Góc Việt Thi :
CHÙM THƠ XUÂN
Nhân dịp xuân về, kính gởi đến Quý Độc Giả một "Chùm thơ Xuân" của Việt Thi, bắt đầu bằng bài thơ "Xuân Hiểu" của ông Vua Trần Nhân Tông nhé !
1. XUÂN HIỂU Trần Nhân Tông
春曉 Xuân Hiểu
睡起啟窗扉, Thụy khởi khải song phi,
不知春已歸。 Bất tri xuân dĩ quy.
一雙白蝴蝶, Nhất song bạch hồ điệp,
拍拍趁花飛。 Phách phách sấn hoa phi.
CHÚ THÍCH :
* Thụy Khởi 睡起 : là Ngủ dậy, chỉ Vừa thức giấc.
* Khải 啟 : là Mở ra, giống như chữ KHAI (thanh BẰNG, còn KHẢI là thanh TRẮC ).
* Song Phi 窗扉 : Cánh cửa của Cửa sổ.
* Phách Phách 拍拍 : là Vổ vổ(cánh), ở đây có nghĩa là Vổ Phần phật.
* Sấn : là Nhân(dịp), ở đây có nghĩa là Hướng về...
NGHĨA BÀI THƠ :
Sáng Sớm Mùa Xuân
Vừa mới ngủ dậy, ta mở toang hai cánh cửa sổ ra... Đâu biết rằng mùa xuân đã về đến rồi! (Trông kìa,) một đôi bướm trắng nỏn nà đang vổ vổ cánh bay về các khóm hoa (đang nở rộ!)
DIỄN NÔM :
SÁNG XUÂN
Thức giấc mở song ngay,
Xuân đến nào có hay.
Một đôi bươm bướm trắng,
Hướng hoa vổ cánh bay !
Lục bát :
Vừa thức giấc, mở cửa song,
Nào hay xuân đã về trong đất trời.
Một đôi bướm trắng xinh tươi,
Khóm hoa bay lượn thành đôi chập chờn.
Đỗ Chiêu Đức
2. XUÂN ĐÁN Chu Văn An :
春旦 XUÂN ĐÁN
寂寞山家鎮日閒, Tịch mịch sơn gia trấn nhựt nhàn,
竹扉斜擁護輕寒。 Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
碧迷草色天如醉, Bích mê thảo sắc thiên như túy
紅濕花梢露未乾。 Hồngthấp hoa tiêu lộ vị can.
身與孤雲長戀岫, Thân dữ cô vân trừơng luyến tụ
心同古井不生瀾。 Tâm đồng cổ tỉnh bất sanh lan.
柏薰半冷茶煙歇, Bá huân bán lãnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。 Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
朱文安 Chu Văn An
* CHÚ THÍCH :
- Xuân Đán 春旦 : là Ngày Xuân, mà cũng có nghĩa là Ngày Tết nữa.
- Trấn Nhật 鎮日 : là Suốt ngày.
- Trúc Phi 竹扉 " là Cửa tre.
- Tà Ủng 斜擁 : TÀ là Xiên, xéo. ỦNG là Ôm, nên TÀ ỦNG là Ôm xeo xéo.
- Thiên Như Túy 天如醉 : Trời như say.
- Lộ Vị Can 露未乾 : Sương chưa khô
- Tụ 岫 : là Hang núi trên cao, thường có mây vần vũ trên đó.
- Lan 瀾 : là Gợn sóng lăn tăn.
- Trà Yên Yết 茶煙歇 : trà Thuốc đều hết.
- Khê Điểu 溪鳥 : Những con chim trong khe núi.
* Dịch Nghĩa :
NGÀY XUÂN
Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa. Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã cạn rồi. Những con chim bên khe núi vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm ta chợt tỉnh giấc, nên mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.
* DIỄN NÔM :
NGÀY XUÂN
Nhà tịch mịch núi cao nghe vắng vẻ,
Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng!
Lục bát :
Nhà cao vắng vẻ an nhàn,
Cửa tre xiêu vẹo lạnh tràn gió đông.
Trời xanh đồng cỏ mênh mông,
Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.
Thân như mây nổi linh đinh,
Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.
Đêm tàn lửa tắt trà vơi,
Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !
Đỗ Chiêu Đức
3. XUÂN DẠ Nguyễn Du:
Năm 1789, Tây Sơn chiếm Bắc Hà, cụ vừa 24 tuổi. Để tránh nạn binh lửa, cụ đã về ẩn tại quê vợ, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình). Bài thơ trên nằm trong Thanh Hiên Tiền Hậu Tập, có lẽ đã được cụ Nguyễn Du làm trong thời gian này, lúc cụ chưa tới 30 tuổi. Qua đấy ta có thể thấy thể chất của cụ không mấy khỏe mạnh do cuộc sống nghèo túng và bản thân cụ cũng hay đau ốm. Chính nơi đây đã chôn vùi quãng đời thanh xuân của cụ. Sống nơi thôn dã, cụ đã gần gũi và hiểu biết rõ ràng đời sống và tâm tình của tầng lớp dân quê nghèo khó. Mãi hơn 10 năm sau, lúc đã 37 tuổi (1802) cụ mới ra làm quan với triều Nguyễn với chức vụ Tri Huyện Phù Dung (Hưng Yên) rồi sau đó thăng Tri phủ Thường Tín (Hà Tây).
春 夜 Xuân Dạ
黑 夜 韶 光 何 處 尋? Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
小 窗 開 處 柳 陰 陰. Tiểu song khai xứ liễu âm âm
江 湖 病 到 經 時 久, Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
風 雨 春 隨 一 夜 深. Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
羈 旅 多 年 燈 下 淚, Ký lữ đa niên đăng hạ lệ
家 鄉 千 里 月 中 心. Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm
南 臺 村 外 龍 江 水, Nam Đài thôn ngoại Long Giang thủy
一 片 寒 聲 送 古 今. Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).
阮攸 Nguyễn Du
* CHÚ THÍCH :
- Thiều Quang 韶光 :là Ánh sáng tốt đẹp của mùa xuân, của tuổi trẻ. Như cụ Nguyễn Du cũng đã viết trong Truyện Kiều :"Thiều Quang chín chục đã ngoài sáu mươi".
- Liễu Âm Âm 柳陰陰 : Liễu nằm im lìm rũ bóng trong đêm.
- Ký Lữ 羈旅 : Gởi thân nơi đất khách.
- Nam Đài 南臺 : Tên xóm nhà nơi Nguyễn Du ở trọ.
- Long Giang 龍江 : Còn gọi là Thanh Long giang, tức Sông Lam.
* NGHĨA BÀI THƠ :
ĐÊM XUÂN
Biết đến nơi đâu để tìm cho được ánh thiều quang rực rỡ trong đêm tối nầy? Nơi cánh cửa sổ nhỏ mở ra là cành liễu rũ im lìm trong đêm tối. Thân trải giang hồ sông nước nên bịnh cứ dai dẵng mãi cho đến hiện nay. Mưa gió lại theo ngày xuân mà về trong đêm dài dằng dặc nầy. Dưới đèn ta lại rơi lệ vì thân còn phiêu bạt xứ người đã nhiều năm nay. Ngắm trăng mà trong lòng tưởng nhớ đến quê hương ở xa ngoài ngàn dặm. Nhìn dòng nước Long Giang chảy ngoài thôn Nam Đài với dãi nước cuồn cuồn lạnh lùng như cuốn trôi cả dòng đời kim cổ.
* DIỄN NÔM :
ĐÊM XUÂN
Ánh xuân đêm tối biết đâu tìm,
Mờ mịt ngoài song liễu lặng im.
Bệnh tật sông hồ cùng dai dẵng,
Gió mưa xuân sắc vẫn im lìm.
Dưới đèn giọt lệ sầu xa xứ ,
Bóng nguyệt quê nhà xót nhói tim.
Dòng nước Long Giang cuồn cuồn mãi,
Lạnh lùng cuốn sạch cổ cùng kim.
Lục bát :
Tìm đâu đêm tối thiều quang ?
Ngoài song liễu rũ mơ màng trong đêm.
Giang hồ dai dẳng bệnh thêm,
Gió mưa não nuột bên thềm xuân sang.
Dưới đèn lệ nhỏ trăng ngàn,
Tấm thân lữ thứ ly tan ai hoài.
Long Giang dòng nước Nam Đài,
Lạnh lùng cuồn cuộn chảy dài cổ kim.
Đỗ Chiêu Đức
4. XUÂN NHẬT HỮU CẢM Trần Quang Khải :
春日有感 一. XUÂN NHẬT HỮU CẢM 1
雨白肥梅細若絲, Vũ bạch phì mai tế nhược ty,
閉門兀兀坐書癡。 Bế môn ngột ngột tọa thư si.
二分春色閒蹉過, Nhị phân xuân sắc nhàn sai quá,
五十衰翁已自知。 Ngũ thập suy ông dĩ tự tri.
故國心還飛鳥倦, Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện,
恩波海濶縱鱗遲。 Ân ba hải khoát túng lân trì.
生平膽氣輪囷在, Sinh bình đãm khí luân khuân tại,
醉倒東風賦一詩。 Túy đảo đông phong phú nhất thi.
春日有感 二. XUÂN NHẬT HỮU CẢM 2
月色微微夜向闌, Nguyệt sắc vi vi dạ hướng lan,
東風特地起春寒。 Đông phong đặc địa khởi xuân hàn.
翻空柳絮黏高閣, Phiên không liễu nhự niêm cao các,
攪夢湘筠撲畫欄。 Giác mộng tương quân phốc hoạ lan.
被物潤從天外雨, Bị vật nhuận tòng thiên ngoại vũ,
驚心紅褪昔時顏。 Kinh tâm hồng thối tích thời nhan,
袪愁賴有三杯酒, Khử sầu lại hữu tam bôi tửu,
撫劍悠悠憶故山。 Phủ kiếm du du ức cố san.
陳光啓 Trần Quang Khải
* NGHĨA 2 BÀI THƠ :
BÀI 1 :
Mưa xuân trắng xóa phơi phới như tơ làm tươi tốt mấy cành mai, một thư sinh mọt sách đóng cửa ngồi trơ mà nhìn ra ngoài. Hai phần ba xuân sắc đã trôi qua một cách vô ích. Lão già năm mươi già yếu tự biết sức mình. Tấm lòng đối với cố quốc thì như cánh chim bay đà mỏi, Còn ơn Vua thì rộng như biển nên chưa kịp vươn vẫy để cố bơi. Cái đãm khí của bình sinh vẫn còn sừng sửng đó, nên say khước dưới gió xuân vẫn làm nốt một bài thơ!
BÀI 2 :
Bóng trăng mờ ảo nhạt dần vì trời sắp sáng, gió xuân có Ý mang cái lạnh của sáng mùa xuân đến, những cành liễu bay lộn trên không phất vào gác cao, những cành trúc đập vào lan can làm tỉnh giấc mộng xuân. Muôn vật được tưới gội nhờ mưa từ trời đổ xuống, giật mình vì dung nhan ngày cũ đã phai tàn. Đành chỉ mượn ba chung rượu để tiêu sầu, và chỉ còn biết vuốt ve kiếm báu mà nhớ đến sông núi xưa vằng vặc đã qua rồi!
* DIỄN NÔM :
CẢM XÚC NGÀY XUÂN
BÀI 1 :
Mai đẹp mưa xuân gội trắng ngần,
Thư sinh trong cửa dạ lần khân.
Hai phần xuân đã qua hơn nửa,
Năm chục già đà tự biết thân.
Cố quốc chút lòng chim cánh mỏi,
Ơn Vua tợ biển cá đuôi sần.
Bình sinh đởm lượt còn hun đúc,
Say khướt gió xuân vẫn họa vần!
BÀI 2.
Ánh trăng mờ chiếu báo đêm tàn,
Se lạnh hơi xuân gió sớm sang.
Phe phẩy liễu cành vương gác tía,
Phất phơ trúc nhánh vướng lan can.
Tốt tươi vạn vật nhờ mưa móc,
Già cỗi một lòng nhớ sắc nhan.
Đành mượn tiêu sầu ba chén rượu,
Vuốt thanh kiếm báu nhớ giang san!
Đỗ Chiêu Đức
5. SƠ XUÂN Nguyễn Tử Thành:
初春 SƠ XUÂN
臘梅開盡雪飄零, Lạp mai khai tận, tuyết phiêu linh,
老大情懷節勿驚。 Lão đại tình hoài tiết vật kinh.
傍水人家楊柳嫩, Bàng thủy nhân gia dương liễu nộn,
寒天客院半陰晴。 Hàn thiên khách viện bán âm tình .
遊蜂摘蜜穿花去, Du phong trích mật xuyên hoa khứ,
野蝶偷香帶粉經。 Dã diệp thâu hương đới phấn khinh.
檢點名園供勝賞, Kiểm điểm danh viên cung thắng thưởng,
春花一樣百般生。 Xuân hoa nhất dạng bách ban sinh.
阮子成 Nguyễn Tử Thành
* NGHĨA BÀI THƠ :
ĐẦU XUÂN
Tháng chạp hoa mai đã nở hết trong khi tuyết vẫn còn bay lả tả,
Tâm tình của người già biết tiết chế, nên không lấy làm lạ.
Nhà ai đó bên mé nước với hàng dương liễu xanh non.
Phòng khách trong mùa lạnh nên nửa nắng nửa râm.
Ong đi lấy mật nên bay xuyên qua cả chòm hoa.
Bướm ngoài đồng trộm hương nhẹ nhàng mang theo cả phấn hoa.
Điểm qua hết các vườn hoa nổi tiếng để mà thưởng ngoạn, thì thấy...
Cũng chỉ là trăm vẻ hoa xuân cùng đẹp như nhau mà thôi!
* DIỄN NÔM :
ĐẦU XUÂN
Tuyết rơi mai nở báo xuân sang,
Già cả nhìn quen chẳng ngỡ ngàng.
Bến nước nhà ai xanh liễu mới,
Trời đông phòng khách nắng râm vàng.
Ong vui hái mật đùa bay lượn,
Bướm hút nhuỵ hoa vội tách ngang.
Điểm hết xưa nay bao thắng cảnh,
Hoa xuân trăm vẻ đẹp mơ màng.
Đỗ Chiêu Đức
6. HỮU SỞ CẢM Phạm Đình Hổ :
有所感 Hữu Sở Cảm
長安小兒女, Trường An tiểu nhi nữ;
纖手綰丫鬟。 Tiêm thủ quán a hoàn.
深閨不知苦, Thâm khuê bất tri khổ;
猶掃落花看。 Do tảo lạc hoa khan.
長安小兒女, Trường An tiểu nhi nữ;
眉黛月雙彎。 Mi đại nguyệt song loan.
為愛梅花潔, Vị ái mai hoa khiết;
臨風不覺寒。 Lâm phong bất giác hàn.
長安小兒女, Trường An tiểu nhi nữ;
花前獨倚欄。 Hoa tiền độc ỷ lan.
只怕檀郎聽, Chỉ phạ đàn lang thính;
橫琴笑不彈。 Hoành cầm tiếu bất đàn.
范廷虎 Phạm Đình Hổ
* CHÚ THÍCH :
- Trường An 長安 : Còn đọc là Tràng An. Vốn là từ chỉ kinh đô cuả thời Tây Hán. Sau dùng chung để chỉ kinh thành, nơi vua ở. Trong bài thơ nầy chỉ kinh đô Thăng Long của ta ngày xưa.
- Tiêm Thủ 纖手 : Chỉ đôi cánh tay nhỏ nhắn dịu dàng của các cô gái.
- Quán A Hoàn 綰丫鬟 : Búi hai búi tóc hình trái đào ở trên đầu. Đây là kiểu búi tóc của các cô bé mới lớn. Ngày xưa các tiểu thơ hay có các cô bé theo hầu búi tóc như thế, nên từ A HOÀN 丫鬟 (còn đọc là NHA HOÀN) dùng thét rồi trở thành danh từ chung để gọi các cô hầu của nhà quyền qúy.
- Mi Đại 眉黛 : Đôi mày đen đẹp.
- Nguyệt Song Loan 月雙彎 : là Cong như hai vành trăng.
- Ỷ Lan 倚欄 : Đứng tựa vào lan can.
- Đàn Lang 檀郎 : Từ dùng để gọi bóng dáng người yêu của các bà các cô xưa.
* NGHĨA BÀI THƠ :
Cô con gái nho nhỏ ở Trường An.
Đôi tay nhỏ xinh xinh bện hai bím tóc đen.
Ở trong khuê phòng thầm kín chẳng biết sầu khổ là gì.
Cô còn đang quét hoa rụng xem chơi.
Cô con gái nho nhỏ ở Trường An,
Đôi mày tô điểm cong cong như hai vành trăng cánh cung.
Vì yêu thích sự trong sạch của hoa mai, nên...
Cô ra gió ngắm hoa mà không cảm thấy lạnh.
Cô con gái nho nhỏ ở Trường An,
Một mình đứng tựa lan can trước khóm hoa.
chỉnh e người yêu nghe thấy, nên...
Cô đặt ngang đàn cầm, cười mà không gảy.
* DIỄN NÔM :
CÓ NIỀM CẢM XÚC
Trường An cô thiếu nữ,
Tay ngọc búi tóc cao.
Phòng khuê nào biết khổ,
Quét hoa dạ chẳng nao !
Trường An cô thiếu nữ,
Mày trăng mới cong sao !
Thương mai hoa tinh khiết,
Gió bấc chẳng lạnh nào !
Trường An cô thiếu nữ,
Ngắm hoa tựa lan can.
Vì sợ chàng nghe thấy,
Cười e ấp không đàn!
Lục bát :
Trường An cô bé xinh xinh,
Tay ngà búi tóc cho mình thêm tươi.
Buồng khuê chỉ biết vui cười,
Quét tàn hoa rụng làm vui xuân về !
Trường An cô bé xinh ghê,
Đôi mi cong tựa trăng thề trên cao.
Yêu mai tinh khiết biết bao,
Mặc cho gió lạnh lao xao chẳng màng.
Trường An cô bé mơ màng,
Trước hoa ngồi tựa lan can e dè.
Chỉnh e đâu đó chàng nghe,
Đặt ngang cầm phím, cười e, không đàn !
Đỗ Chiêu Đức
Xuân Canh Tý 2020
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét