Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2021

Góc Đường Thi: Phú Đắc Thu Cúc Hữu Giai Sắc (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Đường Thi : 

          Phú Đắc Thu Cúc Hữu Giai Sắc
                            
          
                              Công Thừa Ức
                                       
      Công Thừa Ức 公 乘 億, thi nhân đời Đường không rõ năm sanh năm mất. Ông tự là Thọ Tiên 壽 仙 (có tài liệu cho là Thọ Sơn 壽 山), người đất Ngụy Châu (tỉnh Hà Bắc hiện nay). Ông xuất thân bần hàn, gần ba mươi tuổi nhưng thi mãi vẫn không đậu. Năm Hàm Thông thứ 12 đời vua Đường Ý Tông (871) mới đậu tiến sĩ. Năm Càn Phù thứ 4 đời Đường Hi Tông, ông nhậm chức Huyện Úy huyện Vạn Niên, được quan Doãn Kinh Triệu là Thôi Dục cử làm quan Chủ Khảo, sau lại được Tiết Độ Sứ Nguỵ Bác thu dụng, gia phong hàm Giám Sát Ngự Sử.
      Sau đây là bài thơ làm theo "Thể Phú Đắc" trước khi ứng thí của ông :

賦 得 秋 菊 有 佳 色   Phú Đắc Thu Cúc Hữu Giai Sắc
 
 陶 令 籬 邊 菊,     Đào Lệnh ly biên cúc,
 秋 來 色 轉 佳.     Thu lai sắc chuyễn giai.  
 翠 攢 千 片 葉,     Thúy toàn thiên phiến diệp,
 金 剪 一 枝 花.     Kim tiễn nhất chi hoa.
 蕊 逐 蜂 須 亂,     Nhụy trục phong tu loạn,
 英 隨 蝶 翅 斜.     Anh tùy điệp xí tà.
 帶 香 飄 綠 綺,     Đái hương phiêu lục ỷ,
 和 酒 上 烏 紗.     Hòa tửu thướng ô sa.
 散 漫 搖 霜 彩,     Tản mạn diêu sương thái,
 嬌 妍 漏 日 華.     Kiều nghiên lậu nhật hoa.
 芳 菲 彭 澤 見,     Phương phi Bành Trạch kiến,
 更 稱 在 誰 家.     Cánh xứng tại thùy gia ?!
        公 乘 億                       Công Thừa Ức

                          

* Chú thích :
      Đây là bài thơ Ngũ ngôn Cỗ phong làm theo thể Phú Đắc. 
   - PHÚ ĐẮC THỂ 賦 得 體 : là thể thơ được áp dụng trong khoa cử, nên tất cả sĩ tử ngày xưa muốn đi thi đều phải tập làm thể thơ nầy. Về Niêm Luật Bằng Trắc đều như thơ bình thường, nhưng đòi hỏi BỐ CỤC phải chặt chẽ theo đầu đề bài thơ. Nếu là Luật Thi, thì Khởi, thừa, chuyển, hợp (hay Mạo, thực, luận, kết) phải phân minh, đối xứng phải nghiêm cẩn xác đáng. Toàn bài thơ ý tứ phải liền lạc hô ứng nhau. Điểm đặc biệt là hai chữ đầu của tựa đề bài thơ phải là hai chữ PHÚ ĐẮC, như bài thơ nầy chẳng hạn. Còn một bài làm để trình cho quan khảo thí rất nổi tiếng của Bạch Cư Dị, đó là bài THẢO 草 (cỏ), nhưng cái tựa phải viết thành "Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt 賦 得 古 原 草 送 别" với cập chuyển rất nổi tiếng là: "Dã hỏa thiêu bất tận, Xuân phong xuy hựu sinh 野 火 燒 不 盡,春 風 吹 又 生" Có nghĩa: "Lửa dại thiêu không chết, Gió xuân thổi lại xanh".
   - Phú 賦 : là một thể văn xuôi có vần có điệu, còn được gọi là văn biền ngẫu hay tứ lục, như trong bài Đằng Vương Các Tự của Vương Bột đời Đường với các câu như: Quan sơn nan việt, thùy bi thất lộ chi nhân; Bình thủy tương phùng, tận thị tha hương chi khách 關 山 難 越,誰 悲 失 路 之 人;萍 水 相 逢,盡 是 他 鄉 之 客。Có nghĩa: Núi non khó vượt, ai thương người lở bước sa chân; Bèo nước gặp nhau, đều là khách xa quê lìa xứ"... Nhưng khi là Động từ thì PHÚ 賦 có nghĩa là LÀM hoặc NGÂM thơ, như trong bài Tiền Xích Bích Phú của Tô Đông Pha đời Tống lúc tả Tào Tháo đang đóng quân trên sông Xích Bích: ...Si tửu lâm giang, hoành sóc phú thi 釃 酒 臨 江,橫 槊 賦 詩... Có nghĩa... Rót rượu bên bến sông, cầm ngang ngọn giáo mà ngâm thơ..."
  - Đào Tiềm 陶 潛 (365-427) tự là Uyên Minh 淵 明, người đất Sài Tang, Tầm Dương, nay thuộc thành phố Cửu Giang. Ông là một ẩn sĩ cao nhã đời Đông Tấn, từng làm huyện lệnh huyện Bành Trạch, nên còn được gọi là Đào Lệnh hay Đào Bành Trạch. Vì không chịu lòn cúi để mỗi tháng nhận lãnh 5 đấu gạo lương thực, nên ông từ quan về ở ẩn, vì thế người đời còn gọi ông là "Ngũ Đấu Mễ Tiên Sinh 五 斗 米 先 生"(Tiên sinh 5 đấu gạo). Trong các tác phẩm của ông ngoài 20 bài thơ Ẩm Tửu, Quy Điền Viên Cư, Đào Hoa Nguyên Ký, Quy Khứ Lai Từ... còn có "Ngũ Liễu Tiên Sinh Truyện 五 柳 先 生 傳" trong đó ông nói rõ ý chí của mình, nên người đời còn gọi ông là Ngũ Liễu Tiên Sinh 五 柳 先 生 (Tiên sinh có trồng 5 cây liễu). Khi về ở ẩn ông chuyên trồng hoa cúc và ướp rượu cúc, nổi tiếng với hai câu thơ:
             Thái cúc Đông ly hạ,       採 菊 東 籬 下,
             Du nhiên kiến nam sơn.  悠 然 見 南 山.
      Có nghĩa:
                    Hái cúc dưới rào đông,
                    Xa xa ngắm núi nam.
    - Toàn 攢 : có bộ Thủ 扌bên trái, có nghĩa là Nhặt nhạnh gom góp tập họp lại.
    - Kim Tiễn 金 剪 : là Cây kéo bằng vàng, ý chỉ những trận gió mùa thu (Gió thổi từ hướng Tây, Tây phương Canh Tân thuộc Kim, nên gió thu còn được gọi là KIM PHONG, là Gió Vàng, như câu thơ mở đầu cho Cung Oán Ngâm Khúc: "Trãi vách quế GIÓ VÀNG hiu hắt") như những chiếc kéo bằng vàng đã khéo léo cắt nên những cánh hoa cúc xinh tươi.
    - Anh 英 :ở đây chỉ những Cánh Hoa Rơi, là viết gọn lại của từ LẠC ANH 落 英. Cánh Hoa ở câu nầy để đối Nhụy Hoa ở câu trên.
    - Lục ỷ 綠 綺 : là Vải nhiễu màu xanh lục; cũng có nghĩa là tiếng đàn Lục Ỷ (Cây đàn mà Tư Mã Tương Như đời Hán đã đàn khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng làm cho nàng Trác Văn Quân nửa đêm phải bỏ nhà trốn theo).
    - Ô Sa 烏 紗 : là Giải lụa màu đen dùng để bịt đầu. Nếu là Ô SA MẠO 烏 紗 帽 thì là Mão Ô Sa của các quan đội khi làm việc, xử án từ đời Tấn về sau. Đội Mão Ô Sa cho có vẻ chính trực nghiêm minh, chí công vô tư.
    - Tản Mạn 散 漫 : là Phát tán, là toả ra chung quanh.
    - Kiều Nghiên 嬌 妍 : Kiều diễm tươi đẹp.
    - Lậu 漏 : là Nhễu, là cái đồng hồ ngày xưa cho nước nhễu để tính thời gian. NHẬT HOA 日 華 chỉ ngày thu đẹp đẽ; nên LẬU NHẬT HOA 漏 日 華 là Ngày thu đẹp đẽ dần dần mất đi theo tiếng nhỏ giọt của đồng hồ nước dùng để tính thời gian. 
    - Phương Phi 芳 菲 : Thơm tho đẹp đẽ (của hoa lá cỏ cây, sau dùng rộng ra để chỉ vẻ thơm tho đẹp đẽ của các người đẹp). Trong tiếng Nôm ta, thì PHƯƠNG PHI chỉ chung cho những người có da có thịt, tướng mạo dễ nhìn (chỉ cả nam lẫn nữ).

* Nghĩa bài thơ :
        Bài thơ tả về Hương Sắc Đẹp Đẽ của Hoa Cúc vào mùa Thu.

        Những bông hoa cúc được trồng dưới rào của Đào Uyên Minh đến mùa thu lại chuyển sang màu sắc đẹp đẽ. Màu xanh tươi như gom cả vào hàng ngàn phiến lá xanh và gió thu như những chiếc kéo vàng cắt nên những cành hoa vàng đẹp đẽ. Nhụy hoa như muốn xua đi những chiếc râu của các con ong đến hút mật làm loạn cả nhụy hoa và những cánh hoa rơi bay nghiêng nghiêng theo từng cánh bướm. Hoa mang mùi hương tỏa nhẹ nhàng như những giải lụa xanh (hay thoang thoảng như tiếng đàn Lục Ỷ) hòa cùng với mùi rượu cúc phảng phất lên cả trên giải lụa đen dùng để bịt đầu (hay Mão Ô Sa). (Mùi hương và vẻ đẹp của hoa cúc) tản mạn lan tỏa như làm lung lay cả sắc thái của sương thu và nét đẹp kiều diễm duyên dáng của hoa cúc bất chấp cả ngày thu đẹp đẽ đang dần ngã về chiều. Cái vẻ phương phi thơm tho đẹp đẽ của hoa cúc chỉ có ông Bành Trạch mới thấy rõ được mà thôi, thì thử hỏi xem còn có nhà nào xứng đáng làm chủ hoa cúc hơn được nữa chứ?!

    Thiết nghĩ, Đào Tiềm đã treo ấn từ quan, sống cảnh thanh bần, thì lấy đâu ra đàn LỤC Ỷ và đã chán ghét quan trường, không vì 5 đấu gạo mà chịu cúi lòn, thì lấy đâu ra Mão Ô Sa khi trồng hoa cúc ở dưới hàng rào phía đông nhà?! Nên theo tôi, thì bản chép tay của vua Khang Hy sát thực tế và có lý hơn với hai câu:  
        帶 香 飄 綠 綺,    Đái hương phiêu lục ỷ,
        和 影 上 窗 紗.    Hòa ảnh thướng song sa.
      Có nghĩa :
        Mang mùi hương phảng phất như giải lụa xanh... 
        Hòa cùng với hình ảnh của giải lụa là phất phơ bên song cửa sổ.

* Diễn Nôm :                  
         PHÚ ĐẮC THU CÚC HỮU GIAI SẮC
                
                    

             Hoa cúc Đào Lệnh bên rào,
             Đến thu sắc chuyển đẹp sao lá cành.
             Biếc xanh ngàn lá họp thành,
             Kéo vàng ai tỉa nên cành hoa xinh.
            Nhụy chê ong loạn râu xanh,
            Cánh hoa theo bướm lìa cành nghiêng chao.
            Mùi hương thoang thoảng lụa đào,
            Hòa cùng hơi rượu nực màu ô sa.
            Hương hoa tản mạn la đà,
            Sắc hoa kiều diễm nắng tà ngày thu 
           Phương phi Bành Trạch gật gù,
           Còn nhà nào xứng cúc thu nương mình?!

                                                     Đỗ Chiêu Đức 








Không có nhận xét nào: