ĐỀ MIẾU VỢ CHÀNG TRƯƠNG
Nghi ngút đầu gành tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho lụy đến nàng
Chứng quả có đôi vừng nhật nguyệt
Giải oan chi mượn mấy đàn tràng
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng
Vua Lê Thánh Tôn
Thơ Cẩn Họa:
CHUYỆN CHÀNG TRƯƠNG
Ngẫm đời,chạnh cảm nỗi lòng Trương
Ngờ nghi phán xét theo lời trẻ
Uất ức trầm luân đoạt mệnh nàng
Nén khổ mong tình xâu ngọc chuỗi
Ghìm đau ước nghĩa kết hoa tràng
Trớ trêu,bể giận xô cuồng sóng
Vô trí làm nên tiếng phụ phàng.
Lý Đức Quỳnh
Kính mời xem thêm bài lục bát:
Chàng Trương xa vợ chàng Trương
Lạ lùng cái nhớ, cái thương có ngờ
Ngờ nghi nơi ấy bây giờ
Tấm lòng trong trắng còn chờ trắng trong?
Thế rồi, chiến cuộc cũng xong
Mang về gió bụi bao năm chiến trường
Rộn ràng cái nhớ, cái thương
Ơn trời rộng đức mở đường hiếu sinh.
Thoát vòng kiếp nạn lửa binh
Người từ thập tử nhất sinh hoàn hồn
Vui nhà ra xóm, ra thôn
Ai đâu phúc họa được cơn rập rình?
Con thơ nghe bóng kể hình
Chưa phân đã buộc, chưa minh đã ràng
Vin lời trúc chẻ, ngói tan
Gan sôi sục giận, mặt bàng hoàng kinh!
Con thơ thật dạ, vô tình...
Bẫy nào? Ai bẫy? Cho mình vào trong!
Tơ vò rút ruột mỏi mong
Gặp xuân những tưởng thỏa lòng với xuân!
Đùng đùng sấm dậy mây giăng
Đùng đùng... bất chợt bão giông bặt hồi,
Sa mù, áp lạnh ngập trời
Thời gian đeo đá cho đời đóng băng!
Dài đêm gầy guộc bóng trăng
Rơi vào lạc lõng vô cùng, vô biên
Nỗi niềm, câm lặng nỗi niềm
Bốn bề phong tỏa giữa miền vô ngôn !
Đau nào hơn khổ sống mòn
Chết từ trong ruột từng cơn não nề
Trong mê, gọi suốt cơn mê
Đứng tròng con mắt dầm dề mạch tương !
Chàng Trương, ơi hỡi chàng Trương
Ngờ nghi đinh đóng thói thường vào tim
Gặp duyên thuận nghịch cả tin
Trách đêm, sao chẳng thắp đèn tự soi?!
Sông dài, hãy để sông trôi
Sao gieo vào đó một đời mà chi !?
Chiến tranh, vắt kiệt xuân thì
Hiểu lầm, tuốt sạch những gì... đáng ra...!!!
Lý Đức Quỳnh
ĐN-2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét