Góc Việt Thi :
THU CHÍ của Nguyễn Du
Bài thơ nầy là một trong 39 bài trong Nam Trung Tạp Ngâm, thời kỳ Nguyễn Du làm quan ở Quảng Bình và Huế (1804-1814 ). Năm 1804, ông cáo bệnh từ quan xin về hưu, nhưng chỉ được có hơn một tháng thì có chỉ vua triệu vào cung giữ chức Đông Các Điện Học Sĩ, nên đành phải lên đường phó nhiệm. Bài thơ được làm trong khoảng thời gian nầy.
1. NGUYÊN BẢN CHỮ HÁN CỦA BÀI THƠ :
秋 至 THU CHÍ
香 江 一 片 月, Hương Giang nhất phiến nguyệt,
今 古 許 多 愁。 Kim cổ hứa đa sầu.
往 事 悲 青 塚, Vãng sự bi thanh trủng,
新 秋 到 白 頭。 Tân thu đáo bạch đầu.
有 形 徒 役 役, Hữu hình đồ dịch dịch,
無 病 故 拘 拘。 Vô bệnh cố câu câu.
回 首 藍 江 浦, Hồi thủ Lam Giang phố,
閒 心 謝 白 鷗。 Nhàn tâm tạ bạch âu !
阮 攸 Nguyễn Du
2. CHÚ THÍCH :
THU CHÍ 秋 至 : Mùa thu đến.
HƯƠNG GIANG 香 江 : Con sông chảy giữa kinh thành Huế, một thắng cảnh của tỉnh Thừa Thiên. Năm Ất Sửu (1805), Nguyễn Du được thăng hàm Đông Các Điện Học Sĩ, tước Du Đức Hầu và làm việc tại Kinh đô Huế. Nhưng lòng vẫn đeo nặng mối sầu thiên cổ.
HỨA ĐA 許 多 : là Biết bao nhiêu, chỉ Rất nhiều.
THANH TRỦNG 青 塚 : Trủng là gò đất cao. Thanh Trủng là gò đất xanh vì cỏ mọc, thường dùng để ví với các nấm mồ.
DỊCH DỊCH 役 役 : Chỉ sự làm việc vất vả như ở trong quân ngũ.
CỐ 故 : là Vì thế, là Cho Nên (Chỉ lý do).
CÂU CÂU 拘 拘 : Chỉ lom khom như gù lưng. Làm quan luôn luôn phải giữ vẻ khúm núm như là kẻ mắc bệnh gù lưng. Vẻ khúm núm của giới quan trường (đối với cấp trên).
PHỐ 浦 : Có 3 chấm thuỷ bên trái, nên Phố là Bến nước, Bến sông.
BẠCH ÂU 白 鷗 : là Những con hải âu màu trắng.
3. NGHĨA BÀI THƠ :
MÙA THU TỚI
Một mảnh trăng trên dòng Hương Giang đã khơi dậy biết bao là nỗi sầu kim cổ. Chuyện đã qua thì bi thảm như những nấm mộ xanh rì, thu mới đến thì lại làm cho bạc trắng cả mái đầu. Vì mang thân xác của con người nên luôn luôn phải làm việc cật lực vất vả. Và vì không có bệnh nên lại phải tiếp tục khúm núm trong quan trường. (Nếu ngọa bệnh thì khỏi làm việc và khỏi phải khúm núm trước quan trên). Quay đầu nhìn lại bến Lam Giang, ta muốn cám ơn những con chim hải âu trắng xóa đang bay lượn trên bến sông đã giúp cho lòng ta cảm thấy thanh nhàn hơn !
4. DIỄN NÔM :
THU CHÍ
Hương Giang trăng một mảnh,
Khơi dậy cổ kim sầu.
Chuyện qua mồ xanh cỏ,
Thu tới khiến bạc đầu.
Vì thân nên vất vả,
Không bệnh lại câu mâu.
Lam Giang trông bến nước,
Lòng nhàn với hải âu !
Lục bát :
Hương Giang một mảnh trăng thâu,
Cổ kim khơi động lòng sầu bao thu.
Chuyện qua buồn tựa cổ khâu,
Bâng khuâng thu đến bạc đầu không hay.
Mang thân nên vất vả hoài,
Quan trường khúm núm vì ai ngỡ ngàng.
Quay đầu nhìn bến Lam Giang,
Cám ơn âu trắng gợi nhàn bên sông !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Thêm bài dịch:
THU CHÍ
Dòng Hương Giang trăng treo một mảnh
Tự cỗ kim khơi chạnh niềm sầu
Chuyện qua buồn tựa mồ sâu
Thu về đã khiến bạc đẩu nào hay
Có thân xác còn hoài vất vã
Không quan trường khỏi ngã lợi danh
Lam Giang ngó lại gợi nhàn
Hải Âu trắng xoá, nhìn đàn tâm an
songquang
songquang
20251005
THU ĐẾN 1- Sông Hương trăng một phiến Kim cổ biết bao sầu Chyện cũ mồ xanh cỏ Thu nay bạc trắng đầu Có thân sai phục dịch Không bệnh giả lưng đau Ngoảnh lại Lam Giang bến Lòng nhàn tạ bạch âu!
|
2- Sông Hương trăng chiếu trên cao Trải qua kim cổ biết bao nhiêu sầu Chuyện xưa xanh cỏ mộ sâu Thu nay mới đó mái đầu bạc phơ Có thân phục dịch ngất ngư Tuy không mang bệnh giả vờ lom khom Lam Giang bến nước ngoảnh dòm Bạch âu xin tạ, sớm hôm hưởng nhàn! Lộc Bắc Oct25 |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét