Góc Việt Thi :
Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Kỳ nhị
6. Bài thơ LOẠN HẬU QUY CỐ VIÊN VỊNH MAI:
亂 後 歸 故 園 詠 梅 Loạn Hậu Quy Cố Viên Vịnh Mai
萬 紫 千 紅 都 是 春, Vạn tử thiên hồng đô thị xuân,
等 閑 開 謝 總 紛 紛。 Đẳng nhàn khai tạ tổng phân phân.
雪 中 不 改 堅 貞 操, Tuyết trung bất cải kiên trinh tháo,
惟 有 寒 梅 伴 主 人。 Duy hữu hàn mai bạn chủ nhân!
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Tựa bài thơ : Sau loạn về quê cũ vịnh hoa mai.
- Vạn Tử Thiên Hồng 萬 紫 千 紅 : là Muôn tía ngàn hồng, ta nói là "Muôn hồng ngàn tía" hoặc "Ngàn tía muôn hồng".
- Đẵng Nhàn 等 閑 : là Bình thường, là Lẽ Tự Nhiên.
- Kiên Trinh Tháo 堅 貞 操 : là cái Tiết tháo kiên trinh, kiên định chẳng đổi thay.
* Nghĩa Bài Thơ :
SAU LOẠN VỀ LẠI QUÊ NHÀ VỊNH HOA MAI
Muôn hồng ngàn tía đều nở ra vì mùa xuân, theo lẽ thường tình hoa nở rồi hoa tàn đều bát nháo như thế cả. Chỉ có hoa mai là vẫn giữ tiết tháo kiên trinh trong trời đông tuyết phủ vẫn nở đúng hẹn để bầu bạn với chủ nhân, không thay đổi bao giờ !
Hoa Mai, một trong Tuế Hàn Tam Hữu 歲 寒 三 友, ba người bạn vẫn tốt tươi trong cuối năm lạnh lẽo của mùa đông. Hoa Mai vẫn ngạo nghễ vươn lên nở hoa trong tuyết giá, là biểu tượng của sự kiên định bất khuất, với hương thơm nhẹ thoảng tượng trưng cho sự thanh cao của người quân tử. Không chỉ có cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ca ngợi hoa mai, trong các danh nhân cổ đại của ta còn có Cao Bá Quát cũng bái phục mai hoa với đôi câu đối:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm, 十 載 輪 交 求 古 劍,
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa. 一 生 低 首 拜 梅 花.
Có nghĩa :
Mười năm lần lữa tìm gươm cổ,
Một đời cúi lạy trước hoa mai.
* Diễn Nôm :
LOẠN HẬU QUY CỐ HƯƠNG VỊNH MAI
Muôn hồng ngàn tiá đón xuân sang,
Hoa nở hoa xinh lại úa tàn.
Trong tuyết kiên trinh không dời đổi,
Hoa Mai duy nhất vẫn thi gan !
Lục bát :
Muôn hồng ngàn tía đón xuân,
Hoa tàn hoa nở vốn trong tuần hoàn.
Kiên trinh trong tuyết đông sang,
Hoa mai vẫn nở ngập tràn với ta !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
7. Bài thơ NGỘ TRUNG NGUYÊN XÁ TỘI:
遇 中 元 捨 罪 Ngộ Trung Nguyên Xá Tội
天 地 那 容 罪 惡 人, Thiên địa na dung tội ác nhân,
是 何 捨 罪 有 良 辰。 Thị hà xá tội hữu lương thần?
我 今 欲 仗 慈 悲 力, Ngã kim dục trượng từ bi lực,
救 得 無 辜 塗 炭 人。 Cứu đắc vô cô đồ thán nhân!
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- NGỘ TRUNG NGUYÊN XÁ TỘI 遇 中 元 捨 罪 : Gặp ngày lễ Trung Nguyên xá tội vong nhân. TRUNG NGUYÊN là ngày rằm tháng 7 âm lịch, còn gọi là ngày lễ VU LAN BỒN 盂 蘭 盆, do phiên âm chữ Phạn Ullambana, có nghĩa là cực khổ tột độ, lại có nghĩa là cứu vớt khỏi cảnh cực khổ tột độ. XÁ TỘI 捨 罪 là Bỏ đi tội lỗi, là Tha tội.
- Dung 容 : Danh từ là Dung nhan. Động từ DUNG là chứa đựng, là Chịu đựng, là Tha thứ; ta có từ kép DUNG THA hay DUNG THỨ.
- Lương Thần 良 辰 : LƯƠNG là Tốt lành; THẦN là Giờ giấc, ngày tháng, nên LƯƠNG THẦN là Ngày lành tháng tốt. Ý chỉ ngày lễ Vu Lan Bồn.
- Trượng 仗 : là Ỷ lại, là Nhờ vào... dựa vào...
- Từ Bi Lực 慈 悲 力 : là Sức mạnh của lòng từ bi.
- Vô Cô 無 辜 : là Vô Can, Vô tội.
- Đồ Thán 塗 炭 : ĐỒ là Bôi, là tô. THÁN là Than củi, là đen đúa, nên ĐỒ THÁN là Bị bôi đen như than; ta nói là Lầm Than, Khổ nhọc.
* Nghĩa Bài Thơ :
GẶP NGÀY TRUNG NGUYÊN XÁ TỘI
Trời đất nào có dung tha cho những người làm nên tội ác. Nhưng tại sao lại có được ngày lành tháng tốt để xá tội vậy? Nay ta muốn dựa vào sức mạnh của lòng từ bi để cứu cho những người vô tội phải chịu cảnh lầm than khổ nhọc (dưới Địa ngục).
Câu chót của bài thơ nầy dường như chưa thông tình đạt lý cho lắm: 救 得 無 辜 塗 炭 人 Cứu đắc vô cô đồ thán nhân! Có nghĩa: "Cứu được những người vô tội phải chiụ cảnh lầm than". Những người đã bị đày vào địa ngục thì đều là những người CÓ TỘI cả rồi, sao lại là người VÔ CÔ (Vô Can) cho được. Và TỪ BI LỰC 慈 悲 力 Sức mạnh của lòng từ bi để CẢM HÓA những người có tội, chớ không phải để CỨU những người có tội cho được, nên theo thiển ý, câu chót của bài thơ nầy nên đổi lại là:
GIẢI đắc TỘI ĐỒ đồ thán nhân. 解 得 罪 徒 塗 炭 人。
Có nghĩa :
(Dựa vào sức mạnh của lòng từ bi, để...)
Giải thoát (cảm hóa) các tội đồ cho họ thoát khỏi cảnh lần than!
* Diễn Nôm :
NGỘ TRUNG NGUYÊN XÁ TỘI
Đất trời vốn dĩ không dung ác,
Xá tội sao còn có Vu Lan ?
Sức mạnh từ bi ta muốn vựa,
Cứu người vô tội khỏi lầm than !
Lục bát :
Ác nhân trời đất không dung,
Sao còn có được Trung tuần Vu Lan ?
Từ bi sức mạnh vô vàn,
Cứu người vô tội lầm than cửu tuyền.
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
8. Bài thơ NGỤ Ý:
寓 意 NGỤ Ý
名 遂 功 成 休 矣 休, Danh toại công thành hưu hĩ hưu,
等 閒 世 故 一 虛 舟。 Đẳng nhàn thế cố nhất hư chu.
風 來 江 館 涼 宜 夏, Phong lai giang quán lương nghi hạ,
月 到 書 樓 明 正 秋。 Nguyệt đáo thư lâu ming chính thu.
紅 日 東 昇 知 大 海, Hồng nhật đông thăng tri đại hải,
白 雲 西 望 是 神 州。 Bạch vân tây vọng thị thần châu.
溪 山 亦 足 供 吾 樂, Khê sơn diệc túc cung ngô lạc,
忍 負 前 盟 萬 里 鷗。 Nhẫn phụ tiền minh vạn lý âu.
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Ngụ Ý 寓 意 : Gởi gắm cái ý niệm của mình hoặc Gởi gắm một ẩn ý nào đó.
- Hưu Hĩ Hưu 休 矣 休 : là Thôi hãy hưu trí cho rồi đi.
- Đẵng Nhàn Thế Cố 等 閒 世 故 : Chuyện Nhân tình thế cố thường ngày trong cuộc sống.
- Hư Chu 虛 舟 : là Chiếc thuyền trống rổng, không có gì cả.
- Thần Châu 神 州 : là Đất liền, nơi ta đang cư ngụ. Đây là khái niệm về Địa lý lúc ban đầu của người Trung Hoa, chia đất liền thành 9 châu huyện, gọi là Cửu Châu và gọi chung đất đai mà con người cư ngụ là Xích Huyện Thần Châu.
- Cung 供 : là Cung cấp, cung ứng. CUNG NGÔ LẠC 供 吾 樂: là Cung cấp đáp ứng cho niềm vui của ta.
- Nhẫn 忍 : là Nhịn, là Đành cam, nên NHẪN PHỤ 忍 負 : Không đành lòng phụ.
- Tiền Minh 前 盟 :Những lời hẹn ước trước đó.
* Nghĩa Bài Thơ :
NGỤ Ý
Công đã thành danh đã toại rồi thì thôi hãy về hưu đi thôi! Những chuyện nhân tình thế cố thường ngày như một chiếc thuyền trống rổng, (rốt cuộc cũng chẳng có gì). Khi gió thổi vào cái quán nhỏ mà ta ngồi hứng gió ở ven sông thì đó chính là mùa Hè; còn lúc trăng chiếu vào thư lâu nơi ta đọc sách, thì đó chính là đang lúc mùa Thu. Mắt trời đỏ rực mọc lên ở hướng Đông thì biết nơi đó là biển cả, còn mây trắng bay xa xa về hướng Tây thì biết đó là đất liền nơi ta cư ngụ. Sơn khê sông suối núi rừng cũng đã đủ đáp ứng cho niềm vui của ta rồi, lại nở nào đành lòng quên đi lời hứa trước đây với lũ chim âu trên sông nước hay sao?!
Quả là cảnh nhàn nhã, ung dung tự tại suốt bốn mùa, quanh năm vui với trăng thanh gió mát, đọc sách ngâm thơ, đón mặt trời lên và ngóng nhìn mây trắng, vui với sông suối núi rừng và lũ chim âu trên sông nước để tiêu dao ngày tháng tự do tự tại tựa tiểu thần tiên.
* Diễn Nôm :
NGỤ Ý
Công thành danh toại đến kỳ hưu,
Thế sự nhân tình đã chán ru !
Gió mát đón hè vui sông nước,
Trăng thanh đọc sách sáng lầu thu.
Trời đông rực nắng ngoài xa biển,
Mây trắng về tây tận cuối châu.
Khe suối núi sông vui ngất ngưởng,
Lòng nào nở phụ lũ chim âu !
Lục bát :
Công thành danh toại nghỉ hưu,
Nhân tình thế sự hư chu não lòng.
Hè về hóng gió ven sông,
Thu thì đọc sách trăng trong bên lầu.
Biển đông trời mọc nắng cao,
Thần châu mây trắng nơi nào về tây.
Sơn khê đã thỏa lòng này,
Sao đành lỗi hẹn với bầy chim âu !?
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
9. Bài thơ NGUYÊN ĐÁN THUẬT HOÀI
元 旦 述 懷 Nguyên Đán Thuật Hoài
今 我 行 年 六 十 支, Kim ngã hành niên lục thập chi,
老 來 卻 與 病 相 期。 Lão lai khước dữ bệnh tương kỳ.
惜 春 強 勸 數 杯 酒, Tích xuân cưởng khuyến sổ bôi tửu,
憂 國 休 言 兩 鬢 絲。 Ưu quốc hưu ngôn lưỡng mấn ty.
織 紝 不 勤 嗟 懶 婦, Chức nhẫm bất cần ta lãn phụ,
家 庭 無 教 笑 癡 兒。 Gia đình vô giáo tiếu si nhi.
閒 中 聊 寓 閒 中 趣, Nhàn trung liêu ngụ nhàn trung thú,
豈 為 逢 人 說 浪 詩。 Khởi vị phùng nhân thuyết lãng thi.
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Thuật Hoài 述 懷 : Tỏ bày hoài bão; Kể lể nỗi niềm tâm sự.
- Chi 支 : là Thập Nhị Địa Chi 十 二 地 支, mỗi CHI là một Con Giáp, tượng trưng cho một năm, nên LỤC THẬP CHI 六 十 支 là Sáu mươi tuổi.
- Tương Kỳ 相 期 : là Cùng nhau hẹn ước, là Hẹn hò với nhau.
- Cưỡng Khuyến 強 勸 : là Miễn cưỡng khuyên nhau...
- Hưu Ngôn 休 言 : Đừng bao giờ nói; Đừng bảo là...
- Chức Nhâm 織 紝 : là Canh cửi, là dệt vải. Chữ NHÂM ở đây được đọc là NHẪM cho ăn với luật Bằng Trắc để nghe cho êm tai.
- Lãn Phụ 懶 婦 : là người đàn bà lười biếng; là Người vợ lười.
- Si Nhi 癡 兒 : là Con ngu dại, si ngốc.
- Liêu Ngụ 聊 寓 : Ngụ ý là...; Cứ cho là...
- Thuyết Lãng Thi 說 浪 詩 : Lạm bàn lan man về thơ ca.
* Nghĩa Bài Thơ :
TẾT NGUYÊN ĐÁN KỂ LỂ NỖI LÒNG
Tết nay thì ta cũng đã được sáu mươi tuổi rồi; Càng già lại càng như là có ước hẹn với bệnh tật vậy. Tiếc Xuân nên miễn cưỡng mời nhau vài ly rượu. Lo cho nước thì chớ bảo là hai mái tóc mai đã bạc như tơ cả rồi. Canh cửi không siêng năng thì than là con vợ biếng nhác; Gia đình không dạy dỗ thì sợ người ta cười con mình ngu ngốc. Trong lúc nhàn nhã thì cứ cho là hưởng thú nhàn nhã đi, sao lại phải nói chuyện lan man về thơ ca khi gặp người nầy người nọ.
Than già than bệnh, nhưng uống rượu vui chơi với nhau lúc xuân về thì miễn cưỡng vẫn còn được, còn nói đến lo cho nước thì chớ có thoái thác là tóc đã bạc người đã già. Cũng như con vợ không siêng năng dệt cửi là tại ta thiếu quan tâm đôn đốc; gia đình không giáo dục thì con cái ngu dốt sẽ bị người cười chê. Tề gia không tốt lại đi đổ thừa cho vợ lười biếng, con ngu si. Trong khi chỉ thích hưởng thụ nhàn tản để nói ba điều bốn chuyện về những thơ ca lan man không đâu với những người gặp gỡ vô tích sự. Không biết là cụ Trạng đã mượn chuyện của mình để nhắc nhở người khác hay là cụ đang ám chỉ ai đây trong cái xã hội khá rối ren bát nháo, vàng thao lẫn lộn của lúc bấy giờ: Vừa Mạc vừa Lê vừa Trịnh vừa Nguyễn...
* Diễn Nôm :
NGUYÊN ĐÁN THUẬT HOÀI
Đến Tết ta đà sáu chục rồi,
Càng già bệnh tật lại theo đuôi.
Tiếc xuân miễn cưởng vài chung rượu,
Lo nước chớ màng tóc bạc vôi,
Canh cửi không siêng bà vợ biếng,
Ngu si thiếu dạy lũ con tồi.
Muốn nhàn thì cứ vui nhàn tản,
Sao phải vì ai lãng phí lời !
Lục bát :
Nay ta sáu chục tuổi rồi,
Càng già bệnh tật như mời theo đuôi.
Tiếc xuân vài chén uống vùi,
Nước không lo nổi rối nùi tóc mai.
Vợ lười canh cửi tại ai,
Con ngu vì bởi vô tài dạy khuyên.
Nhàn thì hãy cứ nhàn liền,
Sao còn thơ thẩn huyên thuyên với người !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
10. Bài thơ BỘ MINH NHÂN TƯ MINH PHỦ CÔNG SAI VIÊN
步 明 人 思 明 府 公 差 員 Bộ Minh Nhân Tư Minh Phủ Công Sai Viên
鶯 聲 啼 趂 馬 聲 驕, Oanh thanh đề sấn mã thanh kiêu,
快 著 行 鞭 春 色 饒。 Khoái trước hành tiên xuân sắc nhiêu.
况 値 北 南 無 事 日, Huống trực bắc nam vô sự nhật,
一 天 明 月 共 良 霄。 Nhất thiên minh nguyệt cộng lương tiêu.
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- BỘ MINH NHÂN TƯ MINH PHỦ CÔNG SAI VIÊN 步 明 人 思 明 府 公 差 員: Tản bộ với viên Công sai người Minh ở phủ Tư Minh.
- Sấn 趂 : Một hình thức khác của chữ SẤN 趁, có nghĩa Nhân lúc, nhân dịp, thừa cơ, thừa lúc...
- Nhiêu 饒 : là Nhiều, đầy đủ, phì nhiêu.
- Trực 値 : là Đúng dịp, gặp dịp. Một âm nữa là TRỊ 値 là Đáng giá, Trị giá.
- Lương Tiêu 良 霄 : là Đêm an lành, đêm đẹp đẽ.
* Nghĩa Bài Thơ :
Tản Bộ Với Viên Công Sai Người Minh Ở Phủ Tư Minh.
Tiếng chim oanh hót cũng vừa đúng lúc tiếng ngựa đang hí vang vang, trong tiếng roi ngựa vun vút lúc sắc Xuân đang tràn ngập khắp nơi. Cũng vừa đúng lúc Bắc Nam gì đều thái bình vô sự, giữa một đêm an lành cũng tràn ngập ánh trăng sáng khắp cả bầu trời.
Qủa là một cảnh đẹp trong mùa xuân giữa lúc thái bình thịnh thế, làm cho ta nhớ đến câu tả cảnh đẹp của đêm Xuân trong Thiên Gia Thi của Tô Đông Pha đời Tống là:
Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim. 春 宵 一 刻 值 千 金.
Có nghĩa : Đêm xuân một khắc giá đáng ngàn vàng. (Chỉ đêm xuân khí trời êm ả, mát mẻ đẹp đẽ vô cùng. Sau nầy được người ta trích câu nói nầy để chỉ một ý khác với ý của tác giả lúc ban đầu).
* Diễn Nôm :
BỘ MINH NHÂN TƯ MINH PHỦ CÔNG SAI VIÊN
Tiếng oanh lẫn tiếng ngựa rền vang,
Roi vút ngựa phi xuân ngập tràn.
Huống lúc Bắc Nam đều vô sự,
Một trời trăng sáng đáng ngàn vàng !
Lục bát :
Tiếng oanh hót, tiếng ngựa vang,
Tiếng roi vùn vụt xuân tràn khắp nơi.
Bắc Nam phải buổi thảnh thơi,
Một đêm trăng đẹp, một trời sáng trăng.
Hẹn bài dịch tới :
Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM (kỳ Tam)
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét