguyễn lại chép chuyện bà Đoàn Thị Điểm. Hai nữ sĩ trong hai truyện trùng tên, khác họ...và ai là người đã dịch Chinh Phụ ngâm khúc ra chữ Nôm?

Đoàn Thị Điểm và Nguyễn Thị Điểm là một người ?

Đầu thập niên 70 vừa qua, các nhà nghiên cứu đã về Hải Dương đọc gia phả họ Đoàn và tìm gặp gia tộc họ Nguyễn Trác thì mới rõ là có hai bà Đoàn Thị Điểm và Nguyễn Thị Điểm. Hai bà có những chi tiết trùng hợp đến kỳ lạ.
Trước hết cả hai cùng sống vào thời Lê Trung Hưng, đời Trịnh Giang: bà Nguyễn Thị Điểm ở Bình Lao trang, trấn Hải Dương còn bà Đoàn Thị Điểm thì quê ở Giai Phạm, huyện Đường Hào cũng thuộc trấn Hải Dương cả hai đều giỏi văn thơ và điều lạ là cả hai bà đều có anh tên là Luân, một người là Đoàn Doãn Luân và một người là Nguyễn Trác Luân... nhưng gia thế cũng như cuộc đời của hai bà thì khác nhau nhiều.

Bà Nguyễn Thị Điểm thuộc gia đình quyền quí; anh là Nguyễn Trác Luân đỗ tiến sĩ năm 1721, làm quan đến chức Phó Đô Ngự Sử và là tay chân thân tín của chúa Trịnh Giang. Chính Nguyễn Trác Luân là người đã giúp Trịnh Giang phế truất rồi giết vua Lê Duy Phường rồi theo lệnh Trịnh Giang làm giả tờ sắc tấn phong cùng ấn tín của vua nhà Thanh sang phong cho Trịnh Giang làm An Nam Thượng Vương... Em gái là Nguyễn Thị Điểm về sau còn dạy học ở kinh đô, thọ đến 78 tuổi.

Sách Đăng Khoa Lục sưu giảng có chép: Bà Nguyễn Thị Điểm có viết cuốn “Truyền Kỳ Tân Lục” (Truyền Kỳ Tân Phả).

01220305_hinh%201a
Truyền Kỳ Tân Phả - Văn Giang Hồng Hà Đoàn phu trước tác

(Truyền Kì Tân Phả do Văn Giang Hồng Hà Đoàn phu nhân soạn - Thư viện Quốc gia. Bản chụp của nomfoundation)

                    (Nguyễn Cẩm Xuyên)



Tên nước Việt Nam
Có nguồn cho là tên nước Việt Nam có từ đời Trần, đời Lê. Lý do có ngộ nhân này vì chữ Tàu không viết hoa 2 chữ "Việt Nam". Mà là “việt nam”, thế nên với Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, người sau nên hiểu theo chữ quốc ngữ là đất đai phía nam đất Việt.
Còn Hồ Tông Thốc viết Việt Nam Thế Chí thì tạm hiểu là sách ghi chép các đời vua phía nam đất Việt. Vì rằng các vua triều Lý (1010-1225), Trần (1226-1400), và Lê (1428-1527) rõ ra tên nước ta là Đại Việt. (1)

(1) xem kỳ tới tiết mục: Biên niên và tên gọi Việt Nam ngày naỵ.


Việt Nam sử lược
Vào những năm cuối của thập kỷ 90 của thế kỷ trước , tác phẩm Việt Nam Sử Lược bắt đầu cho xuất bản trở lại ở Việt Nam.
Đa số đều không có Lời Nhà xuất bản.

Với Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin thì Lời Nhà xuất bản có ghi:
“ Tuy nhiên, cuốn sách được viết dưới chế độ thực dân phong kiến nửa thuộc địa nên không khỏi có đôi điều hạn chế về cách nhìn nhận cũng như thiếu sót về mặt sử liệu”.
Bởi vậy, những chỗ sai sót so với chính sử hiện nay, chúng tôi xin được phép lược bỏ hoặc có chú thích- ghi rõ biên tập ở dưới để bạn đọc tiện theo dõi so sánh” (1)

(1) Các từ ngữ mà cụ Trần Trọng Kim dùng khi viết Việt Nam Sử Lược như : Giặc cướp; khởi loạn; biến loạn; giặc giã; quấy nhiễu; loạn; phiến động; đánh dẹp; bảo hộ… đều được Nhà xuất bản chú thích lại .

              (Nguyễn Văn Nghệ)



Khoa cử thời xưa

Thi Hội
Khoa thi Hue 1900
(thi Hội ở Huế năm 1900)

Thi Hội: kỳ thi ở kinh đô (Thăng Long thời Lê, Huế thời Nguyễn) dành cho các người đã đỗ thi Hương và cũng phải trải qua 4 kỳ với các bài thi như thi Hương nhưng khó hơn. Trường thi cũng như thi Hương cắm lều, bạt ở bãi đất trống.

Ky thứ nhất: bài về Kinh nghĩa
Ky thứ hai: bài về thơ Đường
Ky thứ ba: bài về Chế, Chiếu, Biểu (văn thư hành chánh)
Ky thứ tư: bài về Văn sách (bài văn theo thể đối ngẫu)
 
         (Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội - Bùi Xuân Đính)


Văn Miếu và Quốc Tử Giám
Sau nhiều năm chiến tranh đã diễn ra liên tiếp tại kinh thành Thăng Long cho nên Văn Miếu - Quốc Tử Giám dã bị hư hại đổ nát. Đời Tây Sơn khi vua Quang Trung ra Bắc dân chúng sở tại đã dăng số xin triều đình sửa sang tu bổ. Nhà vua đã phê vào tờ sớ hai câu thơ bằng chữ Nôm như sau: "Nay mai dựng lại nước nhà, Bia Nghè lại dựng trên toà muôn gian...". Đời Nguyễn: Năm 1804, sau khi vua Gia Long lên ngôi, đã chuyển kinh đô vào Huế, Văn Miếu chỉ còn lại ở trấn Bắc Thành. Quốc Tử Giám được chuyển vào Huế.

Van Mieu - 12

 (Khuê Văn Các)


Năm 1805, tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành đã cho tu sửa Văn Miếu và xây dựng thêm Khuê Văn Các.

  
Van Mieu Hue     Về hai tấm bia trong hai bi đình trên sân Văn Miếu (Huế) ghi khắc các nội dung khá đặc biệt: Tấm bia bên trái khắc bài Dụ của vua Minh Mạng đề ngày 17 tháng 3 năm 1836 nói về các thái giám trong nội cung thì không được liệt vào hạng người có thể tiến thân; còn tấm bia bên phải khắc bài Dụ của vua Thiệu Trị đề ngày 2 tháng 12 năm 1844 nói rõ rằng bà con bên ngoại của vua không được nắm những vai quan trọng trong triều đình.

Hai nội dung nầy khiến cho ta suy nghĩ. “Thái giám” là những công bộc phục vụ trong cung, chịu nhiều hành hạ về thể xác, để phục vua cho vua lại mất hết con đường tương lai trong công danh. Còn những người bên ngoại lại không được làm quan? Phải chăng đây là di sản của chế độ trọng nam khinh nữ?
            (Kiêm Thêm)



Tên Nôm tên Tự - 1
Sự hình thành tên “Đền Quán Thánh”:
Phía bắc thành phố để tới Yên Phụ, dễ nhìn thấy tòa tam quan trầm mặc với 4 cột trụ phía trước, cắt ngang mặt là Hồ Tây. Dân gian có câu “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”, chính là nơi đây mọi người từng được biết tới các tên gọi như “Đền Quán Thánh”, “Trấn Vũ Quán”, “Chân Võ Quán”.

Đền Quán Thánh tương truyền hình thành từ thế kỷ 11 đời vua Lý Thái Tổ, trải qua các giai đoạn trùng tu 1618, 1677, 1768, 1836, 1843, 1893, 1941 đều được ghi trên văn bia. Thời vua Minh Mạng thế kỷ 19 đắp 3 chữ 真 武 觀 tại cổng tam quan trong khi ở trong chính đường có chữ 鎮 武 觀.

Tên là Trấn Vũ hay Chân Võ còn loại là Quán.

“Quán” là nơi sinh hoạt thờ cúng của đạo giáo. Đền thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ trước bằng gỗ, sau bằng đồng đen cao 4m nặng 4 tấn, trong tư thế ngồi, tay nắm đốc gươm, tay bắt quyết. Tục gọi là “Thánh đồng đen”.

Theo Đình và Đền Hà Nội đời vua Lê Thánh Tông (thế kỷ 15), Nguyễn Công Định đi sứ Trung Quốc mang về tượng Văn Xương đế quân đem thờ trong Đền Trấn Vũ, sau được hội Hướng Thiện mang về thờ tại Đền Ngọc Sơn năm 1843.
     (David Phùng – Tên gọi Nôm một số kiến trúc tôn giáo)




“Nhiều chuyện” với hẻm
Hẻm ở Sài Gòn là nơi có quán cà phê, quán ăn, quán bar nổi tiếng được mở ra từ hàng chục năm nay.

Với người tha phương mưu sinh, tuổi thơ của họ là những tháng ngày chăn trâu ở cánh đồng đầu làng. Cây đa, giếng nước, sân đình, đường làng rợp bóng cây che… là ký ức tuổi thơ. Riêng với người Sài Gòn, dẫu có đi đâu, bao năm vẫn nhớ con hẻm nhỏ thân thương gắn liền với tuổi thơ. Ở đó có bà hàng nước, cô chủ bán bún riêu hay một ông lão bán báo…
               (Trần Tuy An)




Tên Nôm tên Tự - 2
Đền Quan Thánh trong đó chữ “Quan” không có dấu sắc, là tên được gọi trong một khoảng thời gian dài, đi sâu vào tiềm thức của một lớp cư dân thủ đô trong thế kỷ 20. “quán” là chữ Hán có nhiều nghĩa và có 2 âm (tức là hai cách đọc khác nhau).

Âm “quán” bính âm tiếng Phổ thông Trung Quốc là /guàn/ gắn với nghĩa miếu đền đạo sĩ, lầu các là nơi vui chơi, cũng có nghĩa là xét thấu, nghĩ thấu như trong “quán chiếu”.
Một âm khác là “quan” bính âm tiếng Phổ thông Trung Quốc là /guan/ gắn với nghĩa “quang cảnh” trong “kỳ quan” hay trong nghĩa khác như “tham quan”. Hiện tượng đồng âm của chữ 觀 gợi ý cho sự nhầm lẫn trong cách đọc. Nó cũng chứng tỏ sự nhầm lẫn bắt nguồn từ nguời học chữ Hán, và chứng tỏ tên Nôm “Đền Quan Thánh” là sự chuyển ngữ, hay sự Việt hóa tên chữ.
        (David Phùng – Tên gọi Nôm một số kiến trúc tôn giáo)



Tản mạn về tiếng Việt
Quả
Mạo từ quả thường dùng trước tất cả mọi thứ quả. Ví dụ như quả cam, quả táo, quả hồng, quả bưởi, quả xoài riêng v.v...
Nhưng cũng gọi quả bóng, quả núi, quả đất, quả địa cầu, quả tạ, quả đấm (để mở cửa), quả pháo, quả cười, quả lừa.
Không biết khi dân ta bắt đầu gọi đất là quả (hay trái, theo tiếng miền Nam), thì có hình dung ra cái hình cầu của nó chưa? Và nếu đã biết nó tròn, thì liệu có biết mặt trời mặt trăng cũng tròn (hay ít là có hình cầu) không, mà lại gọi là mặt trời và mặt trăng? Phải chăng ông cha ta gọi vậy vì nhìn từ quả đất thấy chúng dẹp lép và có hình thù như một khuôn mặt thân thiết nào đó chăng.
Chữ quả còn áp dụng cho cả một thứ không cụ thể và không hình dáng, hình thù gì cả. Đó là… quả cười
             (Minh Võ)


Khoa trương trong ca dao của người Việt
So sánh tu từ X và Y đều là một cụm chủ vị. Ví dụ :

Bây giờ anh lấy người ta
Như dao cắt ruột em ra làm mười


Hay

Nói thì cảu nhạu càu nhàu
Dậy em như nước đổ đầu lá khoai

        (Nguyễn Ngọc Kiên)


Những vai phụ “láy”, “đệm” trong ngôn ngữ Việt
Riêng tôi nghĩ rằng, có lẽ trước tiên ta nên xác định "danh nghĩa" của "từ kép" và "từ đệm" (hay "từ láy") cho tiện giải thích. Theo tôi, "từ kép" là những cụm từ có đôi, có cặp và mỗi từ, khi đứng riêng có nghĩa hẳn hoi và không nhất thiết đồng âm, cùng vần, nhưng lẽ đương nhiên phải có nghĩa tương quan, như những thí dụ mà Anh Bùi Vĩnh Phúc đã nêu ra. "Từ đệm" cũng như "từ láy" là những "từ đơn" vô nghĩa được đệm vào một từ có nghĩa thành những "từ kép" để thêm thắt ấn tượng cho lời nói hoặc câu văn.
Cho dễ hiểu, tôi lấy vài thí dụ lấy từ bài viết của Bùi Vĩnh Phúc:

– "cáu gắt" là "từ kép" ghép từ "cáu kỉnh" và "gắt gỏng", với "kỉnh" (vô nghĩa) đệm cho "cáu" và "gỏng" (vô nghĩa) đệm cho "gắt".


Tương tự, có:

– "la mắng": "la lối" và "mắng mỏ".
– "buồn chán": "buồn bã" và "chán chường".
– "chạy nhảy": "chạy" và "nhảy nhót".
– "tươi tốt": "tươi tắn" và "tốt".

             (Ngô Nguyên Dũng)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ



Cua cáy phiếm lược - con cù kỳ
Cù kì ở Khánh Hòa và Quảng Ninh (Bái Tử Long, vịnh Hạ LongMóng Cái), dễ dàng nhận ra bởi mắt màu xanh lá cây sáng và hai càng rất to. Nó sống trong khe đá, vách đá bờ biển và rừng ngập mặn, nó rất chậm chạp, bám vào đá.

Không chỉ ở Việt Nam mà ở các nước khác (Malaysia, Indonesia). Ta, Tây cũng tin vào chuyện vọng văn sinh nghĩa (bịa ra nghiã) “con cóc là cậu ông trời” là khi người bị cù kì dùng càng cắp vào thì nó chỉ nhả ra khi nào có một tiếng sấm vang lên mà thôi. Vì vậy trong tiếng Anh ngoài tên thường dùng là stone crab (cua đá), người ta còn gọi nó là thunder crab (cua sấm). Thực ra cù kỳ rất lì lợm. Nó cứ cắp chặt đối phương cho đến khi nào cảm thấy an toàn thì mới nhả ra. Cù kỳ có nhiều loại nhưng phổ biến nhất là cù kỳ đỏ và cù kỳ đen (cù kỳ lông)

  
Cua dep tien vua       
 Cù kỳ đỏ được ví như “cua hoàng đế Việt Nam” (King crab) vì có hai cái càng rất to, được người sành ăn săn lùng. Con cù kỳ đỏ, còn được gọi là cua sấm, cua đá, hay con cùm vùm... là loài cua thường chỉ có ở vùng biển Quảng Ninh, Khánh Hoà.

        (nguồn tổng hợp từ người Quảng Ninh)



  
Cù kỳ có mai màu nâu, mắt màu xanh lá cây sáng và có hai càng rất to  
 Cù kỳ đen

      Con cu ky 3             
  Cùm rụm thì cù kỳ hay cua đá là một loại cua biển có hai càng rất to, chân có nhiều lông, thịt chắc và thơm. Nhiều nơi người ta còn gọi nó là con cùm cùm.

Ngoài những món thông thường như cù kỳ luộc, hấp, sốt me…Thần dân “sáng say, chiều xỉn, tối xà quần‘’… quần thảo với cù kỳ nướng: cù kỳ đun sôi nước trong nồi hấp, cho cù kỳ vào với xả và ớt đã sơ chế sạch vào hấp cách thủy từ 10-15 phút cho chín. Bắt bếp than cho than nổi lửa. Xếp cù kỳ đã hấp chín ra vỉ nướng. Nướng cù kỳ trên bếp than hoa đến khi vỏ hơi sém lại màu nâu hay màu đỏ bắt mắt.


Thành phẩm cù kỳ nướng

Đọc truyện & Xem phim “Bác sĩ Zhivago”
Có thể dàn diễn viên nổi tiếng của điện ảnh thế giới đã bảo đảm sự thành công của phim: Omar Sharif (trong vai Bác sĩ Zhivago), Julie Christie (vai Lara), Geraldine Chaplin (vai Tonya) và Alec Guinness (Tướng Yevgraf Zhivago)… Nước Nga thời đó tương đối xa lạ với người xem phim. Những cảnh tượng thật đẹp về tuyết trắng, về rừng taiga, đàn balalaika, kỵ binh cô dắc (Cossacks)… cũng góp phần tạo nên sự thành công của cuốn phim.

Atlanta 2

Atlanta

5 Nhân vật Lara do Julie Christie thủ vai trong bộ phim dựng từ tác phẩm năm 1965

Diễn viên Julie Christie thủ vai Lara
Cuối cùng, âm nhạc trong “Doctor Zhivago” cũng tạo nên một sắc thái “rất Nga” qua tiếng đàn balalaika trong bản nhạc hòa tấu “Lara’s Theme” làm nền. Sau này, bản nhạc đó được chuyển thành lời mà mọi người ưa thích một thời: “Somewhere My Love”.
           (Nguyễn Ngọc Chính)


"Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết
Thầy Từ Mẫn cũng là một người của sách. Khi nhận điều khiển nhà xuất bản Lá Bối, thầy đã tìm in những cuốn sách giá trị. Như trường hợp in bản dịch cuốn War and Peace (Chiến Tranh và Hòa Bình) của Lev Tolstoy. Thầy muốn ông Nguyễn Hiến Lê dịch cuốn này. Khốn nỗi thấy không quen biết chi ông Lê và cũng không muốn nhờ ai giới thiệu. Nhà thơ Du Tử Lê, trong bài “Thầy Từ Mẫn và Nhà Xuất Bản Lá Bối”, kể lại:
“Một buổi sáng, ông tự tìm tới nhà riêng của họ Nguyễn ở đường Kỳ Đồng, Người bạn đời của dịch giả ra mở cửa hỏi ông là ai, cần gặp ông Lê có việc gì? Ông Lá Bối nói mang ít sách tặng ông Lê và nói chuyện về việc dịch bộ truyện “Chiến Tranh và Hòa Bình”.

Bà mời ông trở lại vào buổi sáng hôm sau. Đúng hẹn, ông trở lại. Lần này ông được họ Lê tiếp đón trong tinh thần tương kính giữa nhà xuất bản và dịch giả. Dù ông Nguyễn Hiến Lê nói rõ, để hoàn tất việc chuyển ngữ, ông cần ít nhất một năm rưỡi. Tuy nhiên thực tế, vẫn theo lời của thầy Từ Mẫn thì, chỉ sau một năm thôi, ông đã nhận được bản dịch bộ truyện “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Lev Tolstoy. Phần thưởng lớn bất ngờ mà ông Lá Bối nhận được là chỉ một thời gian sau, bộ sách đã được tái bản”. Đây là duyên khởi để bắt đầu sự hợp tác lâu dài giữa hai người.

Trong cuốn hồi ký của Nguyễn Hiến Lê, dịch giả đã viết về cuộc gặp gỡ này:
Từ đó chúng tôi thân với nhau. Thầy nhỏ hơn tôi, vui vẻ, thành thực, làm việc cẩn thận, trọng chữ tín, có tư cách, kín đáo mà thân mật. Cả Giản Chi và tôi đều khen là đúng đắn nhất trong giới xuất bản. Tôi khởi công dịch “Chiến Tranh và Hòa Bình", dịch kỹ, non một năm rưỡi thì xong. Xoay được đủ vốn, nhà Lá Bối cho in ngay, đầu năm 1969 ra được cuốn 1 khoảng 750 trang, rồi ba tháng sau ra nốt ba cuốn sau, do hai nhà in sắp chữ. In 3000 (hay 5000 bản?), vốn khá nặng, mấy triệu đồng thời đó. Nhờ báo chí giới thiệu và khen, nhờ Lá Bối có sẵn một số độc giả đông, nhờ quảng cáo trên màn ảnh Sài Gòn, nên sách bán chạy. Ba năm sau tái bản, nhưng vừa in xong đủ bộ, gởi trong kho trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội thì quân đội miền Bắc vào khám xét trường tịch thu hết. Thầy Từ Mẫn bị bắt giam để điều tra, hơn một tháng sau mới được thả... Trong số các nhà xuất bản, hợp tác với thầy tôi thích nhất và chỉ trong bốn, năm năm thầy in cho tôi được khoảng chục tác phẩm mà hai cuốn quan trọng nhất, không kể “Chiến Tranh và Hòa Bình” là “Chiến Quốc Sách” và "Sử - Kí của Tư Mã Thiên”, cả hai đều bán chạy, tái bản trong một, hai năm. Giản Chi và tôi ở trong số những nhà văn có nhiều tác phẩm nhất trong tủ sách Lá Bối, sau Nhất Hạnh. Như có duyên tiền kiếp. Gần cuối 1979, thầy Từ Mẫn vượt biên chui, tới Thái Lan gởi thư về thăm Giản Chi và tôi. Tháng 7/1980 thầy qua Mỹ”.

           (Khuyết danh)


Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn
Góc Tự Do –Lam Sơn (Place Garnier) có khách sạn nổi tiếng Caravelle khánh thành 12/1959, thời Pháp gọi là Terrasse hotel, thập niên 1960 thời VNCH nơi đây là tòa Đại sứ Úc, Tân Tây Lan và trụ sở của NBC, ABC và CBS các hãng truyền hình Mỹ.

Chợ Charner vào thập niên 1890 có đường xe lửa chạy bằng hơi nước đi qua, địa điểm nằm giữa đường Ngô Đức Kế và Hải Triều.


Quang cảnh chợ Mới-chợ Sài Gòn Bến Thành

Thay thế chợ Charner, người Pháp cho xây dựng chợ Bến Thành từ năm 1912-1914 ở địa điểm ngày nay, xưa là một vùng ao sình lầy được lấp, ảnh trên chụp khoảng thập niên 1920. Phía trước là quảng trường Cuniac (tên người Pháp lo chuyện lấp ao lập chợ) người Saigon thường gọi chợ này là chợ Sài Gòn.


Chợ Bến Thành 1922

Chuyến xe điện chuyên chở ký ức cùa một thời tràn đầy kỷ niệm. Sài Gòn trong trí nhớ với những con đường với hai hàng sao, với những bông sao quay tròn như bông vụ những khi trời trở gió, của những mùa hè có tiếng ve kêu trên hàng cây điệp, phượng vĩ nở đỏ. Sài Gòn với những địa danh mộc mạc những xóm bình dân xen lẫn khu của những tòa nhà tráng lệ của giai cấp giàu sang ít người gốc Việt, người Việt phần đông sống vùng ven như Phú Nhuận, Gia Định, Gò Vấp vào Sài Gòn làm việc.

Xóm tôi mùa hè có đom đóm bay, có những em bé bắt bỏ vào chai cho chiếu sáng, có nhửng xe mì dạo gõ lóc cóc khi chiều đến, có xe đá bào nhận, có chú ba Tàu “đổ” xí ngầu bò viên, có bánh ướt tôm khô, bò bía, có những người đầu đội bán rao bánh cam bánh vòng, chị bán chè rao trong đêm “ai ăn chè đậu xanh nước dừa đường cát hôn” hay “ai ăn tàu hủ hôn”…. Sài Gòn sáng sớm với tiếng hát Hoàng Oanh, ban đêm thi văn Tao Đàn của Thi sĩ Đinh Hùng với giọng ngâm Hồ Điêp, Quách Đàm, Hoàng Oanh. Đêm Sài Gòn có vũ trường, có đại nhạc hội, có những đoàn cải lương, có những con đường ăn uống.

Những chuyến xe điện đã ngừng hoạt động khoảng đầu năm 1957, nhưng hình ảnh của những đường rầy, những con đường xưa vần còn trong tâm khảm. Dầu gì thì Y Nguyên vẫn được cơ hội đi về Sài Gòn xưa trong tuyến xe ký ức. Hồi ký này hy vọng sẽ là bản đồ nhỏ cho bạn, những ai đi tìm lại Sài Gòn, một thời.

          (Y Nguyên - Mai Trần)


Phúng điếu

Phúng là lễ vật đi viếng người qua đời.
Điếu là đến thăm hỏi, an ủi, chia buồn.
Điếu khách là người đi viếng nhà có tang.

Như thế, phúng và điếu là hai việc khác nhau.
Nhiều tang chủ không nhận lễ vật và viết là “Xin miễn phúng điếu”.
Nhưng viết miễn phúng điếu thì có nghĩa là mang lễ vật đến không nhận mà đến thăm cũng không được.
Như vậy viết miễn phúng điếu có thể không ổn.

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)


Ngôi sao Hàn Thuyên

Anh có tôi trong đời sống anh đôi chút thế nào chẳng biết. Chỉ biết, ở tôi, từ tấm biển Hàn Thuyên 48, những ngày Thanh Hoá xa thẳm, mặc dầu những đứt quãng rộng lớn, cũng gọi là anh đã có, xa gần, đậm, nhạt trong tôi, suốt một đời người. Lắng kiếm một cảm tưởng mới, chẳng thấy gì hơn bằng gọi về, và sống thêm một lần nữa, với một số cảm giác, hình ảnh quen thuộc, đã có về anh từ đầu, tôi vẫn thấy tồn tại sáng rõ trong trí nhớ mình.

Con đường Tiên Tsin. Những cỗ xe điện một toa chạy về ngoại ô Kim Liên. Những dẫy sấu Hàng Cót, Hàng Đậu trên những mái nhà Hà Nội cong trũng. Cái tấm biển của nhóm trí thức lẫy lừng tiền chiến. Đứa nhỏ mơ mộng. Cái cặp da của nó, và những cuốn sách Hàn Thuyên bìa tối, chữ nhỏ, khắc khổ, đứng riêng một góc ô kính bụi bặm của cái tiệm sách phố Huế. Mối liên hệ êm đềm, tình cảm, từ đầu, như thế đã là quý hiếm, bất ngờ, đáng gìn giữ. Giữa một người và một người. Mai Thảo, sông Mã sông Chu có cầu không nhỉ? Đùa mãi, anh Quỳnh. Sông nào mà không cầu. Giòng thiên hà đêm đêm trên đất trời không bờ cũng có. Những cây cầu nhân thế đã được bắc, đêm ngày, liên tiếp, không ngừng, đời này qua đời khác, từ thời đồng, thời đá. Và muôn vàn trong những cuốn sách anh viết. Phải, Những cây cầu quả đã là một cảnh tượng kiến thiết tấp nập vang động. Trong đời sống anh đã sống, những cuốn sách anh đã viết.

             (Mai Thảo)


  
Bia - Tuong Uu Dam - Mai Thao
Tiểu sử :

Mai Thảo tên thật: Nguyễn Đăng Quý. Bút hiệu khác: Nguyễn Đăng. Sinh ngày: 8.6.1927, Nam Định. Mất ngày 10.1.1998 tại California, Hoa Kỳ.

Tác phẩm :

Đêm Giã Từ Hà Nội, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời, Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền, Chuyến Tàu Trên Sông Hồng, Mười Đêm Ngà Ngọc


Chữ nghĩa làng văn
Hôm khác, vừa uống một ngụm, ông nói nghiêm: “Còn một mẩu, mang từ chỗ cụ Xưởng, ở 127 phố Nguyễn Khuyến về đây. Êm nhưng mà chết”. Khi uống rượu “bà Béo” ở phố Bà Triệu, ông nói: “Rượu “bà Béo” dễ uống người”. Uống rượu Tiên Điền, ở phố Nguyễn Du, ông bảo: “Rượu Tiên Điền nồng, dễ gây chuyện”. Lúc uống rượu Thuỷ Hử, cụ Cả Vạ bán, ở Ngô Sĩ Liên, ông kêu:“ Rượu Thuỷ Hử, nhạt dần theo năm cụ Cả Vạ qui tiên”. Có lần, cùng bạn văn vào Bình Định, quê rượu Bàu Đá nổi tiếng. Nhấp ngụm đầu, Văn Cao đã thốt lên: “Rượu này dày thật”.


Sáng tai họ, điếc tai cày

Thành ngữ này có nghĩa lười biếng, không chăm chỉ làm việc.
Khi cày ruộng, người đi cày hô “họ” thì trâu đứng lại ngay, vì nó được nghỉ. Nếu hô “vắt” thì phải kéo cày.

Nguyễn Khuyến, trong bài “Anh giả điếc” có câu

Trong thiên hạ có anh giả điếc
Khéo ngơ ngơ, ngác ngác, ngỡ là ngây
Chẳng ai ngờ : sáng tai họ điếc tai cày
Lối điếc ấy sau này em muốn học


10 câu nói của Tào Tháo

10 câu nói nổi tiếng nhất của Tào Tháo vẫn còn giá trị cho đến ngày nay
(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)

Tào Tháo sinh năm 155 và mất năm 220, tự là Mạnh Đức. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt cơ sở vững chắc cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc và trở thành đối trọng lớn nhất với nhà Thục (do Lưu Bị đứng đầu) và nhà Ngô (do Tôn Quyền đứng đầu). Trong lịch sử gần 2000 năm qua, hình tượng về Tào Tháo vẫn là một chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử Trung Quốc, hầu hết đều bị ảnh hưởng tiêu cực do tác phẩm "Tam Quốc diễn nghĩa". Tuy người đời thường lấy tên ông để mô tả cho sự dối trá, vô liêm sỉ, bất nhân, bất nghĩa nhưng không thể phủ nhận tài năng của con người này. Và những câu nói của ông dù đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử vẫn được lưu truyền và để lại rất nhiều bài học cho hậu thế sau này.


Gỏi đu đủ bò khô
Nước mía Viễn Đông

Khu nước mía Viễn Đông thời của chúng tôi là một khu ăn hàng số một ở Sài Gòn. Ngày đó chúng tôi tấp vào ăn, thấy có đủ các…bộ môn: gỏi khô bò, hủ tiếu, bò viên, bánh cuốn, bò bía, phá lấu. Người bán tấp nập, người ăn cũng tấp nập. Thấy khu bán hàng quà vặt này đông vui, chẳng ai trong chúng tôi thắc mắc.

Nhưng nay anh Tuynh cho biết chính cha anh, ông già áo đen bán gỏi bò khô là người đứng ra tổ chức khu ăn uống nhộn nhịp được đặt tên không chính thức là “bến nước mía Viễn Đông”. Bến nằm trên đường Pasteur, khúc từ đường Tôn Thất Đạm đến Lê Lợi. Cha anh Tuynh đã từng dừng xe bán ở trường Chu văn An, góc đường Lê Thánh Tôn và Tạ Thu Thâu quanh chợ Bến Thành và đều bị đuổi chạy trối chết. Khi ông tới bán ở góc đường Pasteur và Lê Lợi, xế cửa hàng nước mía Viễn Đông, cảnh sát ở bót Lê văn Ken cũng đuổi. Sau khi bàn bạc với các bạn hàng cùng bán tại địa điểm này, ông đến bót Lê văn Ken xin thành lập một “bến” tập trung buôn bán, đóng thuế đàng hoàng. Ông sẽ là người thu thuế nộp lại cho cảnh sát. Vậy là khu ăn hàng của Sài Gòn thành hình. Có bốn người bán gỏi bò khô, tất cả đều là dân di cư. Ngoài ông già áo đen, còn có các ông Thung, ông Chiếu và ông Dần.
                  (Song Thao)


Trần Văn Thủy – Trịnh Công Sơn
Kể ra một người trong tuổi thiếu niên mà được nhận lãnh một câu nói như thế từ cha của mình trong một hoàn cảnh đặc biệt của đất nước thì cũng khó mà quên được. “Hỏng-hẳn-rồi-các-con-ạ” là một khẳng định khái quát cả một sự sụp đổ toàn diện trong tâm hồn người cha, truyền lại cho các con mình nhận thức về tương lai của cái chế độ mà họ đang sống trong đó với biết bao kỳ vọng chế độ đó sẽ mở ra một thời kỳ tốt đẹp cho đất nước. “Hỏng hẳn rồi” đã ghi một dấu ấn quan trọng nhất trong lòng tác giả khi mới lớn, để suốt đời ông luôn để tâm nhìn thấy nó hỏng ở chỗ nào, và định hướng các hành vi của ông để lên tiếng cảnh báo cho mọi người về cái nguy cơ vô cùng thảm khốc cho cả một dân tộc.
                    (Phạm Phú Minh)


***


Phụ đính


Nguyễn Thụy Long, Tú Kếu

Tôi gặp lại Tú Kếu Trần Đức Uyển khi đang đạp xe lang thang trong thành phố quen thuộc. Vẫn dáng gầy cồm ốm yếu như thuở nào, vẫn cặp kính trắng dầy cộm luôn luôn trên mắt. Tôi gặp lại hầu hết những người bạn như tôi thuở đam mê văn nghệ. Một số khác đã có danh, cộng tác ở những tờ báo khác như Chu Tử, Hoàng Hải Thuỷ, Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn, Lê Xuyên. Các anh viết cho tờ báo trong đó có tôi hợp tác, vì tình cảm chứ không vì tiền nhuận bút. những người làm việc cật lực để hoàn tất số báo là vợ chồng TDTừ, Nhã Ca, Tú Kếu, và tôi.

Tờ tuần báo Ngàn Khơi nghèo nàn đến thảm hại. Toàn là do sự góp công góp sức của các anh em văn nghệ sĩ nghèo. Tú Kếu và tôi được nuôi cơm ngày hai bữa, buổi sáng có gói xôi đồng bạc, ly cà phê đen nhỏ, điếu thuốc. Tuy thiếu thốn, nhưng tôi lại có một thể trâu nước, nên anh em gọi tôi là thằng trâu nước, những công việc náo nặng nhọc quá tôi gánh thay cho Tú Kếu. Thuở đó in báo còn dùng kỹ thuât ti pô, chưa có vi tính như bây giờ nên cực vô cùng, mà tôi với những anh em đam mê. Làm thế nào cho có chữ nghĩa thì thôi. Tôi giao bài cho Tú Kếu đưa sắp chữ, tôi lăn ra ngủ trên những ram giấy in. Tiếng máy in chạy không làm rộn giấc ngủ của tôi, nói thật tình tôi coi cái âm thanh đó êm ái như tiếng ru của mẹ thuở ấu thơ. Lại mơ mộng rồi thăng hoa tầm bậy. Thực tế không phải như thế, vì thói quen bạ đâu ngủ đó thôi.

             (Thuở mơ làm văn sĩ - Nguyễn Thụy Long)

















Không có nhận xét nào: