Góc Việt Thi :
THU CHÍ của Nguyễn Du (2)
(Thất Ngôn Bát Cú)
"Thanh Hiên Thi Tập" của Thi Hào Nguyễn Du gồm có 78 bài thơ, có thể chia làm 3 phần như sau :
* A -Mười Năm Gió Bụi (1786-1795) thời gian lẫn trốn ở Quỳnh Côi
* B -Dưới Chân Núi Hồng (1796-1802) , về ẩn ở quê nhà .
* C -Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804)
Bài thơ THU CHÍ (Thất ngôn) sau đây nằm trong phần Mười Năm Gió Bụi.
1. Nguyên bàn chữ Hán của bài thơ :
秋 至 THU CHÍ
四 時 好 景 無 多 日, Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật,
拋 擲 如 梭 喚 不 回。 Phao trịch như thoa hoán bất hồi.
千 里 赤 身 為 客 久, Thiên lý xích thân vi khách cửu,
一 庭 黃 葉 送 秋 來。 Nhất đình hoàng diệp tống thu lai.
簾 垂 小 閣 西 風 動, Liêm thuỳ tiểu các tây phong động,
霜 暗 窮 村 曉 角 哀。 Sương ám cùng thôn hiểu giốc ai.
惆 悵 流 光 催 白 髮, Trù trướng lưu quang thôi bạch phát,
一 生 幽 思 未 曾 開。 Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
阮 攸 Nguyễn Du
* CHÚ THÍCH :
- PHAO TRỊCH 拋 擲 : PHAO là Quăng, TRỊCH là Ném, nên PHAO TRỊCH là Quăng đi ném lại, và PHAO TRỊCH NHƯ THOA 拋 擲 如 梭 là "Như con thoi bị quăng qua ném lại trong khung cửi" (Nói cho có vẻ khinh bạc hơn là câu "Ngày tháng tựa thoi đưa")
- HOÁN 喚 : là Kêu, gọi; HOÁN BẤT HỒI 喚 不 回 là "Gọi mãi cũng không về !".
- XÍCH THÂN 赤 身 : Nghĩa đen là "Mình trần, không có mặc quần áo gì cả !" Ở đây cụ Nguyễn Du mượn để chỉ "Chưa có áo mão cân đai gì cả!" chưa nên danh phận, chưa có chút công danh nào cả !
- LIÊM THÙY TIỂU CÁC 簾 垂 小 閣 : là "Rèm buông trên gác nhỏ". Đối với...
- SƯƠNG ÁM CÙNG THÔN 霜 暗 窮 村 : là "Sương phủ khắp xóm nghèo".
- TRÙ TRƯỚNG 惆 悵 : là Bâng khuâng, Chần chừ, Chán ngán...
- U TỨ 幽 思 : Những suy nghĩ đen tối, chán nản, vẩn vơ, yếm thế.
* NGHĨA BÀI THƠ :
MÙA THU ĐẾN
- Trong bốn mùa, không có được mấy ngày là cảnh đẹp.
- Thời gian vun vút trôi qua như thoi đưa, gọi cũng không trở lại.
- Trơ trọi một thân mình ở xa ngoài ngàn dặm, nơi đất khách đã lâu ngày,
- Mùa thu đưa đến với một sân đầy ắp lá vàng.
- Ngọn gió tây lay động bức mành mành trước căn gác nhỏ,
- Sương xuống mịt mù nơi thôn nghèo, tiếng tù và buổi sớm nghe đến não nùng!
- Thời gian lần lựa làm cho mái tóc mau bạc trắng hơn.
- Suốt đời ưu tư sầu muộn, chưa một lần giải tỏa được mối lo âu nầy.
* DIỄN NÔM :
THU CHÍ
Bốn mùa cảnh đẹp được bao ngày ?
Vun vút thoi đưa tựa lá bay.
Ngàn dặm chiếc thân cô khách nhớ,
Một sân đầy lá tiếng thu dài.
Buông rèm gác nhỏ tây phong thổi,
Sương phủ xóm nghèo tiếng sáo ai.
Lần lựa tháng ngày thêm tóc bạc,
Một đời lo nghĩ mãi u hoài !
Lục bát :
Bao ngày cảnh đẹp bốn mùa ?
Thời gian vùn vụt thoi đưa chẳng về.
Chiếc thân ngàn dặm não nề,
Đầy sân lá rụng tư bề gió thu.
Thổi tung gác nhỏ rèm châu,
Xóm nghèo sương phủ thêm sầu sáo ai.
Sương pha tóc trắng tháng ngày,
Một đời lo lắng u hoài nào vơi !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Bổ túc thơ phỏng dịch:
THU ĐẾN
Bốn mùa cảnh đẹp ngày đâu mấy
Quăng quật như thoi gọi chẳng quay
Muôn dặm lâu năm thân khách trọ
Một sân vàng lá tiễn thu đầy
Màn buông gác nhỏ tây phong lộng.
Tuyết phủ thôn nghèo mõ sớm lay
Áo não thời gian xui bạc tóc
Một đời sầu muộn chửa nguôi ngoai
Lộc Bắc
Oct25
THU SẦU
Có bao ngày bốn mùa cảnh đẹp ?
Bóng thời gian vun vút thoi đưa
Phận mình cô lữ nắng mưa
Mùa Thu lại đến lá vừa vàng bay
Ngọn gió Tây lắt lay rèm nhỏ
Sương mịt mù nhà cỏ quạnh hiu
Tóc sầu bạc tựa muối tiêu
Cả đời phiền muộn bởi nhiều lo âu
songquang
20251006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét