Đời Thủy Thủ 3
Chương 14: BÀ LỤA LÀ AI
Ba giờ chiều. Hạm Phó báo cáo thủy thủ đoàn đã về tàu đông đủ. Võ Bằng gật đầu, cho lệnh tập họp ở phòng ăn đoàn viên.
Năm phút sau, anh và Cố Vấn bước vào. Căn phòng hình hộp chữ nhật, những bóng đèn huỳnh quang trắng sáng hắt xuống bảy dãy bàn ghế bọc formica màu nước biển. Mùi cà phê và thuốc lá còn phảng phất. Hạm Phó hô dõng dạc, “Nghiêm!” Tất cả quân nhân đứng thẳng dậy. Võ Bằng ra hiệu ngồi.
Anh đưa mắt nhìn khắp lượt. Sáu hàng ghế hạ sĩ quan và đoàn viên đối diện hàng ghế sĩ quan. Không khí có phần nghiêm trang, nhưng trong ánh mắt nhiều người vẫn thấp thoáng sự tò mò và hứng khởi.
Võ Bằng cất cao giọng, rõ ràng và ấm áp:
– Chào anh em. Sau ngày nhận quyền chỉ huy, mãi đến hôm nay tôi mới có dịp gặp lại đông đủ. Điều rất vui là buổi sáng đi bờ Rạch Giá, tôi cứ đinh ninh sẽ có vài anh em… quên giờ về, nhưng tôi đã nghĩ sai.
Vài tiếng cười rộ phá tan bầu không khí khép kín. Võ Bằng tiếp lời:
– Cảm nghĩ của tôi sau hai tuần nhận Rạch Gầm là rất hài lòng. Hài lòng vì anh em giữ nghiêm kỷ luật. Hài lòng vì anh em chuyên nghiệp trong công việc. Và hơn hết, hài lòng vì thấy anh em thương yêu nhau như ruột thịt. Tôi xin ngợi khen và cám ơn tất cả. Điều tôi mong là thành tích này phải được duy trì, không chỉ hôm nay mà trong suốt hải trình dài. Các anh em hứa với tôi chứ?
Nhiều tiếng đáp vang:
– Xin hứa. Xin hứa, thưa Hạm Trưởng.
Võ Bằng mỉm cười, gật gù:
– Cám ơn anh em. Bây giờ là lúc… xả xú bắp. Anh em có điều gì buồn phiền, thắc mắc, cứ nói thẳng, nói hết cho nhẹ lòng.
Gian phòng bỗng lặng im. Chỉ nghe tiếng vù vù của hơi máy lạnh thoát ra. Võ Bằng khuyến khích:
– Đừng ngại gì cả. Tôi và các sĩ quan sẵn sàng giải quyết thỏa đáng.
Thượng Sĩ Quản Nội Trưởng mở đầu:
– Thưa Hạm Trưởng, tôi đại diện tất cả anh em đạo đạt lên Hạm Trưởng nguyện vọng sau đây: Hiện tại cuộc sống chúng tôi, nhất là những người có gia đình rất chật vật vì vật giá leo thang. Nên xin được tăng lương.
– Nguyện vọng chính đáng. Ngay khi về Sài Gòn, tôi sẽ trình lên Bộ Tư Lệnh nguyện vọng của các anh, không chỉ một mà là hai: xin tăng lương và xin tăng phụ trội ẩm thực khi đi biển.
Nhiều tiếng ồ vui vẻ vang lên. Võ Bằng lại hỏi:
– Ai còn thắc mắc?
Không thấy ai giơ tay, Trung Úy Tiến lên tiếng:
– Thưa Hạm Trưởng, thời cựu Hạm Trưởng, mỗi chuyến công tác đều có thực hiện công tác dân sự vụ. Công việc giản dị, là đến một lớp tiểu học dạy ca hát, kể chuyện cổ tích. Tôi đề nghị kỳ nghỉ bến tới, Hạm Trưởng cho phép Ban Chiến Tranh Chính trị đến trường tiểu học An Thới…
– Chấp thuận. Tôi sẽ tham gia cùng các anh. Thắc mắc kế tiếp?
Không ai lên tiếng. Võ Bằng quay sang Cố Vấn tóm lược lại sự việc bằng tiếng Anh. Anh chàng lắng nghe, vẻ mặt nghiêm trang, rồi hỏi:
– Tôi có máy chiếu và nhiều phim hoạt họa. Nếu chiến hạm cần cho công tác dân sự vụ, tôi sẵn sàng cung cấp.
Trung Úy Tiến nồng nhiệt:
– Rất cần. Cám ơn Đại Úy.
Võ Bằng hân hoan:
– Chuyến sau nhớ mang theo… Ai còn gì trình bày không?
Cả phòng lặng thinh, Võ Bằng chậm rãi tiếp:
– Trường hợp có gì không tiện nói ở đây, thì anh em gặp riêng tôi…
Anh quét ánh mắt lên mọi người lần nữa, trầm giọng:
– Bây giờ ta bàn công tác sắp tới. Sau buổi họp này, chúng ta sẽ nhổ neo rời Hòn Tre, trực chỉ quần đảo Bà Lụa. Đây là quần đảo có nhiều đảo hơn mọi quần đảo quanh vịnh Thái Lan: An Thới, Hải Tặc, Nam Du, Thổ Châu. Và cũng là quần đảo gần bờ nhất – chỉ cách Kiên Lương 20 cây số. Ngoại trừ Hòn Heo – đảo lớn nhất lập thành xã và vài đảo khác lập ấp. Còn lại đều là đảo hoang. Chính vì vậy, Bà Lụa trở thành nơi tàng trữ vũ khí đạn dược từ miền Bắc đưa vào. Nhiệm vụ chúng ta là chận đứng nguồn tiếp tế.
Cả gian phòng im phăng phắc. Anh lược dịch cho Cố Vấn rồi nhìn từng người, nghiêm giọng tiếp:
– Để tiếp tế, địch sử dụng hai phương tiện: một là tàu đánh cá có vận tốc nhanh, có trang bị radar lẫn vũ khí, đi từ miền Bắc. Chúng đổ hàng nhanh chóng ở nơi thuận tiện rồi rút nhanh ra hải phận quốc tế. Hai là các ghe nhỏ tại địa phương chuyển tiếp vào bờ. Ghe nhỏ vì dễ lẩn trốn radar, ít bị nghi ngờ và dễ phi tang.
Anh dừng lại hớp vài ngụm cà phê, như để lời anh thấm vào mọi người:
– Mặc dù chúng ta đã thiết lập bốn hàng rào ngăn chận: sát bờ biển có các chiến thuyền, gần bờ ba hải lý có các duyên tốc đỉnh, xa đến 12 hải lý có các chiến hạm, và xa hơn có Đệ Thất Hạm Đội, vậy mà địch vẫn liều mạng, bất chấp. Cho nên mỗi anh em phải hết sức cảnh giác từng phiên trực. Mọi nghi ngờ thấy được, mọi đối vật trên radar, cho tôi biết ngay để phản ứng kịp thời. Hãy tâm nguyện câu chúng ta từng học: “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”.
Võ Bằng ngưng lại, hít sâu, rồi chuyển giọng nhẹ nhàng:
– Về phương diện hải hành, phải hết sức quan tâm đến các vùng nước cạn. Hãy sử dụng fathometer khi tuần tra quanh Bà Lụa, đặc biệt giữa hai đảo, có nơi, khi nước ròng có thể đi bộ được. Ghe địch khi bị phát giác thường chạy trốn qua các ngả này. Hãy nhớ: anh em mắc cạn, Hạm Trưởng bay chức!
Cả phòng bật cười, không khí dịu xuống. Anh tiếp:
– Nhưng ngoài các hiểm nguy, quần đảo Bà Lụa cũng nổi tiếng về thắng cảnh. Người ta gọi đó là Vịnh Hạ Long của miền Nam. Tôi chưa từng đến Vịnh Hạ Long nhưng đã mê cảnh đẹp Bà Lụa. Mỗi đảo có cảnh trí mang nét đẹp riêng. Có đảo thì rừng xanh phủ tận bờ. Có đảo viền quanh bằng đá trắng như cẩm thạch. Có đảo là hai khối đá dựng đứng mang tên Hòn Phụ Tử… Rồi anh em sẽ thấy nay mai.
Nhiều khuôn mặt đoàn viên bỗng sáng lên, Võ Bằng vui vẻ tiếp:
– Bà Lụa có 40 đảo, mỗi đảo đều có tên gắn với giai thoại. Tôi từng phục vụ trên hải vận hạm, từng đặt chân lên Hòn Heo, nghe nhiều chuyện thú vị. Hôm nay, sau năm năm, nhân dịp trở lại, tôi muốn nghe thêm. Ai biết gì thì kể cho mọi người cùng nghe. Biết chuyện lạ về vùng mình công tác cũng lý thú.
Nhiều cánh tay giơ lên. Võ Bằng chỉ Trung sĩ An. An đứng dậy. Võ Bằng khoát tay:
– Cứ ngồi kể chuyện.
Giọng An trầm và ấm, nghe như như giọng ca sĩ Chế Linh:
– Thưa Hạm Trưởng, quý vị sĩ quan và các bạn. Tôi xin kể chuyện vì sao gọi là Bà Lụa. Ngày xưa, có một người đàn bà buôn lụa từ Hà Tiên về Rạch Giá. Ghe chở đầy cuộn lụa, vải màu. Gặp bão, bà cho thả bớt hàng mà vẫn không thoát. Ghe ập vào rạn san hô. Bão tan, dân chài thấy từng cuộn lụa trôi giạt, mắc trên vách đá, trải dài trên bãi. Bà và người chèo ghe mất tăm. Từ đó, dân gọi vùng đảo ấy là Bà Lụa. Ngư dân còn truyền rằng, trong những đêm trăng, đôi khi vẫn thấy bóng người đàn bà áo dài trắng đi dọc bãi cát…
Không khí lắng xuống. Hạm Phó mỉm cười, lắc đầu:
– Cũng có giai thoại khác. Rằng một bà tên Nguyễn Thị Lụa, vợ một quan người Pháp, hiền lành, không ưa chốn quan trường, bỏ ra quần đảo này nuôi tằm dệt lụa phát cho dân nghèo. Bà mất, dân nhớ ơn, đặt tên cả vùng là Bà Lụa, lập miếu thờ trên Hòn Heo.
Võ Bằng hỏi:
– Do đâu có tên Hòn Heo?
Hạ Sĩ Duyệt giơ tay:
– Tôi nghe nói, cũng Bà Lụa này lập thêm trại nuôi heo ở hòn đảo lớn nhất. Sau khi bà mất, dân gọi đảo ấy là Hòn Heo. Cảnh trí đảo rất khác: Rừng sát biển, bãi nhỏ nhưng cát thô, lẫn nhiều sỏi đá, khó đi chân trần.
Hạ Sĩ Thương – gốc Rạch Giá, nước da đen bóng, đôi mắt hẹp vì từng chịu sóng gió – góp thêm:
– Tôi cũng nghe, dân đảo chừng trăm người, rất hiếu khách. Ai đến đảo, vị đại diện mời nhậu cho bằng được. Món nhậu chỉ là mực, cá, cua nhưng ngon hết biết! Tôi mong chuyến này được lên đảo. Xin Hạm Trưởng cho neo vài giờ…
Võ Bằng cười:
– Vị chúa đảo đó có con gái không?
Cả phòng cười rộ. Hạ Sĩ Duyệt lắc đầu:
– Đâu biết!
Võ Bằng gật đầu:
– Vậy bữa nào tiện, tôi cho neo. Chúng ta lên đảo tìm hiểu. Còn sự tích nào khác? 40 đảo kia mà!
Trung Úy Tuấn lên tiếng:
– Tôi có dịp đọc trong thư viện Rạch Giá một tài liệu nói về một cụm đảo trong quần đảo này. Đó là câu chuyện buồn. Ngày xưa có gia đình ông Nhum sống trên một hòn đảo. Một hôm, ông bà Nhum cùng hai chàng rể đi đám cưới trong đất liền, chẳng may lúc trở về, biển nổi sóng to, gió lớn, thuyền đắm, tất cả bị chết đuối, thi thể mỗi người trôi giạt vào mỗi đảo. Người ta tìm được và sẵn đó đặt thành tên: Hòn Nhum Ông, Hòn Nhum Bà, Hòn Rể Lớn, Hòn Rể Nhỏ.
Anh ngừng lại như để mọi người thương cảm, rồi tiếp:
– Lại còn một cụm đảo khác là Ba Hòn Đầm. Điểm đặc biệt là ba hòn đảo chụm với nhau thành hình tam giác, tạo một khu vực nước cạn như cái đầm ở giữa. Tuy nhiên mỗi đảo đều có tên riêng như Hòn Đầm Đước – có nhiều cây đước, Hòn Đầm Dương – có nhiều cây dương, và Hòn Đầm Giếng, không rõ sự tích, có thể vì có giếng nước ngọt.
Võ Bằng gật gù:
– Còn Hòn Trẹm, nghe đồn có kho châu báu của bọn hải tặc mà đến nay chưa ai tìm ra. Một ngày đẹp trời nào đó, biết đâu chúng ta chẳng tìm ra kho châu báu đó…
Tiếng cười rộ lên. Trung Úy Tuấn nghiêm nét mặt:
– Tôi cũng có nghe lời đồn. Sở dĩ không ai tìm thấy là vì kho châu báu được canh giữ bởi những bóng ma thủy thủ chết chìm. Đêm khuya, ngư dân vẫn thấy các bóng trắng ẩn hiện trên đỉnh đảo. Thành ra không ai dám lên đảo.
Nhiều người rùng mình, le lưỡi. Võ Bằng nhìn đồng hồ:
– Thôi, kể hết 40 đảo chắc đến sáng. Cần nhổ neo ngay để kịp đến Bà Lụa lúc nửa đêm. Đó chính là thời điểm bọn vẹm tặc lộng hành.
Trong khi cùng đi lên đài chỉ huy, Võ Bằng tóm lược nội dung buổi họp cho Cố vấn.
***
Trời đã xế chiều. Biển xanh thẫm như tấm lụa nhung bị vuốt ngược. Võ Bằng đưa ống dòm chậm rãi quét một vòng chân trời. Biển êm, ghe thuyền đánh cá xuất hiện dày đặc. Lẽ ra thì nên bớt máy nhưng anh vẫn cho tiến nhanh. Lệnh của Bộ Tư lệnh Vùng là sau khi bàn giao, Rạch Gầm phải đi ngay đến Bà Lụa nhưng anh đã “ăn gian” cho đi chợ và đi bờ. Trong lòng, anh biết là sẽ phải viết tờ trình nhưng hy vọng mọi sự xuôi chèo mát mái.
Gió chướng chếch ngược nên khá mạnh và lành lạnh. Từ trên nóc đài chỉ huy, tiếng gió tuôn qua các dây cờ nghe như ai huýt gió. Một đàn chim bay thành hàng chéo, chấm chấm đen như những dấu mũ của một bản nhạc. Cố Vấn không bỏ lỡ cơ hội, chụp lấy chụp để mấy tấm hình làm kỷ niệm.
Hai chiếc ghe câu vừa tách rời khi thấy chiến hạm chạy đến. Nếu không, sóng dập có thể làm bể mạn ghe. Khi tàu đến gần, Võ Bằng hốt hoảng giảm máy. Trên một ghe, có cả đàn bà con nít. Hai chủ ghe vẫy tay chào. Võ Bằng vẫy đáp, nói to:
– Xin lỗi chúng tôi có chuyện gấp, phải chạy nhanh.
Một ông đối đáp:
– Không sao đâu. Việc binh là trọng. Tội nghiệp, mấy anh cực khổ cho chúng tôi yên ổn làm ăn.
Khi tàu chạy ngang, đứa bé bỗng khóc thét. Người đàn bà vội vạch vú cho con bú. Cố Vấn lại chụp lia lịa, nét mặt hớn hở. Ở Mỹ, dễ gì có cơ hội ngắm hình ảnh nghệ thuật thế này. Võ Bằng chợt thoáng bồi hồi. Hình ảnh giản dị ấy làm anh thèm một mái gia đình.
Hình bóng Như Oanh hiện lên, rồi mơ hồ pha lẫn dáng em gái Trung Úy Tuấn. Anh cân nhắc: “Như Oanh vẫn là ưu tiên. Nhưng nàng sắp lấy chồng, còn hy vọng gì!” Anh thở dài não nuột: “Giả sử nàng đồng ý làm vợ mình thì lại đụng hàng rào sắt của ba nàng.” Nhớ đến người bạn cùng khóa cưới con gái chúa đảo, anh lại nuôi hy vọng: “Phải đánh nhanh đánh mạnh. Phải thuyết phục Như Oanh mở tiệc rượu để mình nhậu với ba nàng. Rồi nhờ… rượu nói!” Anh mỉm cười hài lòng: “Có lý lắm!”
Máy truyền tin của Cố Vấn lên tiếng. Anh chàng bốc nghe và trao đổi. Rồi hỏi Võ Bằng, xin vị trí chiến hạm. Võ Bằng bước sang bật đèn bàn chỉ vòng tròn gạch chéo trên hải trình. Anh chàng lẩm nhẩm đọc trên hải đồ: ‘Ba Lua Islands’, “Hon Doi Moi Island”, “Hon De Island”, “Hon Duoc Island”, “Hon Dua Island”, “Hon Trem Island”. Võ Bằng bỗng tức cười với những cái tên xa lạ, vô hồn. Càng cười hơn, đã là Hòn rồi còn Island gì nữa!
Còi đổi phiên vang lên: 5 giờ 45. Võ Bằng đã thấy đói nhưng đành chờ thêm một tiếng nữa mới đúng bữa. Vả lại, ghe câu còn đông, anh không an tâm rời đài chỉ huy nên bước sang cánh tả nhìn biển mênh mông. Nắng chiều in dáng chiến hạm trên vùng nước xanh sẫm. Cái dáng đó lướt tới, rung rinh theo lượn sóng từ mũi tàu chẻ nước. Anh lại cho tăng máy…
Sĩ quan sắp mãn phiên đang định vị trí chiến hạm chuẩn bị bàn giao với động tác nhanh nhẹn, thành thạo. Các đoàn viên lần lượt thay thế. Trung Úy Đặng Thành Tài, người nhận phiên sau, là sĩ quan hải hành. Với Trung Úy Tài, Võ Bằng thấy an tâm thưởng thức bữa cơm tối ngon lành, nhất là bữa cơm sau khi đi chợ nhiều thịt cá tươi.
Tiếng phát từ miệng loa:
– Đài chỉ huy. Có đối vật hướng 1 giờ, khoảng cách 9 hải lý.
Xa, mà radar bắt được, có nghĩa đối vật khá lớn. Anh cùng Cố Vấn xuống phòng chiến báo. Màn hình hiện rõ, vết sáng di chuyển cho thấy hướng vào bờ. Anh ghi tọa độ. Mười phút sau, ghi lần nữa. Lấy khoảng cách chia thời gian, đối vật có tốc độ 19 gút – nhanh hơn tàu anh, khó thể đuổi kịp. Anh lập tức liên lạc với các khinh tốc đỉnh và chiến thuyền để nghinh đón. Cố Vấn chưa thấy cần sự trợ giúp của Đệ Thất Hạm Đội.
Cả hai trở lên đài chỉ huy. Võ Bằng ngồi lên ghế. Cố Vấn ôm la bàn đứng cạnh. Sương khói lan trên mặt biển nuốt dần ánh nắng cuối ngày. Một nửa mặt trời còn lơ lửng chân mây. Không gian như đặc lại, tối dần…
Bỗng tiếng loa dội lên lần nữa, dồn dập:
– Đài chỉ huy. Có đối vật hướng 10 giờ. Khoảng cách 2 hải lý.
Tim Võ Bằng thót lại. Hai hải lý – quá gần! Một đối vật nhỏ, nhưng chắc chở đầy vũ khí. Võ Bằng thấy cần phải bắt giữ hoặc tiêu diệt. Anh hối hả:
– Trung Úy Tài. Hỏi radar hướng di chuyển của đối vật.
Một khoảng im lặng căng thẳng. Rồi tiếng đáp từ loa:
– Xin chờ…
Vũ Thất
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét