Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2022

Tạp Ghi và Phiếm Luận: NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ (7) (Đỗ Chiêu Đức)

 Tạp Ghi và Phiếm Luận :

    NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ  (7)
                               
                                    
                      Chim chít mà đậu cành tre...
             
      Đó là một vế trong CHỮ NHO... DỄ HỌC nói về bộ Xích, theo thứ tự trong 214 Bộ Thủ của chữ Nho như sau:

     XÍCH 彳: là Bước Chân Trái. Cũng có nghĩa là Bước Chậm rãi. XÍCH vừa là Bộ vừa là Chữ. Khi là Bộ, thường đứng bên trái và được gọi là "Song Nhân Bàng 雙 人 旁" có nghĩa là Bộ gồm có hai chữ Nhân 人 chồng lên nhau 彳. Những chữ được ghép bởi Bộ XÍCH thường chỉ về Đi Đứng, Đường xá, Hành vi của con người. Ta còn có một biến dạng của bộ XÍCH là chữ SÁCH 亍 (còn đọc là XÚC) là Bước chân phải, nên XÍCH SÁCH 彳亍 : Bước chân trái một cái, bước chân phải một cái là đi Tản bộ, là đi Bách bộ, đi chầm chậm, như trong bai câu thơ của Lý Chí đời Minh:

     踟 蹰 横 渡 口,    Trì trù hoành độ khẩu,
    彳 亍 上  灘 舟。   XÍCH SÁCH thướng than chu.
Có nghĩa :
                     Chần chừ trước bến đò ngang,
              NGẦN NGỪ bước xuống thuyền sang bến bờ.
            
                          
                    Chim chít mà đậu cành tre...

     Ghép XÍCH 彳(bước chân trái) với SÁCH 亍 (bước chân phải) lại với nhau, ta có chữ HÀNH 行 là ĐI, như Hành Tẩu Giang Hồ 行 走 江 湖 (là Đi Lại trên chốn giang hồ). Nghĩa phát sinh của HÀNH là LÀM, như Hành Động 行 動; Đi đứng, ăn nói, cử chỉ là HÀNH VI 行 為, mà Hành Vi là cái thể hiện phẩm chất đạo đức của con người, nên HÀNH còn được đọc là...

     HẠNH 行 là PHẨM HẠNH 品 行 như câu nói của ông bà thường dạy: Nhân sanh bách HẠNH hiếu vi tiên 人 生 百 行 孝 為 先. có nghĩa: Đời sống con người có cả trăm phẩm hạnh, hiếu là Phẩm hạnh đầu tiên nhất. Cũng chữ HÀNH khi đọc là...

     HÃNG 行 thì có nghĩa là Nơi sản xuất, là cửa hàng; như TỬU HÃNG 酒 行 là Hảng rượu (Nơi chế biến và bán rượu). Nhớ trước năm 1975, các báo tiếng Hoa trong Chợ Lớn có đăng quảng cáo cho một Công ty xuất nhập khẩu ở Hồng Kông có tên là 行 行 行 thu hút không ít khách hàng muốn tìm hiểu xem Công Ty nầy kinh doanh cái gì và tên của công ty phải đọc như thế nào, làm cho business của công ty cũng trở nên vô cùng bận rộn và phát triển... Thì ra công ty đó đang chơi trò Giả Tá, ba chữ 行  行  行 đọc là : HẠNH HÀNH HÃNG, tức là cái Hãng có tên là Hạnh Hành, thế thôi! Vì HÃNG cũng là cửa hàng, nên chữ HÀNH còn được đọc là...

     HÀNG như NGÂN HÀNG 銀 行 là Cửa hàng chuyên môn kinh doanh về tiền bạc.
     HÀNG còn là HÀNG NGŨ 行 伍 như hai câu đầu trong bài Tuyệt Cú 絕 句 của Thi Thánh Đỗ Phủ 杜 甫 là:
     兩 個 黃 鸝 鳴 翠 柳,   Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu,
     一 行 白 鷺 上 青 天。   NHẤT HÀNG bạch lộ thướng thanh                                                  thiên.
Có nghĩa :
                 Hai cái oanh vàng ca liễu biếc,
                 MỘT HÀNG cò trắng vút trời xanh.

                                                       

      HÀNG còn có nghĩa là Ngành Nghề như "Cải HÀNG 改 行" là Đổi Nghề. Ta có thành ngữ: HÀNG HÀNG XUẤT TRẠNG NGUYÊN 行 行 出 狀 元 : có nghĩa là Bất cứ ngành nghề nào cũng đều có Trạng Nguyên của ngành nghề đó cả. Ý muốn nói: Bất cứ nghề nào cũng có thể phát triển đến đỉnh điểm và làm giàu lớn được cả! 
      HÀNH 行 : còn là một thể loại Văn Học chỉ tất cả các bài thơ có thể phổ nhạc và hát được kể cả thơ trường thiên, như: TÌ BÀ HÀNH 琵 琶 行 của Bạch Cư Dị, TÒNG QUÂN HÀNH 從 軍 行 của LÝ Cần, LỆ NHÂN HÀNH 麗 人 行 của Đỗ Phủ....

      HÀNH 行 là chữ tiêu biểu cho câu nói của ông bà ta xưa kia thường nhắn nhủ là: Nhất tự lục nghì 一 字 六 義 (Một chữ mà có tới 6 nghĩa!)
      
      Trở lại với câu thiệu mở đầu bài viết nầy với đầy đủ cặp Lục Bát như sau:

                      Chim chích mà đậu cành tre,
                  Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm !

      "Chim chích mà đậu cành tre" là bộ XÍCH ㄔ mà chúng ta đã biết ở trên. Câu tám "THẬP 十 trên TỨ 四 dưới NHẤT 一 đè chữ TÂM 心" là chỉ nói theo tự dạng mà thôi; Lẽ ra phải là "THẬP 十 trên MỤC 目 dưới NHẤT 一 đè chữ TÂM 心" mới đúng. Vì đó là chiết tự của chữ ĐỨC 德 với nghĩa Hội Ý của 5 bộ lại như sau :

       Bộ XÍCH ㄔ bên trái chỉ Bước chân với ý hiểu rộng ra là ĐI ĐỨNG, THẬP MỤC 十 目 (chữ MỤC được đặt nằm ngang) là Mười con mắt, Ý chỉ THẤY NHIỀU. NHẤT TÂM 一 心 là Một Tấm Lòng. Vậy ĐỨC 德 là gì?! Xin thưa theo phép Hội Ý là:

       "ĐI NHIỀU, THẤY NHIỀU, mà làm việc gì hay xét đoán điều gì đó biết thông qua MỘT TẤM LÒNG để xét nét rồi mới nói mới làm, thì đó chính là lời nói và hành động có ĐỨC đó!"

       Một hình thức khác nữa của chữ Đức 德 là Đức 惪 (hay 悳 Đức) nầy đây. Bỏ hẵn bộ XÍCH 彳bên trái, và bộ Mục 目 được viết thẳng đứng hẵn hoi, hợp với chữ Thập 十 thành chữ TRỰC 直 là Ngay thẳng. Chiết tự chữ ĐỨC 惪 nầy gồm có TRỰC 直 trên, TÂM 心 dưới có nghĩa: Một tấm lòng ngay thẳng! Vâng, MỘT TẤM LÒNG NGAY THẲNG đã là ĐỨC rồi!        
                      
                            
                   Diễn tiến và hình thành của chữ ĐỨC 德
        
       Ông bà ta thường nói "Có ĐỨC mặc sức mà ăn" cho thấy "Cái ĐỨC" của con người quan trọng biết chừng nào! Không dám lạm bàn, chỉ nói theo "chiết tự" của chữ viết: ĐỨC là lời nói và việc làm ngay thẳng đúng với lương tâm của con người đang sống trong một xã hội nào đó!      
       Còn một chữ nữa cũng khá thú vị đối với các thư sinh học chữ Nho ngày xưa, đó là chữ NHIÊN 然 : là Nấu, là Đốt... theo câu thiệu chiết tự của các Cụ Đồ Nho ngày xưa như sau:

                Canh khuya NGUYỆT xế tà tà,
           Bỗng nghe CHÓ cắn canh đà điểm TƯ !
Ta thấy :
     Chữ NHIÊN 然 phần trên bên trái có chữ NGUYỆT 月 được viết xiên xiên tà tà, bên phải là chữ KHUYỂN 犬 là con chó đang Sủa (cắn) trăng, và tận cùng phía dưới là bộ HOẢ 火 biến thể bằng 4 chấm 灬 (canh đà điểm tư !)  Chữ NGUYỆT 月 còn là một hình thức biến dạng của bộ NHỤC 肉, mà NHỤC 月 với KHUYỂN 犬 ghép lại cũng là chữ NHIÊN 肰 có nghĩa là THịT CHÓ. Nên hai câu thiệu bằng Lục Bát nói trên có thể lý giải theo phép Hội Ý lý thú như sau:

     ... Đêm trăng thanh gió mát, cùng tụ tập dưới ánh trăng nghiêng nghiêng, ngâm thơ uống rượu và "nhâm nhi" với thịt chó đang bốc khói trên lò lửa, thì còn gì khoái trá cho bằng?! Nên ...

     NHIÊN 然 là Động từ có nghĩa gốc là Đốt, là nấu, nhưng thường được sử dụng làm Trợ từ có nghĩa là: Đúng vậy! là Hiển Nhiên là thế! là Tự Nhiên! là Naturellement! là Naturally! Khi dùng để chuyển tiếp thì có nghĩa là: Rồi Sau Đó... là Nhiên Hậu 然 後... Còn...
        

       NHIÊN (Chung Đĩnh văn)    Kim văn                   Tiểu Triện                   Khải Thư

     Chữ NHIÊN 然 bây giờ chỉ có nghĩa là NẤU, là ĐỐT khi được gia thêm một bộ HỎA 火 ở bên trái nữa như sau 燃, như trong từ NHIÊN LIỆU 燃 料 là Chất Đốt vậy...
                
                        
        
        - NHIÊN PHÁO HOA 燃 炮 花 là Đốt pháo bông, là bắn pháo hoa.
        - NHIÊN ĐĂNG 燃 燈 là Đốt đèn, là thắp đèn lên.
        - NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT 燃 燈 古 佛 là một vị Phật (tiếng Phạn là Dipankara hay Dipanikara) là vị Phật thứ tư trong danh sách 28 vị Phật. Nhiên nghĩa là đốt cháy, Đăng là cây đèn. Nhiên Đăng Cổ Phật cũng có khi được gọi là Nhiên Đăng Phật (燃 燈 仏), Đính Quang Phật 錠 光 佛, "Đính 錠" là cái chân đèn.
     Trong Đại Trí Độ Luận, đức Nhiên Đăng Cổ Phật khi đản sinh, chung quanh thân sáng như đèn, cho nên gọi là Nhiên Đăng Thái Tử. Khi thành Phật cũng gọi là Nhiên Đăng, xưa gọi tên là Đính Quang Phật. Ở các chùa Việt Nam và Trung Quốc, Nhiên Đăng Cổ Phật thường được thờ chung với Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật Di-lặc trong bộ tượng Tam Thế Phật, nghĩa là các vị Phật thời quá khứ, hiện tại, và vị lai (trong đó Phật Nhiên Đăng đại diện cho chư Phật trong quá khứ, Phật Thích-ca là vị Phật thời hiện tại, và Phật Di-lặc tượng trưng cho chư Phật thời vị lai).
                
                           

      Hẹn bài viết tới !

                                                            杜 紹 德
                                                         Đỗ Chiêu Đức







Không có nhận xét nào: