Đời Thủy Thủ 3 –
Chương 12: ĐƯỜNG VỀ HÒN TRE (Tiếp Theo)
Vừa lên đến đài chỉ huy, Võ Bằng ra lệnh dứt khoát:
– Hai máy ngưng.
Tiếng leng keng truyền lệnh vừa vang lên, tiếng rầm rì quen thuộc của máy tắt ngang. Chiến hạm khựng lại, thả trôi theo trớn.
Võ Bằng bước đến miệng loa dẫn xuống phòng chiến báo:
– Radar, khoảng cách với tàu đánh cá bao xa?
– Thưa, nửa hải lý.
– Có đối vật gì gần không?
– Hoàn toàn không, thưa Hạm Trưởng.
– Báo cáo ngay khi có đối vật xuất hiện.
– Đáp nhận.
Anh dặn sĩ quan trực phiên:
– Cứ thả trôi. Quan sát kỹ. Giám lộ, rọi đèn sau lái.
Võ Bằng cùng hai nhân viên xuống sân lái. Họ thu hồi dây kéo về tàu. Anh cúi xem: dây không bị đứt, chỉ có thể là bị tháo hay bị tuột. Nếu bị tháo? Tại sao? Anh thoáng rùng mình.
Anh bước nhanh về phòng y tế. Ba người nằm im, mền len xám phủ kín, mắt nhắm nghiền, mặt trắng bệt như xác chết. Hai người tuổi trung niên, một thanh niên – trẻ nhất nhưng hôn mê nặng nhất. Cả ba đang được truyền nước biển.
Trung sĩ Y tá Lê Văn Ngọc trình báo:
– Thưa Hạm Trưởng, lúc đưa qua, họ đã trong tình trạng hấp hối. Hạm Phó cho phép truyền nước biển. Xin lỗi đã không kịp xin phép Hạm Trưởng.
Võ Bằng cau mày:
– Có đúng là họ đói khát thực sự chớ không phải… đóng kịch?
Y tá Ngọc ngẩn ngơ:
– Ý của Hạm Trưởng là…
Nhận ra mình nghi ngờ quá mức, Võ Bằng dịu giọng:
– Theo anh, nếu không cứu, họ chắc chắn không qua khỏi?
– Thưa chắc chắn, họ đã đến lằn ranh sinh tử. Ngay lúc này, tôi vẫn e họ khó thoát!
Võ Bằng gật đầu, nhưng lòng còn lởn vởn hồ nghi. Liệu đây có phải là một kịch bản dàn dựng tinh vi đến mức không để lại sơ hở?
Anh lại nhìn ba ngư dân. Họ vẫn thiêm thiếp, lớp mền trên ngực lên xuống ngắn, không đều, thỉnh thoảng rên hừ hừ. Anh lắc đầu: không thể là đòn nghi binh. Từ mười ngày trước, làm sao họ biết được là sẽ gặp Rạch Gầm để bắt đầu nhịn đói? Rồi làm sao mà biết thời tiết lúc gặp Rạch Gầm trời sẽ mưa to sóng lớn cản trở việc bị khám xét? Không thể nào! Chỉ là một hội ngộ tình cờ!
– Khi họ khá hơn, xin Hạm Trưởng cho phép truyền thêm dinh dưỡng.
– Chấp thuận. Bằng mọi cách, anh cứu sống họ.
– Xin hứa, thưa Hạm Trưởng.
Võ Bằng thở phào nhẹ nhõm nhưng quyết chắc ăn: đích thân khám xét ngư thuyền. Anh phóng nhanh trở lên đài chỉ huy, cho chiến hạm cập vào ngư thuyền. Rồi cùng hai thủy thủ nhảy qua, mang theo tô cháo thịt. Chủ ngư thuyền chắp tay cám ơn, vừa run vừa húp lấy húp để.
Võ Bằng nhìn quanh. Lưới cá bung rộng rối ren, nhiều xác cá thối rữa. Sàn la liệt xương cá. Anh và thủy thủ hộ tống bước đến phòng lái. Chưa đến cửa mà mùi dầu mỡ, mùi ươn thối nồng nặc. Không ai có thể sống lâu trong đó. Anh đã hiểu lý do bốn ngư dân nằm ngoài mưa.
Võ Bằng đi về sân mũi. Thủy thủ đang trổ tài chuyên nghiệp, thắt nút “clove hitch” đầu dây nylon vào trụ, chắc chắn không tuột lần nữa.
Anh dặn chủ ngư thuyền:
– Ba người của anh đã tỉnh lại. Đừng lo. Chúng tôi kéo tàu anh vào Rạch Giá. Có đèn pin chứ?
– Dạ có.
– Vậy cần gì thì chớp đèn.
– Cám ơn mấy anh.
Võ Bằng trở về chiến hạm, khen Hạm Phó đã tích cực rồi lên đài chỉ huy. Lệnh tiến máy. Chiếc ngư thuyền ngoan ngoãn theo sau. Nửa vầng trăng soi một vệt sáng bạc trên mặt biển âm u. Chỉ một ít vì sao bơ vơ trên bầu trời thăm thẳm. Anh nhắm mắt, tự trấn an: không, chắc chắn không thể là trò đánh lừa.
***
Ba giờ sáng. Trừ tiếng máy tàu, đài chỉ huy thật tĩnh lặng. Mỗi người một vị trí, bất động như các pho tượng. Anh lên tiếng:
– Thiếu úy Đức, cho biết vị trí chiến hạm mới nhất.
– Thưa Hạm Trưởng, tàu sắp ngang qua đảo Tamassu, cách ba hải lý.
Tamassu! Cái tên gợi anh nhớ chuyện tình người bạn cùng khóa. Chuyện tình đó có đăng trên nguyệt san Lướt Sóng hai năm trước: Hạm Trưởng một tuần duyên hạm, trong lần ghé đảo, được chúa đảo mời rượu. Người mang mồi nhậu là tiểu thư của chúa đảo. Sau năm tuần rượu, chàng đứng dõng dạc thưa: “Cháu muốn cưới con gái bác.” Chúa đảo cười: “Đây là rượu nói hay Đại Úy nói?” Chàng lại dõng dạc: “Cháu nói bằng danh dự một Hải Quân”. Ông hỏi ý con. Nàng e thẹn đáp: “Ai khác thì con từ chối, nhưng với hải quân thì con ưng!” Và đám cưới rực rỡ ba tháng sau đã làm sáng bừng cả đảo. Đàng trai đến bằng đường biển gồm chiến hạm, chiến đỉnh lẫn chiến thuyền. Người chủ hôn là Tư Lệnh Vùng 4 Duyên Hải!
Võ Bằng khẽ thở dài: bạn thiệt có phước. Cũng ông Tư Lệnh đó, cũng tiệc nhậu tới bến, cũng gặp gỡ người nhà mà đời anh cứ nổi trôi. Phải chăng vì thiếu… rượu nói!
Anh siết chặt tay trên bệ sắt, nhìn khung trời mông lung. Lại hiện bóng hình Như Oanh với giọng nói nghịch ngợm, nụ cười cướp mất hồn. Từng đêm anh dỗ giấc ngủ, đếm đến số mười ngàn mà hình bóng nàng vẫn đeo đẳng.
Ngả lưng trên ghế tựa, mặc cho mùi khói tàu, mùi muối biển quyện sương đêm ngai ngái. Mỗi cơn gió mát lại như mang đến nhớ thương…
***
Sáu giờ, núi đảo Hòn Tre hiện ra cùng ánh bình minh. Đảo mang tên Hòn Tre vì có nhiều tre mọc nhưng hình dạng thì trông như con rùa. Những cánh hải âu chao lượn, hót vang như chào đón Rạch Gầm. Võ Bằng rời ghế chỉ huy, bước sang đứng tỳ tay lên bệ cánh hữu đón gió mát lành cuối thu. Cuộc hành trình qua đêm suôn sẻ, lòng anh cũng êm ả theo.
Bảy giờ, chiến hạm neo sát Hòn Tre. Chiếc ngư thuyền được kéo cập bên hông chiến hạm. Hạm Phó cho nhân viên trực nhật xịt nước rửa sạch khắp sàn ngư thuyền. Ba nạn nhân đã tươi tỉnh, nhưng sức chưa hồi phục, được các nhân viên dìu trở về ngư thuyền. Võ Bằng chỉ thị cung cấp thêm cháo thịt.
Chỉ Huy Trưởng Duyên Đoàn 43 đích thân đến nhận bàn giao, tay bắt mặt mừng. Anh mời Võ Bằng cơm trưa Rạch Giá. Trung Úy Tuấn nhắc lại lời mời đến nhà.
Võ Bằng chỉ thị Hạm Phó trông coi tàu. Ban ẩm thực tháp tùng đi chợ, nhân viên không trực được phép đi bờ. Chiếc chiến thuyền Thiên Nga tuy nhỏ mà mã lực cao dư sức dòng ngư thuyền. Nhưng với số người đi bờ khá đông, Duyên Đoàn Trưởng cho tăng cường thêm hai ghe chủ lực.
***
Bến sông Cái Lớn nhộn nhịp. Chợ còn rộn rã dù đã trưa. Võ Bằng thuê xe lôi. Y tá và hai nhân viên đưa ba ngư dân vào bệnh viện. Anh chúc từng người chóng phục hồi. Những bàn tay chai sạn run run nắm tay Võ Bằng. Anh nghe lòng ấm áp.
Nhà ba má Tuấn tường vôi trắng, khang trang, nhìn ra cửa sông Cái Lớn. Giàn hoa giấy đỏ rực bên hiên. Ông cụ tóc bạc vồn vã chào đón. Tuấn giới thiệu. Ông hết nắm tay Duyên Đoàn Trưởng lại đến Võ Bằng:
– Quý hóa quá! Từ ngày thằng con tôi đi Hải Quân, nay mới được hân hạnh đón tiếp nhị vị chỉ huy!
Gian nhà rộng rãi, bày biện gọn gàng. Hương trà xanh thoảng nhẹ. Một bên vách, treo các bức ảnh gia đình. Trên vách đối diện là các bức tranh quê thật đẹp.
Mẹ và em gái Tuấn ra chào. Vừa thấy nàng, tim Võ Bằng bỗng xao xuyến lạc nhịp, không khác gì phút đầu gặp Như Oanh. Anh thông cảm cho con tim hai năm cô đơn, bây giờ gặp người đẹp là rung động đền bù. Ba Tuấn hối làm cơm thết đãi. Duyên Đoàn Trưởng cáo lỗi, nhưng ông nhất quyết không cho từ chối.
Ba Tuấn hút vài hơi thuốc vấn, khoan thai nói:
– Nhị vị chỉ huy thấy đó, ghe thương hồ đậu đầy bến sông. Mùa gió chướng, ghe bầu từ miền Trung ghé vô, chở đường, chở muối. Mùa gió nồm, ghe cá từ Hà Tiên, Nam Du đổ về cá tôm. Bến sông lúc nào cũng đông vui như hội. Nhờ vậy mà mắm cá lóc, mắm thái của nhà tôi sản xuất cũng đắt hàng…
Mắt mẹ Tuấn vui vẻ tiếp lời:
– Xin mời hai vị ở lại nếm thử. Con gái tôi làm đó.
Một niềm vui nhẹ nhàng chiếm hồn Võ Bằng. Ba mẹ anh cũng có sự vồn vã tương tự với khách tới nhà. Lời của ba mẹ anh bỗng đâu chợt đến: “Cưới vợ đi con, để ba má còn thấy mặt cháu chắt!” Anh nghĩ thầm: “Hay mình cưới cô này? Như Oanh đã xa rời duyên hải!”
Anh lại nhớ câu chuyện người bạn cùng khóa cưới vợ Tamassu. Không lẽ trời cũng run rủi mình đến đây gặp nàng? Chỉ sợ hôm nay rượu không vào lời không ra!
Ba Tuấn hỏi về công tác tuần tiễu vùng vịnh Thái Lan. Võ Bằng nói mới đến khu vực Nam Du, chưa chận xét tàu nào thì gặp ngư thuyền trôi giạt…
Em gái Tuấn rụt rè mà giọng ngọt ngào:
– Tụi em nghe bạn bè kể nhiều chuyện ma ở các đảo Nam Du, Bà Lụa. Hai anh có gặp ma không?
Câu hỏi bất ngờ làm cả bàn lặng đi. Võ Bằng mỉm cười nhìn Duyên Đoàn Trưởng:
– Đại diện vùng trả lời đi!
Duyên Đoàn Trưởng cười nói:
– Chúng tôi cũng có nghe. Nào là chuyện chiếc ghe câu không người mà có tiếng cô gái hát hò. Nào là có bóng người áo trắng hiện trong sương mù trên đỉnh Nam Du. Ngay trên chiến hạm, có một thủy thủ kể, một đêm anh đi tuần, thấy ở lái tàu có người đứng hút thuốc, anh lại gần người đó biến mất…
Em gái Tuấn la lên:
– Anh đừng kể nữa, sởn gai ốc rồi!
Tất cả bật cười. Võ Bằng không cười, lòng bâng khuâng: “Sao cô nàng sợ ma giống Như Oanh quá!”
Bữa cơm được dọn ra. Vài món đơn giản. Võ Bằng gắp mắm thái và với cơm. Anh khen:
– Xem chừng ngon hơn mắm thái Châu Đốc.
Mẹ Tuấn mỉm cười:
– Không dám! Được bằng đã là niềm vui lớn rồi! Đại Úy quê Châu Đốc?
Anh gật. Bà cười:
– Thôi rồi! Múa rìu qua mắt thợ!
Tiếng cười rôm rả. Võ Bằng hỏi sao có địa danh Rạch Giá. Ba Tuấn cho biết ngày xưa vùng này có nhiều cây giá mọc ven bờ các con rạch. Anh định hỏi thêm về lịch sử nhưng thấy đã đến giờ hẹn trở về, nên đành cùng Duyên Đoàn Trưởng cảm tạ và giã từ. Ba Tuấn tiễn ra cửa, giọng ân cần:
– Cám ơn các cháu giữ biển, nhờ đó mà Rạch Giá được bình an.
Em gái Tuấn mang ra hai bọc trao cho Võ Bằng và Duyên Đoàn Trưởng. Cô e ấp, ngọt ngào:
– Mẹ em gửi, nói hai anh bảo trọng.
Võ Bằng buột miệng:
– Còn cô, nói sao?
Em gái Tuấn khẽ đáp:
– Nếu có dịp… xin ghé lại.
Võ Bằng bước ra đường. Gió sông mát nhưng tâm hồn đong đưa sóng gió…
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét