Thứ Ba, 28 tháng 1, 2020

Thành ngữ điển tích 50: Hoa (Đỗ Chiêu Đức)

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 50 : 
                                                   HOA

                                     Inline image
                                        HOA XUÂN nọ còn phong nộn nhị,
                                                            Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang,
                
           Đó là hai câu thơ tả nàng cung nữ tài sắc vẹn toàn trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều khi còn son gía. Nàng như đóa hoa xuân còn đang phong kín nhụy non (NỘN 嫩 : là Non nớt). Người con gái ngày xưa được ví như là HOA, vì còn trẻ nên ví như là HOA XUÂN. Chẳng những là Hoa Xuân mà còn là HOA THƠM nữa! Ta hãy đọc tiếp những lời cám ơn nhưng lại tỏ ra rất đắc ý của nàng cung nữ:
                     HOA THƠM muôn đội ơn trên,
             Cam công một tiếng thuyền quyên với đời.
  
           Nói chung theo quan niệm cổ xưa, tạo hóa tạo ra người đẹp như tạo ra một đóa hoa vậy. Ta hãy đọc lại đoạn tả nàng cung nữ dưới đây sẽ rõ:

                  Trộm nhớ thuở gây hình tạo hoá,
                  Vẽ phù dung một đoá khoe tươi,
                        NỤ HOA chưa mỉm miệng cười,
             Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung.

               Inline image   

          Nụ cười mỉm của người đẹp như nụ hoa chớm nở. Trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du cũng đã tả người đẹp Thúy Vân là:

                     HOA CƯỜI ngọc thốt đoan trang,
             Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

          Mặt của người đẹp là "Vẽ phù dung một đoá khoe tươi,", là "Áng đào kiểng đâm bông não chúng" và  nhất là khi người đẹp buồn khóc  thì như Bạch Cư Dị đã tả Dương Qúy Phi trong Trường Hận Ca là:

          玉容寂寞淚闌干,   Ngọc dung tịch mịch lệ lan can,
          梨花一枝春帶雨。   Lê hoa nhất chi xuân đới vũ.

Có nghĩa :
                  Mặt ngọc u buồn lệ ngổn ngang,
                  Như đóa hoa lê mưa còn đọng.

          Cụ Nguyễn Du nhà ta đã mượn ý nầy để tả Thúy Kiều khóc khi vừa tỉnh mộng đoạn trường với Đạm Tiên. Vương bà nghe tiếng khóc nỉ non đã hỏi rằng:

                   Cớ sao trằn trọc canh khuya,
            Màu HOA LÊ hãy ĐẦM ĐÌA GIỌT MƯA

        Inline image

          Mặt của người đẹp khóc mà ví như "Đóa hoa lê hãy còn đầm đìa giọt mưa" thì quả thật qúa tuyệt vời không chê vào đâu được. Còn người đẹp buồn thì gọi là "Ủ dột nét HOA" như khi Kiều viếng mộ Đạm Tiên:

                     Kiều càng ủ dột NÉT HOA,
            Sầu tuôn dứt mối châu sa vắn dài!

        Người đẹp đi tắm cho sạch sẽ thơm tho thì gọi là TẮM HOA, như những câu chuyển tiếp thật hay  đưa đến cảnh Thúy Kiều đi tắm như sau:
                      
                     Dưới trăng quyên đã gọi hè,
             Đầu cành lửa lựu lặp lòe đâm bông.
                     Buồng khuya phải buổi thong dong,
             Thang lan rủ bức trướng hồng TẮM HOA.

       Cụ Nguyễn Du đã đi trước thời đại của mình khi "dám" cho Thúy Kiều Tắm mà còn hạ thêm hai câu tả chân thật hay là:

                  Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
           Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên!

           Inline image
          
         Ngoài việc chỉ người đẹp ra, HOA còn chỉ HOA CHÚC. CHÚC 燭 là cây đuốc, nên HOA CHÚC 花燭 là ĐUỐC HOA. Theo quyển từ điển Từ Hải, thì từ đời Lục Triều ở Trung Hoa có tục đốt đuốc hoa trong ngày lễ Nghinh thân 迎親 (Rước Dâu), nên đêm Tân hôn còn gọi là đêm Hoa Chúc, như trong truyện Nôm Lưu Nữ Tướng:
                   Bao giờ thước báo tin xuân,
            Bấy giờ HOA CHÚC nghinh thân cũng vừa.  

         Còn trong Truyện Kiều, khi rước Thúy Kiều về đến trú phường, thì Mã Giám Sinh đã nghĩ: "Vả đây đường xá xa xôi, mà ta bất động nữa người sinh nghi " nên sau khi đã thất thân cùng Mã Giám Sinh rồi thì cụ Nguyễn Du đã viết về Thúy Kiều như sau:

                      Đêm xuân một giấc mơ màng,
               ĐUỐC HOA để đó, mặc nàng nằm trơ.
                      Giọt riêng tầm tả tuôn mưa,
               Phần căm nỗi khách, phần nhơ nỗi mình.
                                 
                Inline image
         
         Sau Đuốc Hoa ta lại có HOA ĐÀM ĐUỐC TUỆ:

         HOA ĐÀM là ĐÀM HOA 曇花, nếu gọi cho đủ tên là Ưu Đàm Bát La Hoa 優曇缽羅花, được dịch từ tiếng Phạn trong kinh Phật Udumbara, là một loại hoa vô ưu, linh ứng và mang đến điềm lành. Theo thần thoại Phật giáo thì loại hoa nầy sinh trưởng ở trên Hy Mã Lạp Sơn. Ba ngàn năm mới nở hoa và sau khi nở hoa sẽ rất chóng úa tàn, và mỗi lần hoa nở là sẽ có một vị Phật xuất thế. Còn...
         ĐUỐC TUỆ là Đuốc của Trí tuệ, được gọi là TRÍ CHÚC 智燭. Theo như câu nói của Lý Qũy, người ở cuối đời Tùy là: Trí như đăng chúc, khả dĩ chiếu sát 智如燈燭,可以照察, Có nghĩa: Trí tuệ rực sáng như đèn đuốc có thể soi sáng để quan sát hết mọi sự vật, nên ...
         HOA ĐÀM ĐUỐC TUỆ thường dùng để chỉ cái phép thiêng vô ưu và cái trí tuệ của nhà Phật, là nhóm từ chỉ về đạo Phật, như trong Cung Oán Ngâm Khúc:

                    Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
            Mượn HOA ĐÀM ĐUỐC TUỆ làm duyên.

         Nói đến HOA trong Văn học Cổ, thì không thể thiếu HOA TƯ, tức HOA TƯ QUỐC 華胥國, là  nước của họ Hoa Tư, tương truyền nơi đó đời sống rất thanh bình, không có vua, nên không cần phải có tôn ti trật tự, không tranh danh đoạt lợi, không bệnh tật ốm đau. Mỗi người dân đều sống yên lành hạnh phúc. Theo sách Liệt Tử, Hoàng Đế đêm nằm ngủ mơ thấy đến nước Hoa Tư. Sau thường dùng tích này để chỉ cảnh thái bình thịnh trị, hoặc chỉ cảnh mộng ảo, như trong Tứ Thời Khúc Vịnh của Hoàng Sĩ Khải đời Mạc:

                   Hóa nhi khéo quấy người sao,
             Đã sang Hòe Quốc lại vào HOA TƯ

                Inline image
                   Hoàng Đế mơ vào nước Hoa Tư

         Theo sách Trang Tử- thiên Thiên Địa:《莊子外篇·天地篇:「堯觀乎華。華封人曰:嘻,聖人!請祝聖人壽… 聖人富…聖人多男子。Vua Nghiêu tuần du đất Hoa. Người được phong trông coi đất Hoa nói: "Ô, Thánh nhân, chúc cho thánh nhân được giàu có, sống thọ và có nhiều con trai". Nhất nhất vua Nghiêu đều từ chối. Hỏi tại sao? Thì trả lời rằng: "Con trai nhiều, nhân lực đông sẽ làm cho người ta khiếp sợ; Giàu có tài sản nhiều sẽ dễ sinh ra họa hoạn; Sống dai qúa chỉ tổ chịu nhiều nhục nhã mà thôi. Ba thứ đó đều không phải là thứ dùng để tu dưỡng đức hạnh của con người". Nhưng người đời thì lại thích được chúc như thế, nên HOA PHONG TAM CHÚC 華封三祝 là ba thứ chúc tụng của người đất Hoa, sau dùng rộng ra để chỉ những lời chúc lành mà thôi. Cũng trong Tứ Thời Khúc Vịnh của Hoàng Sĩ Khải đời Mạc cũng có câu:
                      
               Đã kính dâng HOA PHONG TAM CHÚC,
               Lại Đăng ngâm một khúc chung tư. 

          Cuối cùng ta trở về với HOA ĐÀO GIÓ ĐÔNG với bài thơ tứ tuyệt bất hủ Đề Tích Sở Kiến Xứ 題昔所見處 (còn có tên là Đề Đô Thành Nam Trang 題都城南莊)  của Thôi Hộ theo tích sau đây:

          Inline image

         THÔI HỘ (772-846), tự là Ân Công, người đất Bác Lăng đời Đường (thuộc Định Châu tỉnh Hà Bắc hiện nay). Một năm vào tiết Thanh Minh, khi mà "cỏ non xanh rợn chân trời", chàng thư sinh lạc đệ Thôi Hộ cũng đạp thanh ngắm cảnh. Mãi tìm nguồn thơ với cảnh đẹp của mùa xuân, chàng lạc bước vào một thôn trang phía nam của Trường An với non xanh nước biếc, kịp đến khi quay gót trở về, thì mới thấy cổ khô khát nước. Nhìn xa xa phía trước mặt trong một rừng đào rực rỡ thấp thoáng có bóng một mái nhà. Thôi Hộ bèn đến gõ cửa xin chén nước uống.         
        Ra mở cửa là một cô gái trẻ đẹp. Thấy là một chàng trai lạ, bèn quay mặt đi vào. Thôi Hộ vội vàng thi lễ và tỏ ý muốn xin một chén nước để giải khát. Một lát sau, cô gái e thẹn bưng ra cho chàng một tách trà thơm, hương bay ngào ngạt. Choáng váng trước vẻ thẹn thùng kiều diễm, mặt ửng hồng như đóa hoa đào của nàng, chàng ngơ ngẩn thần hồn, nhấp chén trà mà như nhấp chén quỳnh tương. Còn nàng thì cũng e thẹn liếc nhìn chàng, hai bên " tình trong như đã mặt ngoài còn e". Sau khi cám ơn và cáo từ ra về, Thôi Hộ nghĩ thầm rằng, nếu sau này đại đăng khoa xong, tiểu đăng khoa mà được một nương tử  như thế nầy thì cũng mãn nguyện lắm rồi. Tuổi trẻ chóng quên, lại phải chăm lo đèn sách, cho nên mãi đến ...
        Mùa xuân năm sau, khi lại đi ra ngoại thành đạp thanh, Thôi Hộ mới nhớ đến giai nhân của vườn đào năm ngoái mà cố ý ghé thăm để gặp lại người đẹp với chén trà thơm ngát của năm qua. Nhưng ...
        Khi đến nơi thì cửa đóng then cài, cảnh cũ còn đây, hoa đào còn đó, mà người xưa thì đà vắng bóng. Xúc cảnh sinh tình, chàng bèn đề một bài thơ lên cửa như sau :

           去年今日此門中,  Khứ niên kim nhật thử môn trung,
           人面桃花相映红。  Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
           人面不知何處去,  Nhân diện bất tri hà xứ khứ ?
           桃花依舊笑東風。  Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Có nghĩa :
                 Năm ngoái hôm nay cũng cửa này,
                 Mặt người hoa đẹp má hây hây,
                 Mặt người nay biết về đâu nhỉ ?
                 Như trước hoa đào vẫn nở đây !

                  Inline image

        Chàng ngẩn ngơ giây lát, rồi thơ thẩn ra về mà lòng nghe như hụt hẫng trống vắng, nuối tiếc một cái gì đó như bị mất đi; cho nên, mấy hôm sau, chàng lại lần mò đến vườn đào năm trước. Nhưng, sao lạ thay, có tiếng ai đó đang thổn thức bi thương. Bước đến gõ cửa. Một ông lão đầu râu tóc bạc đầy vẻ bi thương ra mở cửa. Trông thấy chàng bèn hỏi: "Anh có phải là Thôi Hộ không? " Thôi Hộ giật mình hỏi lại: "Sao cụ lại biết?" Ông lão bèn kể: "Con gái của lão là Giáng Nương từ Tiết Thanh Minh năm ngoái tới nay, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như mất hồn, mỗi ngày cứ ngóng ngóng mong mong như chờ đợi ai đó. Mấy hôm trước đây, lão muốn cho nó khuây khỏa mới dắt nó về ngoại gia mấy hôm. Khi trở về, nó thấy bài thơ đề trên cửa bèn khóc òa, biết là sẽ khó còn có cơ hội để gặp lại anh, nên buồn bã bỏ ăn mấy hôm nay, và mới đây đã trút hơi thở cuối cùng, Anh đã hại chết con gái lão rồi!"
       Thôi Hộ nghe xong, vô cùng thương cảm và xúc động. Chàng xin phép ông lão để được nhìn Giáng Nương lần cuối. Khi vào bên trong phòng, thấy Giáng Hương như đang nằm ngủ, Thôi Hộ kêu to lên rằng: "Nàng ơi, Thôi Hộ đã tới đây, ta đã đến với nàng đây rồi!" Nước mắt của chàng rơi trên mặt nàng, thì lạ thay, nàng khẻ rên lên một tiếng, rồi từ từ mở mắt ra, nhết mép mỉm cười. Nàng đã hồi sinh trong tình yêu kỳ diệu!
       Sau đám cưới, vợ chồng tình đầu ý hợp. Trong thâm tâm Thôi Hộ rất thỏa mãn với cô vợ vừa hiền thục vừa đẹp đẽ. Giáng Nương lại hết lòng săn sóc giúp đỡ và khuyến khích chồng sôi kinh nấu sử, nên Thôi Hộ đã đậu Tiến Sĩ vào năm Trinh Nguyên thứ 12 đời vua Đường Đức Tông và hoạn lộ hanh thông, làm quan đến chức Lãnh Nam Tiết Độ Sứ, để lại một giai thoại đẹp trong làng thi ca lúc bấy giờ. 

       Trong Truyện Kiều, sau khi hộ tang chú ở Liêu Dương, Kim Trọng trở lại vườn thúy tìm Kiều, thì "Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa " chỉ thấy:

                   Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
              Song trăng quạnh quẽ vách mưa rả rời.
                  Trước sau nào thấy mặt người,
              HOA ĐÀO Năm Ngoái còn cười GIÓ ĐÔNG.

       Trong thập niên 60 của thế kỷ trước, nhạc sĩ Lê Dinh và Nguyễn Hiền đã phổ nhạc chuyện tình đầy thi vị của Thôi Hộ thành bản nhạc "Hoa Đào Năm Trước" đã thịnh hành một thời và mãi cho đến hiện nay, ở hải ngoại nầy, các ca sĩ vẫn còn hát bài hát trữ tình và nên thơ nầy. Mời bấm vào link dưới đây để nghe giọng hát truyền cảm của Mai Thiên Vân với HOA ĐÀO NĂM TRƯỚC.

               Inline image

          Hoa Đào Năm Trước - Mai Thiên Vân - NhacCuaTui

                     
         Hẹn bài viết tới !
                                                                                                                                                        Đỗ Chiêu Đức





Không có nhận xét nào: