Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

Chữ Nghĩa Làng Văn - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

             Chữ Nghĩa Làng Văn

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

***


Chữ Việt cổ


Đi xom: đi đâm cá

(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)


Ung dung tự tại

Cụm từ “ung dung tự tại”, nhưng thực ra là “thung dung tự tại”.

Trong Nhị độ mai có câu: “Thung dung xuống hậu sảnh đường…”.


Chữ Việt cổ

Bao dêu: bao nhiêu

(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ 

Không có cuộc tình nào khó

Chỉ sợ mình không liều

Đạp xe và quốc bộ

Quyết chí ắt được yêu


Bình Khang

Tên một phường ở Trường An đời Đường. Chỉ nơi ở của các kỹ nữ, các tân khoa tiến sĩ thường đến đó chơi. 

Sau thêm những từ “xuống xóm” hay “hành lạc”.

Hai chữ “hành lạc” từ câu thơ của Nguyễn Công Trứ:

Nhân sinh bất hành lạc

Thiên tuế diệc vi thương

Hành là trải qua, lạc là thú vui. Hiểu nghĩa là sống ở đời không biết hành lạc, dù có sống ngàn năm cũng như đồ bỏ”. 

(Nguyễn Thạch Giang – Văn học tập giải)



Nếu sinh vào tháng nào thì tính cách ứng với loại cây nào?

Tháng Hai, cây Liễu
Ngọc bích xanh biếc một cây cao,

Vạn cành rủ bóng yểu điệu sao.
Lá dài không biết ai trồng nhỉ,

Tháng Hai gió xuân khéo dường bao.

("Vịnh liễu" - Hạ Tri Chương).
2 - Tháng hai - cây liễu

Liễu cùng "Lưu" hài âm, cổ nhân mượn cây liễu biểu đạt tình cảm chia tay. Cành liễu nhìn như mảnh khảnh, lại khó bẻ gãy. 


Bạn sinh ra vào tháng 2, bề ngoài mềm yếu, nhưng nội tâm lại vô cùng kiên cường

Giống như cây liễu, là một người vô cùng trọng tình cảm.


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ 

Đêm nằm ở dưới bóng trăng

Thương cha nhớ mẹ không bằng nhớ em


Tàu phọng dang

Câu đồng dao về ông Tàu ở Sài Gòn bán đậu phọng rang:

Quần chăm khíu (1), áo lang thang (2)

Trên đầu đội cái nón rách

Đi khắp ngả quanh đường tách

Làng trên xóm dưới reo vang:

Tàu phọng dang


Xuất sứ từ bài thơ:

Thùng thiếc treo lên vai mang

Như bàu hồ-lô màu-nhiệm (3)

Bền-chí, hy-vọng (4), giàu sang

Tàu phọng dang

(Trần Văn Tấn)


(1) chăm khíu : may vá sơ sài

(2) lang thang : rách rã nhiều chỗ

(3) màu-nhiệm : có tài phép lạ

(4) hy-vọng : điều mong ước



Hồi ký “Một cơn gió bụi” của Trần Trọng Kim bị thu hồi 

mot_con_gio_bui-tran_trong_kimTheo cựu Đại sứ VNCH Bùi Diễm, người gọi ông Trần Trọng Kim bằng bác nhận định: "Nếu nói ông là một chính trị gia thì chỉ có một từ để gọi cho đúng, đó là một chính trị gia bất đắc dĩ"..

Báo Người Việt dẫn lời ông Bùi Diễm:

"Dù trong cuốn sách bác tôi có viết chế độ cộng sản như thế nào, nhưng thực tế là ông cũng không biết rõ sự mưu mô xảo quyệt của họ. Nên sau khi đã thôi không làm Thủ Tướng, ông về ở Vĩ Dạ, tôi ở với ông vài ngày, nghe ông nói câu thế này: 'Người ta nghe nói Việt Minh được Mỹ ủng hộ không biết có đúng hay không. Nhưng nếu được Mỹ ủng hộ tôi xin nhường hết cả chứ việc chi mà họ phải cướp chính quyền! Cướp làm gì? Tôi nhường mà, có gì mà phải cướp".

(Dương Cầm)


Thi sĩ Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương 

Những thiên tài bạc mệnh của Sài Gòn xưa

Ít lâu sau, Đinh Hùng lại đổi nhà. Lần này anh thuê được một căn gác, nhà tường hẳn hoi, tại đường Trần Văn Thạch, gần chợ Tân Định. Nhà lợp ngói lại ở mặt tiền nhưng vào nhà chẳng thấy bàn ghế gì, chỉ thấy một chiếc giường nằm chình ình ngay giữa nhà. Trên giường chất chồng đủ thứ: mền gối, sách vở, ấm chén và có một thứ không thể thiếu đó là chiếc bàn đèn thuốc phiện. Đinh Hùng nằm lọt thỏm vào giữa “giang sơn” của anh, vừa “dìu hồn theo cánh khói” vừa tìm ý thơ.


Tác giả “Đường Vào Tình Sử” có thói quen nằm mà viết. Anh nằm vắt chân chữ ngũ, đặt tập giấy lên đùi. Có lẽ lâu ngày nên quen, trong tư thế đó, chữ viết anh vẫn bay bướm, rõ ràng, không dập xóa, trang bản thảo nào cũng sạch sẽ. Khi cần đi đâu, họ Đinh lại vớ lấy chiếc sơ mi đã mặc bốn, năm hôm trước, quàng bên ngoài chiếc áo vét cũ, cà vạt đàng hoàng. Tắm ư, chỉ cần vào “toa-let” mở nước ở “la-va-bô”, nhúng đầu vào bồn nước rồi hất lên, chảy xơ qua là xong. Trông Đinh Hùng lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề nhưng đừng ai ngồi quá gần anh, vì anh ít khi… tắm.

(Tô Kiều Ngân)



Họa sĩ Tú Duyên và thủ ấn họa

Tu Duyen_Thieu nu

Tranh khắc gỗ là loại hình nghệ thuật dân gian của Việt Nam đã có từ đời nhà Lý (1190). Ở Nhật Bản là nước từ lâu có tranh khắc gỗ phát triển mạnh mẽ và có giá trị nghệ thuật. Đặc biệt, nổi tiếng loại tranh này với các họa sĩ Hokusai (1769-1849), Hiroshige (1797-1858), Ultamaro (1753-1806), Toyoshiro (1773-1828)...

Hiện nay, ở nước ta có thể phân biệt 3 loại in khắc gỗ : in bằng nhiều bản màu (tranh Đông Hồ), in một bản khắc nét, còn tô màu bằng tay (tranh Hàng Trống) và in toàn đen trắng (sách kinh). Để thực hiện theo lối truyền thống một bức tranh khắc gỗ như tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh), nhà nghệ sĩ bình dân phải trải qua nhiều công đoạn, rất tốn thì giờ và công sức : tranh có bao nhiêu màu thì phải có bấy nhiêu bản khắc gỗ, và tất cả đều là bản dương. Mỗi bản khắc chỉ in một màu. Màu in mỗi bản đều nhau như là tô hình theo kiểu vẽ trang trí. Dùng con lăn (rouleau) để lăn trên mặt giấy, tạo sức ép cho mặt dưới tờ giấy tiếp xúc (ăn màu) đều nhau.

Đến khi Tú Duyên cải tiến kỹ thuật in tranh khắc gỗ, được gọi làm tranh ‘thủ ấn họa’, giới mỹ thuật đã nhận ra được nét sáng tạo, giàu tính trí tuệ trong nghệ thuật của nhà hoạ sĩ tài hoa. Với ‘thủ ấn họa’, họa sĩ chỉ sử dụng hai bản khắc gỗ âm và dương : một bản nét và một bản màu (bản âm : lõm và bản dương : lồi). 

Khi tác nghiệp, họa sĩ dùng ngón tay, lòng bàn tay, cạnh bàn tay để xoa màu trên bản khắc rồi đặt lụa lên, mặt âm làm phông. Sau đó dùng mặt dương để nhấn thêm, rồi xoa, ấn, vỗ, miết trên mặt lụa cho thấm màu. Mỗi bản tranh làm theo lối ‘thủ ấn họa’ có màu sắc đậm nhạt, dày mỏng khác nhau tùy theo sự điều chỉnh linh hoạt, tinh tế của họa sĩ. 

                  (Nguyễn Thanh)   


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

Chảy luôn về nẻo luân hồi
Một ngàn năm trước có người có ta


Những tác phẩm trong… sọt rác

Dương Nghiễm Mậu (*) là vô tình và lý thú nhất, sau này tôi kể chuyện lại, anh em còn cười lớn với nhau.

“Nhớ một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé thăm Trần Phong Giao. Bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghế ngồi hút thuốc lá, thấy ở cạnh mình một cái sọt rác đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là một bản thảo truyện ngắn. 

Tôi đọc mấy dòng đầu, giật mình vì lối vào truyện mạnh dạn, mới lạ, khác biệt hẳn với lối vào truyện vòng vo ngập ngừng thường thấy ở những người viết mới. Đọc tiếp mấy trang nữa; tôi hỏi Trần Phong Giao: "Bỏ đi tất cả đây à?"  Bạn không ngửng đầu lên: "Ừ, đã đọc rồi bỏ không đăng" - "Moi lấy đi được không?" - "Để làm gì vậy?", Trần Phong Giao ngạc nhiên hỏi. "Mặc moi" tôi nói, và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó và nguyên văn không sửa một cái dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang làm”. 

(Mai Thảo)


Tiểu sử :

Tran Cao Linh_DNM

* Dương Nghiễm Mậu tên thật: Phí Ích Nghiễm.  Sinh ngày: 19-11-1936 tại huyện Đan Phượng, Hà Đông. Mất ngày 2-8-2016 tại Sài Gòn. 

Tác phẩm : Cũng Đành, Gia Tài Người Mẹ, Tuổi Nước Độc, Đôi Mắt Trên Trời, Ngày Lạ Mặt (1968), Địa Ngục Có Thật (1969), Quê Người (1970), Cái Chết Của... Kinh Kha, Con Chuỷ Thủ và Đất Tần Bất Trắc



Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 1

Theo lời bà Lã Phương Loan thì ông Yến lăn lưng 24/24 trong nhiều công tác thanh niên và xã hội, nhất là chương trình Hè 1965. Như vậy, cái tiểu gia đình của chính ông thì ai lo? Và đây lại thêm một chi tiết khác do chính bà Loan kể:
“Học 2 năm ở Văn Khoa, tôi quyết định thi vào Ðại Học Sư Phạm ban Anh Văn. Thì giờ của tôi dồn hết vào việc học hành và chăm lo con cái... Lúc học Đại Học Sư Phạm, tôi đã sinh cháu Bảo Anh. Bài vở ngập đầu, tối về lại còn phải lo đủ thứ cho đứa nhỏ, thì giờ đâu mà nghĩ đến những chuyện khác. Tôi phải nói rõ điều này. Ông Yến nhà tôi suốt thời gian lo Chương Trình Công Tác Hè không bao giờ đem về đồng xu cắc kẽm nào. 

Gia đình chồng tôi buôn bán khá giả, chúng tôi được chia hẳn một tầng lầu rộng rãi và hồi đó cái ăn, cái uống không phải là mối bận tâm. Ðã không đem tiền về, ông Yến còn lấy toàn bộ nữ trang đám cưới của tôi đem đi.
- Lấy của hồi môn?

- Vâng. Câu chuyện xảy ra tôi không dám ngờ cho ai, mãi sau này, cách đây vài năm tôi mới vỡ lẽ. Nhà đông người, thợ thuyền, kẻ ăn người làm nên một hôm tôi khám phá ra toàn bộ nữ trang của tôi bị mất, tôi có hỏi thì nhà tôi im lặng. Tôi chết cứng người, không dám nói với ai. Cách đây vài năm, ông Ðỗ Tăng Bí nhân lúc vui chuyện bảo: Bà Loan này hiền thật, mất của cũng không biết. Hồi đó, ông Yến cần tiền (cho đoàn công tác) vì funding (tài trợ) của IVS chưa được tháo khoán kịp, ông Yến rủ tôi về lôi vàng bạc đưa tôi đem cầm đồ, bà có biết không? Tôi ngẩn người ra và hỏi ông nhà tôi thì chỉ thấy ông ấy vẫn cười trừ. Có điều tôi thấy không tiếc mà cũng không giận. Bản tính tôi nó vậy.”

Thế những khi ông chồng bỏ đi biền biệt thì người vợ nghĩ gì?
- “Tôi nói thật, tôi chỉ lo an ninh của nhà tôi. Rõ ràng nhà tôi thân cô, thế cô, không có chỗ dựa thế lực như chính quyền, quân đội, đảng phái. Bản tính hiền lành, nhỏ nhẹ, nếu có chuyện nguy hiểm làm sao ông ấy đối phó.” (trích 186-188)
(Vũ Ánh) 


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

Người về qua cửa phù vân
Nghiêng vai trút gánh phong trần bỏ đi


Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 2

Chúng ta hãy nghe một nhân chứng là ông Ðinh Xuân Quân nói về những ngày đầu tiên làm báo với ông Ðỗ Ngọc Yến:
“...Sang Hoa Kỳ, tại quận Cam, tôi đã có dịp gặp lại Ðỗ Ngọc Yến sau nhiều năm biệt tích, anh cùng gia đình từ Texas bò sang quận Cam với hoài bão là làm sao ra một tờ báo. Lúc đó anh và gia đình ở đường Euclid. Trong hoàn cảnh này tôi gặp lại anh Ðỗ Ngọc Yến. Cho nên tôi thêm một nghề là cứ tối và ngày nghỉ thì đến garage nhà anh Yến làm báo. Lúc đó anh Ðỗ Ngọc Yến cũng ít cộng sự viên. Lúc đầu có anh Du Miên, sau này có anh Nguyễn Ðức Quang. Anh Quang thì tôi đã gặp và quen tại Paris”.

Khác với làm báo ở Việt Nam, qua đây thì cũng có nhiều cách thông tin và Ðỗ Ngọc Yến lúc nào cũng dùng truyền thông làm phương tiện thông tin chính xác, không méo mó hay sử dụng để bắt chẹt người khác, loan tin thất thiệt hay bôi nhọ người khác. Ðỗ Ngọc Yến có cái nhìn nghiêm chỉnh về truyền thông.
“…Lúc đầu, tờ báo chỉ có vài trang. Anh ta lúc nào cũng lụi đụi làm marquette, lên trang báo và mang đi in cho kịp thời... Mỗi tuần tờ Người Việt chỉ có sức ra được vài ngày. Một việc đáng chú ý là lúc nào anh Ðỗ Ngọc Yến cũng hoan nghênh anh em ở Việt Nam mới qua đóng góp cho tờ Người Việt. Cái phòng garage lúc đầu thì có đủ chỗ, nhưng dần dần chật ních vì lúc nào cũng đầy người, đầy anh em từ nhiều chỗ ghé qua, từ Việt Nam mới sang hay từ tiểu bang khác ghé quận Cam. Sau một thời gian thì từ garage chuyển qua Bolsa Mini Mall, và từ Bolsa Mini Mall về đường Moran theo đà phát triển của tờ báo...” 

(Vũ Ánh)


Trịnh Công Sơn với những khuất lấp

Sinh thời, người ta nói hai người chơi thân với nhau cũng không hẳn đúng, bởi lẽ mỗi người một tính cách, mặc dù có thời gian nhà hai người ở gần chợ Trương Minh Giảng, Sàigòn. 


Thi sĩ Bùi Giáng thì ngông nghênh, lãng du và toả sáng bất cứ hoàn cảnh nào bằng thơ ca, còn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại dịu dàng, trầm buồn và trĩu nặng với sự cô đơn. Thơ Bùi Giáng luôn phớt tỉnh sự đời, suy tư chông chênh với ý tứ bất ngờ. 

Còn nhạc của Trịnh da diết nhưng không kém phần bảng lảng trong cõi triết luận vô thường. Mặc dù ngoài đời hai người ít để lại những kỷ niệm sinh hoạt hay giao lưu thân thiết đến mức tạo nên giai thoại. Thậm chí, nhiều năm trước khi mất, Bùi Giáng không còn có dịp lui tới gặp gỡ, trò chuyện với Trịnh Công Sơn vì những sự cố không đáng có, nhưng hai người lại luôn gần gũi nhau về những nỗi niềm nhân sinh và luôn chia sẻ cùng nhau về cái sự vô thường của ý niệm giác ngộ về đời, về đạo của Phật giáo.

Những câu chuyện của hai người đều được ghi lại bằng dấu ấn thơ ca, tựa như sự đùa cợt, giao hoà và tâm đắc. Bùi Giáng đã từng viết những câu thơ trêu Trịnh Công Sơn :

Công Sơn Trịnh trọng phiêu bồng

Thưa rằng thơ nhạc có ngần ấy thôi

(Vương Tâm)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

Ta nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời
(TCS)


Người tình cuối trong cuộc đời Hồ Xuân Hương là ai?

Vịnh Hạ Long - vũng Hoa Phong đã gây cho bà những ấn tượng đặc biệt, chùm thơ chữ Hán của Xuân Hương viết về vịnh Hạ Long là cảm nhận riêng về cảnh vật, con người và những hoạt động trên vùng quê sông nước. 

Năm bài thơ chữ Hán đó là Độ Hoa Phong (Qua vũng Hoa Phong), Trạo Ca Thanh (Trỗi tiếng ca chèo), Nhãn Phóng Thanh (Mắt tỏa màu xanh), Thủy Vân Hương (Về chốn nước mây), và Hải Ốc Trù (Ngóng đỉnh Toan Ngoan). Cả năm bài thơ về Vịnh Hạ Long đều ghi lại những cảnh đẹp khác nhau của vùng biển và con người nơi đây. 


Dưới đây là bài Độ Hoa Phong 

(Qua vũng Hoa Phong):

Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong,

Đá dựng bờ son mọc giữa dòng.

Dáng nước lần theo chân núi chuyển,

Mình lên nghiêng lối để duềnh thông.

Cá rồng lẩn nấp hơi thu nhạt,

Âu lộ cùng bay bóng xế hồng.

Băm sáu phòng mây cùng động ngọc,

Đâu nào là cái Thủy tinh cung?

(Hoàng Xuân Hãn dịch)


Nhưng ngày vui chẳng được bao lâu, năm Gia Long thứ 17 (1818), Trần Phúc Hiển bị người châu Vạn Ninh (Móng Cái) tố cáo nhận hối lộ, ông bị bắt giam và bị xử tử vào năm sau (1819). 

Sau năm 1819, câu hỏi về cuộc đời Xuân Hương vẫn còn bỏ ngỏ. Có ý kiến cho rằng sau đó Xuân Hương đã lên núi Yên Tử viết đơn, mong giải cứu cho chồng...

(Uông Triều)



Văn miếu, văn chỉ

Nơi thờ phụng Khổng Tử thường gọi là văn miếu (ở huyện) và văn chỉ (ở tổng).

Riêng tại kinh đô được gọi là Quốc Tử Giám vì là trường dậy học cho vương tôn công tử. 

(Nguyễn Ngọc Phách – Chữ Nho & đời sống mới)


Ai là người dịch Chinh Phụ Ngâm

Cuộc đời bà Đoàn Thị Điểm khác hẳn. Xuất thân trong một gia đình nghèo; bà là con ông Đoàn Doãn Nghi. Tổ tiên vốn họ Lê, quê quán ở Hải Dương; về sau đổi ra họ Đoàn. Sau khi hỏng kì thi Hội, ông ở lại kinh đô dạy học rồi cưới thêm thứ thất ở phường Hà Khẩu, gần Hồ Hoàn Kiếm và sinh được hai con: con cả là Đoàn Doãn Luân, con thứ là Đoàn Thị Điểm. 

Đoàn Doãn Luân chỉ là giám sinh đã qua kỳ sát hạch để chuẩn bị thi Hương, chưa đỗ đạt gì. Riêng bà Đoàn Thị Điểm sau làm vợ kế ông Nguyễn Kiều (1696- 1752) tức là ông Nghè Sù người làng Phú Xá (làng Sù) huyện Từ Liêm, Hà Nội đỗ tiến sĩ đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Đô Ngự Sử. Nguyễn Kiều có vợ mất sớm, ông tục huyền với bà Đoàn Thị Điểm. Năm 1734, Nguyễn Kiều nhậm chức Tham Thị thành Triều Khẩu (Nghệ An), bà Đoàn Thị Điểm đi thuyền theo chồng, đến ngang đền Sòng (Thanh Hoá) thì bị cảm và mất, lúc này bà mới 44 tuổi.


Mới đây, ngày 24/7/2011, tại cánh đồng thôn Phú Xá (Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội), Hội Khảo Cổ Học cùng Ban Quản Lý Di Tích-Danh Thắng Hà Nội đã cải táng mộ của ông Nghè Nguyễn Kiều về cạnh mộ bà Đoàn Thị Điểm ở cách đó 2km.

Ngày 24/7/2011, mộ ông Nghè Nguyễn Kiều tại cánh đồng thôn Phú Xá, Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội được cải táng về cạnh mộ bà Đoàn Thị Điểm.


                                                          http://vanchuongviet.org/data/images/201807/hinhanh/01220313_hinh%203a.jpg

http://vanchuongviet.org/data/images/201807/hinhanh/01220309_hinh%202a.jpg

Ảnh phải là 2 tấm bia mộ; tấm lớn mới khắc thêm vào năm 1931

(Nguyễn Cẩm Xuyên)



Ngô Thì Sỹ với Tán Lý Thường

Câu chuyện về Tán Lý Đặng Trần Thường trên đây khác với chuyện của ông trong lịch sử: Trong các đại công thần của vua Gia Long có một người Bắc Hà là ông Đặng Trần Thường. Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long phong ông Đặng Trần Thường làm Tán Lý Bắc Hà (1803). 

Ông Đặng Trần Thường bắt các cựu thần nhà Tây Sơn ở đây phải ra trình diện trong đó có ông Ngô Thì Nhậm (con ông Ngô Thì Sỹ) và ông Phan Huy Ích (rể ông Ngô Thì Sỹ). 


Ông Đặng Trần Thường cũng từng là danh sĩ Bắc Hà, đậu sinh đồ của nhà Hậu Lê. Vì khi xưa có hiềm khích với Ngô Thì Nhậm nên ông ra câu đối cho Ngô Thì Nhậm:

“Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai” (Đặng Trần Thường)

Ông Ngô Thì Nhậm định đối như sau:

“Thế chiến quốc thế xuân thu, gặp thời thế thế thì vẫn thế” (Ngô Thì Nhậm)


Em rể của ông là ông Phan Huy Ích khuyên ông sửa lại:

“Thế chiến quốc thế xuân thu, gặp thời thế thế thì phải thế” (Phan Huy Ích)

Nhưng ông Ngô Thì Nhậm vẫn cứng đầu giữ câu đối của mình:

“Thế chiến quốc thế xuân thu gặp thời thế thế thì vẫn thế” (Ngô Thì Nhậm) 


Các cựu thần nhà Tây Sơn đều bị đánh đòn nhưng vì ông Đặng Trần Thường ghét câu đối của ông Ngô Thì Nhậm nên cho đánh ông Ngô Thì Nhậm bằng gậy tẩm thuốc độc do đó ông Ngô Thì Nhậm khi về nhà thì bệnh mà qua đời.

(Kể chuyện câu đối Việt Nam - Vũ Xuân Đào)



Tháp Rùa

Ho-Hoan-Kiem-Ha-Noi Theo sách Tang Thương Ngẫu Lục của Phạm Đình Hổ thì trên gò Rùa không có đình quán nào cả như “đình Tả Vọng của chúa Trịnh”  như lời đồn đãi. Trước kia nguyên là đất tư của chánh tổng Đông Thọ huyện Thọ Xương tên Nguyễn Bá Kim. Năm 1884, ông chánh tổng ngắm miếng đất có dáng miệng con rồng nên cho xây cái tháp, định đem hài cốt của bố ông táng vào đó. Ông theo đạo Thiên Chúa nên xây cái tháp theo kiểu tháp chuông. Không có mái cong, không có lưỡng long chầu nguyệt của đền chùa cổ xưa. Việc cải táng không thành. Ngôi tháp chơ vơ, vô hình chung có cái tên là tháp Rùa.


Dumoutier năm 1887 tả tháp Rùa: Ở giữa hồ có một ngôi chùa, kiến trúc này mới có gần đây, vừa được khoảng 10 năm, do người lãnh trưng (thầu) đánh cá tên Nguyễn Hữu Kiêm tức Ba-Hô-Kiêm đã xây ngôi chùa trên chỗ trước đây có một ngôi đền nhỏ thờ thần hồ, chùa nhỏ đó có tên Quy Sơn (tháp Rùa)


Tên hồ là tháp rùa có trước khi ông Kim dựng chùa cho bố mình

Bên trong, trên tường có sơn hai chữ Vinh-Bao (Vĩnh Bảo) đó là tên quan đã sai người xây tháp. Trên bản đồ thành phố Hà Nội, tháp ghi sai là Tháp Ba Kim (Bá hộ Kim).



Câu đố, câu đối

Nền Văn Học dân gian có một hình thái văn chương, văn vẻ thật độc đáo, đó là: Câu đố. Nó xuất phát từ sự quan sát của con người, động vật, sự vật... hàng ngày. Những nghệ nhân vô danh thu lượm, sáng tạo rồi viết thành lời, truyền tụng trong dân gian. Người nghe thích thú, suy nghĩ sau đó.. đoán.

Thi dụ:

Hai tay nắm lấy khư khư

Bụng thì bảo dạ, rằng, Ư  - đút vào

Ðút vào nó sướng làm sao

Dập lên dập xuống nó trào nước ra.

(Ăn mía)


Hoặc

Mặt tròn vành vạnh, đít phổng phao.

Mân mân, mó mó - đút ngay vào

Thủy hỏa tương giao, sôi sùng sục

Âm dương hòa khí, sướng làm sao !

(Cái điếu bát)

(Lê Xuân Quang – Câu đố xưa... câu đối nay)


Khoa cử thời xưa

Thi Đình

Thi Dinh

Đỗ 4 kỳ thi Hội gọi là “trúng cách” hay “Hội Nguyên” để vào thi Đình ở sân điện của vua nên còn đựợc gọi là thi Điện hay Điện thí. Thí sinh phải làm bài Văn Sách do vua ra đề. (đề vua ra thường là luận về tình hình đất nước, có khi vua trực tiếp chấm và lấy đỗ)


Tùy theo bài Văn sách của các tiến sĩ, vua bổ làm quan (hàm thượng thư) ở triều chính:

Bộ Lại: chuyên trách việc bổ dụng, thuyên chuyển quan lại.

Bộ Hộ: Chuyên trách việc tài chính, lương bổng.

Bộ Lễ: Chuyên trách việc lễ nghi, ngọai giao.

Bộ Hình: Chuyên trách việc sọan thảo pháp luật.

Bộ Công: Chuyên trách việc giao thông, thổ mộc.

Bộ Binh: Chuyên trách việc binh bị.

(Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội - Bùi Xuân Đính)


Khoa trương trong ca dao của người Việt

So sánh tu từ với biểu thức : X như Y có các biến thể : X bằng/ tựa/ tầy / như thể/ sánh... Y. Ví dụ :

Nước da cô trắng tựa hòn than,
Nằm đâu ngủ đấy lại toan chê chồng


Hay:

Nách hôi sánh tổ chuột chù,
Mắt thì gián nhấm lại gù lưng tôm.

(Nguyễn Ngọc Kiên)


Cầu Thê Húc


Tự Đức 1865, nhà nho Nguyễn Văn Siêu, bắc cầu Thê Húc 

Cau THE HUC (2)


Cau The Huc 1896

(Hocquard chụp năm 1884-1886)


Và dựng Tháp Bút và Đài Nghiên. Tháp Bút là một phiến đá hình tháp như chiếc bút lông, trên mặt có ba chữ “Tả thiên Thanh”, nghĩa đen là “vẽ lên trời xanh” trích trong câu thơ “Lăng tàng trường kiếm ỷ thanh thiên” của cụ Nguyễn Du 

Nghĩa bóng là nhắc đến vua Quang Trung đánh bại vua Tàu nhà Thanh với “Tả Thanh thiên tử”. Đài Nghiên bằng đá, hình nửa quả đào, thành nghiên khắc một bài phú nói về nghiệp bút nghiên của nhà nho thời ấy”.



Cua cáy phiếm lược - con đam

Đam (đồng) hay rạm đồng là một họ cua bao gồm các loài cua nhỏ, mình mỏng, bụng vàng, chân có lông, chúng sống ở đồng lầy, đồng ruộng


Con ram 1


Caon ram 2


đam đồng hay rạm


Khi rày trở đi, để tránh “đa thư loạn mục”, là đọc nhiều quá đâm rối mắt. Người tầm khảo… khảo chữ về con đam đồng thay họ đổi tên là… con rạm. Trầm luân trong bể phù sinh với rạm thì rạm cùng loài với cua nhưng rạm nhỏ hơn cua đồng. Rạm có lớp vỏ mỏng, mình dẹt, dẹp hơn cua đồng, trong mai chúng có nhiều gạch, thịt ngọt và béo. Về ngoài, rạm đồng trông gần giống con cua đồng nhưng lớn hơn, đôi càng và các chân to khỏe hơn. Khác với cua hay ghẹ, thay vì phải bỏ vỏ mới ăn được, vỏ rạm giòn mềm nên có thể nhai cả vỏ. 


Hang của con rạm 

thường nông hơn hang cua


Rạm thích ở đồng trũng, thường đào hang dọc theo các bờ ruộng. Hang rạm đào không sâu bằng hang cua, chỉ vừa lút vài ba ngón tay. Vào mùa mưa bão, nước tràn vào hang, rạm bị động bơi ra rất nhiều. Rạm có tính tình hiền hơn cua đồng, chúng cũng không hung hăng như cua đồng, người ta dùng tay lựa mà không sợ bị kẹp. Mồi câu rạm là cá đã bốc mùi ươn trộn với cám rang.


Một cặp rạm đang giao phối


Rạm đồng thường ra các khu rừng sú vẹt để sinh đẻ. Đến khi những chú rạm con to bằng đầu que diêm (dân gian gọi là con cốm) thì cốm lại vào đồng, tìm ruộng vừa gặt còn nguyên gốc rạ để chui vào ống rạ sống. Cứ đến mùa sinh sản, ngày rằm, mồng một tháng 4, tháng 5 âm lịch, rạm cặp đôi, kết thành bè, kéo nhau ra cửa sông.


***

Rạm chẳng phải là món ẩm thực của riêng vùng nào ở nước ta, chúng có từ Bắc tới Nam. Thảng như miền Bắc có món rạm rang.



Người miền Nam chế biến thành nhiều món ngon như rạm đồng xào lá lốt, rạm đồng lăn bột chiên giòn. 



Đọc truyện & Xem phim “Bác sĩ Zhivago”

Những cảnh trong phim luôn sống động chứ không đều đều một giọng kể truyện như trong sách. Chẳng hạn như đoạn người “cha ghẻ” Komarovsky khi biết Lara có ý định lấy Pasha, ông nói: “Cô có biết không, cô chỉ là một con đĩ!". Lara giáng cho ông một cái tát và ông cũng tát lại rồi đè nàng ra hãm hiếp. Nàng có đẩy ra nhưng phút chốc cũng chính nàng ôm lấy Komarovsky!  

3

Ở một phân cảnh khác, phim chiếu đoạn Yuri và Lara đối thoại trong lúc Lara đang ủi quần áo. Họ hỏi nhau về dự tính cho tương lai sau cách mạng:

"Anh về đâu?"

"Còn em về đâu?"


Bất giác Zhivago nói thêm, "Có lẽ em đã có người đùm bọc khi trở về". (Chàng có ý ám chỉ Komarovsky). Lara sững sờ nhìn Yuri… và cô đã làm cháy khét cái áo đang ủi! Một chi tiết nhỏ nhặt nhưng mang đến cho người xem sự thích thú bất ngờ.

Có những tiểu thuyết rất hay nhưng dựng thành phim lại thất bại. “Doctor Zhivago” là một trường hợp ngược lại, người xem phim cảm thấy thú vị hơn đọc truyện rất nhiều. Kết quả là cuốn phim đã dành 6 giải Oscar năm 1965 và giải Quả Cầu Vàng dành cho đạo diễn, nam diễn viên chính, kịch bản và nhạc phim xuất sắc nhất.


Poster phim “Doctor Zhivago”


(Nguyễn Ngọc Chính)

clip_image003

Nguyễn Ngọc Chính chào đời ngày 19/6/1946, ở Vĩnh Yên. 1953 di cư vào Đà Lạt. Anh nguyên là một cựu sĩ quan QLVNCH, khóa 4/68 Thủ Đức. Năm 1969, mãn khóa anh tùng sự tại trường Sinh Ngữ Quân Đội. Sau 30 tháng 4, anh đi “cải tạo“ (Trảng Lớn, Tây Ninh). Khi thóat khỏi tù, anh không tìm cách vượt biên hoặc rời đất nước theo diện HO. Anh chọn ở lại, cũng nhờ vậy, chúng ta đọc được những dòng ký ức “Hồi ức một đời người“, đằm thắm tình quê, tình đất, tình người của anh.


Tản mạn về tiếng Việt 

Cây

Cũng như quả, cây đứng trước tất cả mọi thứ cây, từ cây vườn đến cây rừng, như cây bứa, cây quế, cây tre, cây xoan, cây cau, cây cam, cây quít, cây hồng, cây táo, cây ổi, cây xoài v.v... 


Ngoài ra cây còn đứng trước một số chữ không phải thuộc loại cây nào cả. Ví dụ: Cây đàn, cây vàng, cây cầu, cây viết, cây bút, cây bài (cây bát sách, cây cửu vạn...)

(Minh Võ)


"Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết 

(nhà thơ Thành Tôn)

Sách miền Nam thuở đó bán chạy nhất không phải là ở Sài Gòn mà ở các tỉnh miền Trung. Thành Tôn là người nhận phát hành sách không công cho hai nhà Lá Bối và An Tiêm ở miền đất khô cằn nhất nước. Anh nói với tôi là hồi đó anh nhận sách hàng ngày. Sau khi anh nhập ngũ, bà xã anh tiếp tục công việc, cũng không công. Để hình dung rõ miền Trung tiêu thụ sách “kinh khủng” đến thế nào, anh cho biết cuốn “Nhan Sắc” của Dương Nghiễm Mậu do nhà An Tiêm xuất bản đã bán trên ngàn cuốn! Hệ lụy của anh với thầy Từ Mẫn còn tiếp tục dài dài khi thầy Từ Mẫn vượt biên, mở nhà xuất bản và nhà sách Văn Nghệ ở Cali.


Thực ra thầy Từ Mẫn vượt biên tới 8 lần mới thành công. Tới Mỹ, thầy hoàn tục. Đây là một quyết định đau lòng khiến thầy thấm thía lẽ vô thường của cuộc sống. Thoạt đầu ông Võ Thắng Tiết định cư ở thành phố Los Angeles và được trợ cấp để theo học Anh ngữ trong 18 tháng. Tuy nhiên ông sớm bỏ học vì học đâu quên đó. Một người bạn của ông cùng ở trại tị nạn trước đây viết thư rủ ông về Seattle, tiểu bang Washington, và sẽ lo chuyện ăn ở cho ông. Ông liền khăn gói qua và nhận thấy nơi đây có thể theo tàu đi đánh cá ở Alaska với số lượng khá lớn. Tháng 3/1984, một công ty chuyên đánh tôm cá tới Seattle tuyển người làm, ông dự phỏng vấn và được nhận. Ông sống trên tàu được gần một năm thì xin nghỉ. Hồi đó, tiểu bang Alaska cần người tới làm việc nên cuối năm họ tặng một số tiền thưởng là một ngàn đồng.


Ông trở về đất liền với số tiền để dành được là 8.500 đô giắt túi. Trong một dịp về chơi Cali, ông gặp nhà văn Võ Phiến. Ông này khuyến khích ông trở lại nghiệp xuất bản. Hai ông Nguyễn Mộng Giác và Lê Tất Điều phụ họa theo. Vậy là nhà xuất bản Văn Nghệ ra đời với số vốn teo tắt kiếm được từ miền băng giá Alaska. Ông share phòng với nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tiếp tay đóng gói, gửi bưu điện, phát hành tờ Văn Học.

(Khuyết danh)


Một số sai lầm khi dùng từ Hán-Việt

Sai lầm vì không phân biệt tiếng đồng âm

Tương kính như tân: vợ chồng phải “tương kính như tân” có nghĩa “phải kính trọng nhau như khách (tân là khách) chứ không phải như lúc mới về (tân là mới về).

(Lưu Khôn)


Phỏng vấn nhà văn Song An Hoàng Ngọc Phách

(Trích từ cuốn sách Cuộc phỏng vấn các nhà văn của Lê Thanh

do nhà Đời Mới xuất bản tại Hà Nội năm 1943)

(Song An Hoàng Ngọc Phách)


Có lẽ là một sự khó tính mà chúng tôi cần xin lỗi với những văn nhân và thi nhân mà chúng tôi đã được nghe chuyện là chúng tôi ước ao được nói chuyện ngay trong buồng làm việc, trước một bàn giấy đầy những tập bản thảo, những mẩu tài liệu, sách vở ..., ở đấy tính tò mò của chúng tôi có khi được thỏa mãn. Chúng tôi có thể biết qua được một vài thói quen của nhà văn, vài công việc đang làm và sắp làm của nhà văn...


Thứ nhất chúng tôi được ở trong cái “bầu không khí” của nhà văn.

Sự khó tính ấy đã làm cho tôi, khi sang thăm Song An tiên sinh, suốt từ đầu câu chuyện cho đến lúc ra về, thấy ngượng nghịu... Vì tiên sinh tiếp chúng tôi ở buồng khách, một căn phòng rộng rãi, trang hoàng rất lịch sự theo lối Á Đông.

Nhìn xung quanh hình như thiếu một cái gì... Chúng tôi tìm một cảnh “trời biển mênh mông” có thể nhắc chúng tôi tới cảnh “mênh mông sóng rợn chân trời” và cuộc ngao du lãng mạn của cặp tình nhân bất tử ở bãi bể Đồ Sơn, hai mươi năm về trước. May chúng tôi còn thấy một bức tranh thủy mạc, bằng một vài nét, họa một cảnh đêm trăng, nhắc thầm trong trí nhớ chúng tôi câu “đêm thu trăng tỏ”. Chúng tôi quên rằng tiên sinh không phải chỉ là một nhà văn, tiên sinh là một vị giáo sư mấy năm trước đây kiêm giám đốc các trường Cao Đẳng Tiểu Học và Tiểu Học ở tỉnh lỵ Bắc Ninh, và có lẽ vì chức nghiệp, tiên sinh phải tổ chức sự sống hợp với địa vị xã hội của tiên sinh hơn là hợp với cái tự do của tâm hồn lãng mạn của tiên sinh.

(Lê Thanh)


Chơi bời

Chơi bời ở miền Bắc nghĩa là chơi cả xấu lẫn tốt.

Chơi bời ở miền Nam nghĩa là xấu.


Cụ Nguyễn Khuyến và Bùi Châu Cầu đỗ cử nhân cùng khoa, cùng đi làm quan. Hai cụ cử nhân có thể đánh tổ tôm, chơi đàn, làm thơ xướng họa với nhau. Cả hai sống rất đạo hạnh nên trong bài Nước lụt hỏi thăm bạn, hai chữ “chơi bời” cụ Nguyễn dùng có nghĩa ở miền Bắc:

Phần thua suy tính càng thêm thiệt

Tuổi cả, chơi bời hóa sống lâu

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)


     Văn Cao rượu

(tựa đề vay mượn của tác giả 

Trần Thanh Phương, xem kỳ tới)


Hoạ sĩ tài hoa tài thẩm định rượu


Người ta kể hoạ sĩ Văn Cao uống nhiều rượu và thẩm định rất chính xác. Ông thích và thường uống rượu ta, rượu “cuốc lủi”. Khi có rượu ngoại, ông để dành tiếp khách. Ông uống rượu theo kiểu nhâm nhi, từ từ, từ khi ngủ dậy đến tận quá trưa. Sau ngủ trưa, ông lại uống tiếp. Một ngày nhạc sĩ này dùng đến…1 lít rượu “cuốc lủi”! Hầu như phố nào có rượu bán, ông đều mua uống. Bởi thế, ông biết vị rượu ở từng ấy.

Một lần, vừa nhấp chén rượu, ông nói ngay: “Cái này ở chỗ cửa rạp Xiếc (phố Trần Nhân Tông), hơi “mỏng”, uống tạm được”. 

Lần khác, vừa nhấp một chút, ông nói luôn: “Cái này men Hà Đông, “gợn” nhưng lành”. 

Hôm sau, vừa uống một ngụm, nhạc sĩ nói nghiêm: “Còn một mẩu, mang từ chỗ cụ Xưởng, ở 127 phố Nguyễn Khuyến về đây. Êm nhưng mà chết!”. 


Khi uống rượu “bà Béo” ở phố Bà Triệu, ông nói: “Rượu “bà Béo”dễ uống người!”. 

Gặp rượu Tiên Điền, phố Nguyễn Du, ông bảo: “Rượu Tiên Điền nồng, dễ gây chuyện!”. 

Lúc uống rượu Thuỷ Hử, cụ Cả Vạ bán, ở Ngô Sĩ Liên, ông kêu: “Rượu Thuỷ Hử, nhạt dần theo năm cụ Cả Vạ qui tiên!”. 

Có lần, cùng bạn văn vào Bình Định, quê rượu Bàu Đá nổi tiếng. Nhấp ngụm đầu, Văn Cao đã thốt lên: “ Rượu này dày thật!”. Thật là, ông uống rượu nào là nhận ra vị của rượu ấy ngay một cách chính xác, chí lí, rồi khái quát chất vị rượu đó bằng lời gọn ghẽ với từ ngữ rất khác biệt.

Dân gian có câu: “Người tài, hay có tật”. Có người thích, có người cười về tật của những người có tật. Thật, khó hiểu và cũng dễ hiểu ý thích, hoặc không thích của người đời với tật của người đời, nhất là tật của những người nổi tiếng, như văn nghệ sĩ... 

(Nguyễn Tiến Bình)


Tác giả: Văn Cao (15/11/1923 -10/7/1995), tên thật: Nguyễn Văn Cao 

(sinh tại Hải Phòng, gốc người Nam Định)

Van Cao - dinh_cuong

tranh Đinh Cường


Tác phẩm: Buồn Tàn Thu (1939), Thiên Thai, Bến Xuân (Đàn Chim Việt – 1942), Suối Mơ (1943), Trương Chi (1943), Làng Tôi (1947), Trường Ca Sông Lô (1947), Tiến Quân Ca (1944), Mùa Xuân Đầu Tiên (1976)


Chữ nghĩa làng văn

Hoàng Ngọc Hiến

Từ Vinh, tôi được chuyển ra Hà Nội trước. Hiến ra sau. Nhưng rồi lại gặp nhau ở trường Viết văn Nguyễn Du.  Anh phụ trách trường này, còn tôi được mời đến dạy.

Năm 60, tôi nhớ Phạm Văn Đồng có viết một bài về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Bài ấy, người khác có thể coi là thường, không hay hoặc chưa đúng chỗ này chỗ khác. Nhưng Hoàng ngọc Hiến thì phải nói: “Phạm Văn Đồng viết bài ấy là thiếu văn hoá”.

(Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh)

NDManh 12

Tiểu sử
Nguyễn Đăng Mạnh sinh ngày 18.3.1930 tại làng Thổ Khối, Bắc Ninh.

Mất ngày 9-2-2018 tại Hà Nội..

Tác phẩm

Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại 

Tuyển Tập Phê Bình Văn Học

Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh



10 câu nói của Tào Tháo


10 câu nói nổi tiếng nhất của Tào Tháo vẫn còn giá trị cho đến ngày nay

“Không tin thì không dùng, đã dùng là phải tin”


***

Tào Tháo gian và ác, chân thành và hồn nhiên trong cái gian, cái ác của hắn. Tào Tháo có cái hùng của hắn, thà ta phụ người không để người phụ ta. Người đời đều nói ta là gian hùng nhưng không làm được gì một kẻ gian hùng như ta. Từ trước tới nay gian xảo như trung hiền, trá ngụy tựa chân thật, trung nghĩa và gian ác đều không thể nhìn thấy được dựa trên biểu hiện bên ngoài. Có thể trước nay các ngươi đã nhìn nhầm Tào Tháo ta nhưng ta vốn không sợ người khác nhìn lầm ta.

(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)


Gỏi đu đủ bò khô

Tôi luôn luôn là khách trung thành của ông già áo đen, chưa bao giờ biết các ông khác. Ông bác sĩ Lê văn Lân ngày đó có một bài thơ về “bến” Viễn Đông mang tên “Quà Rong”.

Người đi trăm nhớ ngàn mong

Người về còn nhớ quà rong năm nào

Đầu đường nghe thoáng lời rao

Là tha hồ biết quà nào rẻ ngon

Dăm bông, thịt nguội, mì giòn

Hai đồng một ổ bà con mua giùm

Anh ơi, nước mía Viễn Đông

Hai ly chưa đã, mát lòng em luôn

Thêm đĩa bò bía chấm tương

Ăn kèm phá lấu, em thương anh nhiều

Ốc sò, muối ớt, chanh tiêu

La ve, củ kiệu càng nghèo càng ham

Cóc chua, tầm ruột, ổi dầm

Thua gì xoài tượng, mới dầm đã chua.

 

Bài thơ đã ghi lại một thời Sài Gòn nhộn nhịp ăn uống xôn xao. Có điều tại Bến Viễn Đông có tới bốn ông bán gỏi bò khô mà ông bác sĩ không nhắc tới món này. Thiệt là một người đãng trí!

(Song Thao)


Góp nhặt cát đá

Mộng 

Có gì mà lấy làm vui
Chỉ là một giấc mộng vùi trăm năm



Trần Văn Thủy – Trịnh Công Sơn

Trần Văn Thủy suy nghĩ rất nhiều trong các chương khác trong cuốn sách này. Ông vốn là người làm phim tài liệu, luôn luôn ghi nhận và viết xuống những đề tài mà ông cho là đáng làm phim trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của ông, nhưng tiếc thay không mấy dự định của ông đã được thực hiện. Chương “Những kịch bản không thành phim” ông ghi lại nội dung những đứa con điện ảnh không bao giờ được ra đời ấy, với những nhận xét có khi nhiều phẫn nộ.

Ví dụ khác từ năm 1980 ông có một kịch bản về Trịnh Công Sơn:

“Một kịch bản khác tôi tâm đắc vô cùng đó là khi tôi viết về Trịnh Công Sơn năm 1980. Có lẽ khi ấy vừa ở Nga về, vừa làm xong bộ phim “Phản Bội” (1979-1980), đang “hăng tiết vịt”, tôi đã viết về Trịnh Công Sơn. Tôi kể những ngày tháng nằm hầm ở chiến trường miền Nam (1966-1969), mở trộm đài Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh mà nổi da gà. Những Đại bác đêm đêm vọng về thành phố/Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe/Những Người con gái Việt Nam da vàng… Con người miền Nam, hơi thở miền Nam, nhạc Trịnh ám ảnh tôi. Sao lại yêu thương đến thế! Sao lại da diết lay động đến thế! Vấn đề tôi đặt ra trong kịch bản đó không chỉ là những giai điệu, những ca từ hút hồn của nhạc Trịnh mà tôi tự vấn: Mảnh đất nào, văn hóa nào, phẩm hạnh nào đã nuôi dưỡng một tâm hồn trong sáng và chân thiện đến thế, đã sản sinh ra con người chân tình đến thế? Nếu như Karl Marx nói: “Con người là sản phẩm của tổng hòa mọi quan hệ xã hội” thì cái xã hội miền Nam đầy rẫy những “Tội ác và tàn dư của Mỹ Ngụy” ấy tại sao lại sản sinh ra Trịnh Công Sơn?”

(Phạm Phú Minh)


***


Phụ đính 


Đến đại lộ bún bò ở Huế

Đáng bâng khuâng là nhiều tiệm bún "siêu quần bạt chúng" một thời tại Huế thì nay đã đóng cửa. Tại mạn Gia Hội, gần bến đò Cồn, có bún bò mụ Rớt nức tiếng gần xa, từ lâu trót tiến vào phương Nam. 

Một món bình dân nhưng lừng lẫy của miền Hương Ngự là bún hến. Dân địa phương gọi đùa đây là "cao lầu cồn". Vì nơi cung cấp chủ yếu nguồn động vật thân mềm nhỏ li ti cho toàn thành phố và cũng là nơi chế biến bún hến ngon đáo ngon để là cồn Hến, hòn cù lao giữa sông Hương, thuộc phường Vỹ Dạ. 

bun_6142 Bún nước mắm là món vô cùng phổ biến ở Huế. Nước mắm thượng hảo hạng, hoà tí đường, vắt múi chanh, giã củ tỏi, đâm mấy hạt tiêu dằm thật nhiều ớt quả tươi, thả thêm ớt bột, rồi chan vô tô đã đặt sẵn mấy vắt bún với nạm rau sống. 


Dạo thăm tỉnh Quảng Trị, lúc ngang qua chợ Mỹ Chánh, bạn nên dừng lại để nếm bún lòng sả xem sao. Lòng heo được xào sả, ớt, ăn kèm bún, tạo một cảm giác hay hay.


Vào thành phố Đà Nẵng, hãy thưởng thức bún chả cá, bún chả bò và bún bò xào. Các quày trong chợ Cồn và chợ Hàn có thể làm bạn mãn nguyện. Tuy nhiên, chớ nhầm lẫn bún bò xào với bún bò xáo - một đặc sản của tỉnh Quảng Nam ở khu vực cầu Mống thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn.


Vịnh Dung Quất thuộc tỉnh Quảng Ngãi xưa, đây lại là vùng biển nức tiếng nhờ một loài hải sản: con nhum. Sống bám những ghềnh đá dưới làn nước mặn, con vật ấy nom như quả chôm chôm to lớn mà đen đúa và tua tủa gai nhọn. Thế nhưng khéo léo bắt nó lên, tách vỏ, ngư dân bóc lấy múi thịt trắng hồng làm "mắm tiến" chuyển ra Huế để dâng vua. Quốc Sử Quán triều Nguyễn từng ghi nhận trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí(11) về tỉnh Quảng Ngãi rằng: "Khoảng đời Minh Mạng, đặt hộ mắm nhum 5 người, mỗi năm phải nộp 12 cân mắm cho triều đình". Chừng ấy cũng đủ biết mắm nhum ngon lành và quý báu nhường nào. 


Thăm Bình Định, tôi được nhà giáo Giáp Hoàng Linh mời xơi bún sứa rất đáo khẩu ở thành phố Quy Nhơn. 


bun_0499

Tới Khánh Hoà, tôi được nhà báo kiêm nhà văn kiêm nhà thơ Khuê Việt Trường đưa đi dạo thành phố Nha Trang và giới thiệu món bún mà chàng ta tin chắc là đặc sản nơi này: cũng bún sứa


(Phanxipăng)







Không có nhận xét nào: