Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2024

Góc Việt Thi : Thơ Xuân Cao Bá Quát (P.5) ( Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Thi : 

        Thơ Xuân  Cao Bá Quát (P. 5)           
                           
                                    
* Bài thơ LẬP XUÂN HẬU NHẤT NHẬT TÂN TÌNH :

立春後一日新晴      Lập Xuân Hậu Nhất Nhật Tân Tình
 
去日春來破舊寒,    Khứ nhật xuân lai phá cựu hàn,
今朝紅紫鬥千般。    Kim triêu hồng tử đấu thiên ban.
何當世事如花事,    Hà đang thế sự như hoa sự,
風雨江山盡改觀。    Phong vũ giang sơn tận cải quan.
         高 伯 适                         Cao Bá Quát

                                         

* Chú thích :
    - Tân Tình 新 晴 : là Nắng mới (Sau ngày Lập Xuân).
    - Khứ Nhật 去 日 : là Những ngày đã đi qua.
    - Kim Triêu 今 朝 : là Sáng hôm nay.
    - Hồng Tử Đấu Thiên Ban 紅 紫 鬥 千 般 : Muôn hồng ngàn tía tranh nhau khoe sắc. 
      Thiên Ban 千 般 : là Cả Ngàn vẻ, chỉ rất nhiều dáng vẻ.
    - Hà Đang 何 當 : Sao mà có thể; Sao mà được...
    - Thế Sự 世 事 là Chuyện đời; Hoa Sự 花 事 là Chuyện chơi hoa.
    - Cải Quan 改 觀 : là Thay đổi cách nhìn, thay đổi quan niệm.

* Nghĩa bài thơ:
                         Một Ngày Nắng Ráo Sau Tiết Lập Xuân
        Những ngày qua mùa xuân đã ngự về phá tan đi cái lạnh lẽo của những ngày tháng cũ. Sáng hôm nay hồng tía muôn ngàn dáng vẻ đang khoe sắc. Ước sao có thể xem chuyện đời như là chuyện chơi hoa, Sau một cơn mưa gió thì tất cả giang sơn đều đổi mới, đều có cái nhìn mới mẻ khác hơn xưa.

* Diễn Nôm :
                    
                 

                   Xuân đến hôm qua xua lạnh tan,
                   Sáng nay hồng tía thắm muôn ngàn.
                   Ước chi thế sự như hoa sự,
                   Đổi mới non sông đổi cảm quan.
      Lục bát :
                   Ngày qua xuân đến lạnh đi,
                   Sáng nay hồng tía hoa thi sắc màu.
                   Chuyện hoa như chuyện đời sao ?
                   Núi sông chuyển đổi sắc màu sau mưa ! 
                      
* Bài thơ BẠC XUÂN GIẢN NGUYỄN CHÍNH TỰ :

 薄春簡阮正字         Bạc Xuân Gỉan Nguyễn Chính Tự
  
薄暮思君君不來,      Bạc mộ tư quân quân bất lai,
披襟時借好風催。      Phi khâm thì tá hảo phong thôi.
過橋忽動聲聲履,      Quá kiều hốt động thanh thanh lý,
入室還傾滿滿杯。      Nhập thất hoàn khuynh mãn mãn bôi.
四海知交無我拙,      Tứ hải tri giao vô ngã chuyết,
百年心事共誰開。      Bách niên tâm sự cộng thuỳ khai.
多情為謝檳榔月,      Đa tình vị tạ tân lang nguyệt,
曾伴幽人孤夢回。      Tằng bạn u nhân cô mộng hồi.                              高 伯 适                              Cao Bá Quát
       
                     
  
* Chú thích :
    - Bạc Xuân 薄春 : là Mùa xuân mỏng, là Đầu Xuân, còn gọi là Tảo Xuân 早春 hay Sơ Xuân 初春. Giản 簡 : là Cái thẻ tre dùng để viết chữ ngày xưa khi chưa có giấy. Động từ có nghĩa là Gởi cái đã viết đi.
    - Bạc Mộ 薄暮 : Trời vừa mới ngã chiều, là hoàng hôn.
    - Phi Khâm 披襟 : Khoát vạt áo lên mình.
    - Lý 履 : là Bước chân, dấu giày. Lý Lịch 履 歷 : là Những bước chân đã đi qua; những việc đã từng trải.   
    - Vô Ngã Chuyết 無 我 拙 : CHUYẾT là Vụng về; nên VÔ NGÃ CHUYẾT là Không có ai vụng về như tôi.
    - Cộng Thùy Khai 共 誰 開 : Khai với ai đây? Biết ngỏ cùng ai đây!
    - Tân Lang Nguyệt 檳 榔 月 : là Ánh trăng treo ở trên đầu cây cau. 
    - U Nhân 幽 人 : Con người U nhã, người ẩn cư.

* Nghĩa bài thơ :
                      Đầu Xuân Gởi cho Nguyễn Chính Tự
        Trời đã về chiều đợi anh mà chẳng thấy anh tới. Khoát tà áo lên mình đứng đây mượn nhờ làn gió mát thổi. Lê bước chân sột soạt bước qua cầu để đi về (vì không đợi được nữa). Vào nhà rồi thì rót từng chén rượu đầy ăm ắp mà uống. Bạn bè trong bốn biển chẳng có ai vụng về và tệ như tôi cả. Tâm sự trăm năm ở trong lòng biết phải ngỏ cùng ai đây? Tình cảm đầy ắp trong lòng chỉ còn biết nhờ vào ánh trăng trên đầu ngọn cau đã từng làm bạn với con người u ẩn nầy về với giấc mộng cô đơn mà thôi.  
        Cao Chu Thần đợi bạn không tới, không ai để đối ẩm, không ai để giải bày tâm sự, nên đâm ra lẫy hờn, nghĩ mình là người vụng về nên bạn chê không thèm đến, chỉ còn biết làm bạn với áng trăng trên đọt cau, rồi về với giấc mộng đơn côi của mình mà thôi!   

* Diễn Nôm:

                   


                 Trời chiều nhớ bạn bạn không sang,
                 Khoát áo đợi chờ mượn gió than.
                 Lê gót xạc xào chân bước chậm,
                 Vào nhà ăm ằp rượu ly tràn.
                 Tri giao bốn bể như ta tệ,
                 Tâm sự trăm năm chẳng kẻ màng.
                 Gởi lại ngọn cau vầng trăng bạc,
                 Đã từng bầu bạn... giấc mơ tan !
   Lục bát :
                 Chiều trời đợi bạn không sang,
                 Áo tơi khoát vội gió tràn hơi xuân.
                 Qua cầu lê bước bâng khuâng,
                 Vào nhà đầy ắp ly gần ly xa.
                 Bạn bè tệ nhất là ta,
                 Trăm năm tâm sự khề khà với ai ?
                 Đa tình trăng ngọn cau đây,
                 Đã từng bầu bạn giờ nầy một thân.


* Bài Thơ XUÂN LAI TÂM LỰC LƯỠNG KHAM TĂNG :

春 來 心 力 兩 堪 憎 (病 中) XUÂN LAI TÂM LỰC LƯỠNG KHAM TĂNG (BỆNH TRUNG)
  
春來心力兩堪憎,      Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng,
損盡腰圍瘦不勝。      Tổn tận yêu vi sấu bất thăng.
入世隻身千里馬,      Nhập thế chích thân thiên lý mã
看書雙眼萬年燈。      Khan thư song nhãn vạn niên đăng.
拙妻倚枕梳蓬鬢,      Chuyết thê ỷ chẩm sơ bồng mấn,
稚子牽衣藉曲肱。      Trĩ tử khiên y tạ khúc quăng.
一笑那知閒未得,      Nhất tiếu na tri nhàn vị đắc,
小爐煎茗淡於僧。      Tiểu lô tiên mính đạm ư tăng?
         高 伯 适                                Cao Bá Quát

  
                              
     
* Chú Thích :
    - BỆNH TRUNG 病 中 : Không phải Ở TRONG BỆNH, mà là ĐANG TRONG CƠN BỆNH.
    - TĂNG 憎 : Có bộ Tâm đứng 忄bên trái, nên có nghĩa là Ghét.
      TĂNG 僧 : Có bộ Nhân đứng 亻bên trái, nên có nghĩa là Thầy chùa (câu 8).
    - Yêu Vi 腰 圍 : là Cái vòng eo.
    - Sấu Bất Thăng 瘦 不 勝 : Ốm đến không thể ốm hơn, Ốm nhách.
    - Chuyết Thê 拙 妻 : CHUYẾT là Vụng về, THÊ là VỢ. CHUYẾT THÊ là Bà VỢ VỤNG VỀ. Ở đây có nghĩa là: Bà Vợ nhà tôi. Đó là cách nói theo phép lịch sự. Gọi vợ nhà là CHUYẾT THÊ; còn gọi vợ người là QÚY PHU NHÂN... 
    - Bồng Mấn 蓬 鬢 : Tóc mai rối như cỏ bồng, chỉ "Đầu bù tóc rối".

* Nghĩa bài thơ :
              病 中 BỆNH TRUNG : TRONG CƠN BỆNH

     Câu 1 :  Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng 春 來 心 力 兩堪 憎, có nghĩa : Từ vào xuân đến nay, tâm và lực cả hai đều đáng ghét .  
     Câu 2 : Tổn tận yêu vi sấu bất thăng 損 盡 腰 圍 瘦 不 勝。 có nghĩa: Vòng eo bị tổn thương ốm đến hết mức. (Ta có Thành ngữ : SẤU BẤT THẮNG Y 瘦 不 勝 衣 là Ốm đến nổi chịu không nổi sức nặng của chiếc áo đang mặc. Chữ BẤT THẮNG 不 勝 là Không chịu được, là Không thể. Ví dụ: BẤT THẮNG BI 不 勝 悲 là Buồn không chịu được, Buồn quá cở buồn. Ở trong câu nầy THẮNG phải đọc thành THĂNG cho đừng bị THẤT VẬN ).
   Câu 3. Nhập thế chích thân thiên lý mã 入 世 隻 身 千 里 馬, có nghĩa: Vào đời như con ngựa đơn lẻ phải chạy trên con đường thiên lý. Ngầm ý của câu nầy là: Cao Bá Quát tự ví mình như con Thiên Lý Mã nhưng vào đời chỉ một thân một bóng!
   Câu 4. Khán thư song nhãn vạn niên đăng 看 書 雙 眼 萬 年 燈。 có nghĩa: Xem sách thì hai con mắt sáng như là hai ngọn đèn của muôn năm vậy.
   Câu 5. Chuyết thê ỷ chẩm sơ bồng mấn 拙 妻 倚 枕 梳 蓬 鬢, có nghĩa: Vợ thì dựa gối mà chải cái đầu tóc rối bù (Thay vì phải ngồi trước bàn trang điểm, trước gương soi để chải tóc, nhưng nhà nghèo lấy đâu ra những thứ đó. Thức dậy quơ đại cây lược gần đâu đó rồi dựa vào gối mà chải đở cho đầu bớt rối để còn đi làm việc nhà, lo nấu nước pha trà cho chồng chẳng hạn!)
   Câu 6. Trĩ tử khiên y tịch khúc quăng 稚 子 牽 衣 藉 曲 肱。 có nghĩa: Con thơ kéo áo rồi (mượn tà áo đó, Chữ TẠ: là Nhờ vào, dựa vào. Nếu đọc là TICH thì có nghĩa là HỘ TỊCH, THƯ TỊCH...) gác tay gối đầu (mà nằm).Ta có Thành Ngữ: KHÚC QUĂNG NHI CHẨM 曲 肱 而 枕 là co cánh tay lại mà gối đầu lên, chỉ cách nằm nhàn nhã vô tư của các đứa bé.
   Câu 7. Nhất tiếu na tri nhàn vị đắc 一 笑 那 知 閒 未 得, có nghĩa: Cười khẩy một tiếng biết đâu rằng còn chưa thể nhàn nhã được. NHẤT TIẾU: Cười ruồi, cười khẩy, cười buồn một cái, cười không phải tại vui mà cười!
   Câu 8. Tiểu lô tiễn mính đạm ư tăng 小 爐 煎 茗 淡 於 僧。có nghĩa: Cái lò nhỏ nấu trà cho sắc lại (TIỄN: là Nấu cho sắc lại, là Chiên)  để đừng quá nhạt nhẽo như trà của các nhà sư uống! Thơ xưa có câu: Bố y sơ phạn đạm ư tăng 布 衣 蔬 饭 淡 於 僧 có nghĩa: Áo vải cơm rau đạm bạc (nhạt nhẽo) như các nhà sư. Trong câu nầy có chữ MINH 茗 là Trà, phải đọc thành MÍNH cho đừng THẤT LUẬT.

* Diễn Nôm :
                                 
                                           
                            Xuân nay tâm lực thảy ưu sầu,
                            Thân ốm mình gầy chẳng nói đâu.
                            Chiếc bóng vào đời như ngựa lẻ,
                            Ngàn năm đọc sách tựa đèn thâu.
                            Vợ nghèo chảy tóc tai bù rối
                            Con trẻ trì tay áo gối đầu. 
                            Cười khẻ muốn nhàn sao thế được,
                            Tựa chùa trà nhạt rõ đun lâu !            
             Lục bát :
                           Ghét sao tâm lực xuân nay,
                           Ốm o thân xác bao ngày bệnh trung.
                           Vào đời tựa ngựa chiếc thân,
                           Xem thơ đọc sách sáng ngần đôi ngươi.
                           Vợ nghèo chảy tóc rối nùi,
                           Con kéo tay áo lui cui gối đầu.
                           Nực cười nhàn có được đâu,
                           Trà chùa vốn nhạt đun lâu... nhạt phèo !
                                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

      Hẹn bài dịch tới !

                                                        杜 紹 德
                                                     Đỗ Chiêu Đức

                                     *****

Xin góp tiếp 3 bài phỏng dịch cuối về Xuân của Cao Bá Quát với ông đồ Đỗ Chiêu Đức.

SAU LẬP XUÂN MỘT NGÀY NẮNG MỚI

Hôm trước Xuân về xóa lạnh tan

Sớm nay hồng tía sắc tranh phân

Ước gì cuộc thế như hoa vậy

Mưa gió non sông đổi cảnh quan!

 

CUỐI XUÂN GỬI NGUYỄN CHÍNH TỰ

Nhớ người không đến lúc chiều tàn

Phanh áo đón chờ gió mát lan

Lê bước qua cầu giầy tiếng mỏi

Vào nhà nghiêng chén rượu vung tràn

Bạn bè bốn biển, riêng ta vụng!

Tâm sự trăm năm, kẻ luận bàn?

Tình cảm dạt dào cau nguyệt chiếu

Mộng về, từng bạn kẻ ưa nhàn!

 

            ĐANG BỆNH

Xuân về tâm, sức thảy không ưa

Giảm sút vòng lưng, ốm chẳng vừa

Nhập thế thân cô nghìn dặm ngựa

Sách xem đèn mắt vạn năm thừa

Vợ ngây tựa gối đầu lười chải

Con trẻ kê tay giấc ngủ trưa

Cười thảm biết rằng nhàn chửa được

Trà pha lò nhỏ loãng hơn chùa!

Lộc Bắc

Jan24


 SQ xin góp phỏng dịch qua lời diễn giải của Thầy đồ ĐCĐ chỉ qua bài”Bạc Xuân giản Nguyễn Chính Tự”. Đây cũng là nỗi lòng và tâm sự của mình khi Xuân về Tết đến mà mình vẫn đơn côi nơi xứ lạ quê người. Bài thơ chỉ thoát ý nên không sát nghĩa với thơ chính của Cao Tiên sinh, cốt mua vui chữ nghĩa cùng bạn.


   THƠ XUÂN GỞI BẠN
Chiều ngã bóng bạn không thấy tới
Vẫn đợi chờ, áo khoát gió than
Thôi về ! Lê bước chân hoang
Vào nhà rớt rượu uống tan nỗi sầu
Nghĩ cho kỹ ta sao cũng tệ!
Tâm sự đầy biết kể cùng ai ?
Ánh trăng bàng bạc ngọn cây
Đã từng làm bạn giờ nầy thân cô?!

songquang 
20240121











Không có nhận xét nào: