Thứ Sáu, 4 tháng 2, 2022

Góc Việt Thi : Chùm Thơ Xuân (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Thi :  

                   Chùm Thơ Xuân

                                    
1. Bài thơ NGUYÊN NHẬT :

        Lê Cảnh Tuân 黎 景 詢 (?-1416?) tên chữ là Tử Mưu, hiệu là Tỉnh Trai, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nguyên trước ở làng Lão Lạt phủ Thanh Hoá). Không rõ ông sinh năm nào. Lê Cảnh Tuân đỗ Thái Học Sinh vào năm Canh Thìn (1400), dưới triều Hồ. Ông là danh sĩ dưới triều Hồ. Hiện chỉ còn lưu lại 12 bài thơ chép trong Toàn Việt Thi Lục. Dưới đây là bài Ngũ Ngôn tuyệt cú của ông làm khi Tết đến mà không dám về quê.

  元 日                        Nguyên Nhật

旅 館 客 仍 在,    Lữ quán khách nhưng tại,
去 年 春 復 來。    Khứ niên xuân phục lai.
歸 期 何 日 是?    Quy kỳ hà nhật thị ?
老 盡 故 園 梅。    Lão tận cố viên mai!
        黎 景 詢                Lê Cảnh Tuân 

                                      


* Chú thích:
     - Nguyên Nhật 元 日 : là Ngày đầu, ta phải hiểu là Ngày Đầu Của Một Năm, như chữ Nguyên Đán Là TẾT NGUYÊN ĐÁN của ta đó.
     - Nhưng 仍 : là Vẫn, Vẫn Cứ...
     - Phục 復 : là Lại, là Trở lại.
     - Quy Kỳ 歸 期 : Cái kỳ hạn trở về, là Ngày Về.
     - Lão Tận 老 盡 : là Già đến tận cùng, là Già khú, già chát, già khằng!

* Nghĩa Bài Thơ:
                              NGÀY ĐẦU NĂM
       Người khách tha hương vẫn còn ở nơi quán trọ nầy, nhưng mùa Xuân của năm rồi, năm nay lại trở lại. Biết ngày nào mới là ngày về đây? Chắc cành mai già ở quê nhà đã già cỗi hết rồi!

      Não nùng thay tâm trạng của người lìa quê xa xứ trong những ngày Xuân đến Tết về. Câu "去 年 春 復 來 Khứ niên Xuân phục lai" Mùa Xuân năm trước lại trở về đây, cho ta thấy ít nhất Lê Cảnh Tuân cũng đã hai năm không được về quê ăn Tết rồi. Cội mai già còn cằn cỗi huống hồ chi là các đấng sanh thành ở quê nhà chắc cũng không tránh khỏi buồn thương sầu não mà càng héo tàn lụm cụm!

4. Diễn Nôm:

            NGUYÊN NHẬT

                                                              
Khách còn nơi quán trọ,
Xuân năm trước lại sang.
Biết ngày nao trở lại ?
Cội mai đã cỗi tàn !

Lục bát:
            Trọ nơi lữ quán khách còn
            Mùa Xuân năm trước lon ton lại về
            Ngày nao mới được hồi quê?
            Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu!
                                         Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

2. Bài thơ SƠ XUÂN:

           Nguyễn Tử Thành 阮 子 成 hiệu là Tùng Hiên, đời Trần. Quê quán, năm sinh, năm mất cùng sự nghiệp của ông đều chưa rõ, chỉ còn 11 bài thơ chép trong Toàn Việt Thi Lục 全 越 詩 錄. Dưới đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông.

    初 春                                    SƠ XUÂN

臘 梅 開 盡 雪 飄 零,  Lạp mai khai tận, tuyết phiêu linh,
老 大 情 懷 節 物 驚。  Lão đại tình hoài tiết vật kinh.  
傍 水 人 家 楊 柳 嫩,  Bàng thủy nhân gia dương liễu nộn,
寒 天 客 院 半 陰 晴。  Hàn thiên khách viện bán âm tình .     
遊 蜂 摘 蜜 穿 花 去,  Du phong trích mật xuyên hoa khứ,          
野 蝶 偷 香 帶 粉 經。  Dã diệp thâu hương đới phấn kinh. 
檢 點 名 園 供 勝 賞, Kiểm điểm danh viên cung thắng thưởng, 
春 花 一 樣 百 般 生。  Xuân hoa nhất dạng bách ban sinh.
              阮 子 成                                   Nguyễn Tử Thành   
  
     
                         

* Chú thích :
    - SƠ XUÂN 初 春 : Buổi ban sơ của mùa xuân; là ĐẦU XUÂN.
    - Lạp Mai 臘 梅 : LẠP là Tháng Chạp; Nên LẠP MAI là Loại mai nở vào tháng 12 âm lịch.  
    - Tiết Vật 節 物 : Thời tiết và cảnh vật.
    - Bàng Thủy 傍 水 : Ở cạnh bờ nước; ở gần sông hồ.
    - Bán Âm Tình 半 陰 晴 : là Nửa râm nửa nắng.  
    - Trích Mật 摘 蜜 : là Hái mật, chỉ ong hút mật.
    - Thâu Hương 偷 香 : là Trộm hương, ở đây chỉ bướm hút phấn thơm của hoa.
    - Danh Viên 名 園 : là Những vườn hoa nổi tiếng. 

* Nghĩa bài thơ : 
                          ĐẦU XUÂN
       Lạp mai trong tháng chạp đã nở cả rồi, tuyết chỉ còn rơi rải rác. Tâm tình của người già thấy thời tiết cảnh vật thay đổi mà phát kinh. Nhà ai bên bến nước dương liễu mới trổ xanh non, Trời còn lạnh nên phòng khách nửa râm nửa nắng. Những con ong bay lượn hút mật rồi bay xuyên qua những cánh hoa, và những con bướm hoang trộm hương hoa mang phấn bay đi. Kiểm điểm lại những vườn hoa nổi tiếng mà người ta thường tán thưởng thì thấy rằng : Hoa xuân nở ra trăm vẻ đều đẹp như nhau mà thôi. (Chớ không phải vườn nổi tiếng thì hoa nở mới đẹp, còn vườn bình thường thì hoa nở không đẹp !).

* Diễn Nôm :
                              ĐẦU XUÂN
                 
            

                    Tuyết rơi mai nở báo xuân sang,
                    Cảnh vật đổi thay luống ngỡ ngàng.
                    Bến nước nhà ai xanh liễu mới,
                    Trời râm phòng khách nắng hoe vàng.
                    Ong vui hái mật đùa bay lượn,
                    Bướm hút nhuỵ hoa vội tách ngang.
                    Điểm hết vườn xuân bao thắng cảnh,
                    Hoa xuân trăm vẻ đẹp mơ màng.
       Lục bát :
                    Tuyết rơi mai nở hết rồi,
                    Tuổi già thấy cảnh đổi dời mà kinh.
                    Nhà ai bến nước liễu xinh,
                    Nửa râm nửa nắng sân đình đìu hiu.
                    Ong bay hút mật dập dìu,
                    Bướm hoang lén trộm thật nhiều phấn hoa.
                    Vườn xuân nổi tiếng gần xa,
                    Hoa xuân trăm vẻ mặn mà như nhau.
                                     Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

3. Bài thơ XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI:

           Nguyễn Văn Siêu 阮 文 超 (1798-1872) tên khác là Định 定, tự Tốn Ban 遜 班, hiệu Phương Đình 方 亭 và Thọ Xương cư sĩ 壽 昌 居 士, thuỵ Chí Đạo 志 道, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ phó bảng năm 1838 đời vua Minh Mệnh. Ông là người cùng thời với Cao Bá Quát, hai người nổi tiếng có tài văn thơ mà dân gian hay truyền tụng là “thần Siêu thánh Quát”. Nguyễn Văn Siêu làm quan đến chức Án Sát, có sang sứ Trung Hoa. Sau đây là bài thơ tiêu biểu của ông trong ngày Xuân.

春 日 曉 起               XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI 

宿 火 明 書 牖,    Túc hỏa minh thư dũ,
曉 鍾 聞 佛 臺。    Hiểu chung văn Phật đài.
主 人 催 被 起,    Chủ nhân thôi bị khởi,
小 子 報 花 開。    Tiểu tử báo hoa khai.
夜 氣 融 孤 竹,    Dạ khí dung cô trúc,
晴 光 弄 小 梅。    Tình quang lộng tiểu mai.
流 鶯 囀 不 已,    Lưu oanh chuyển bất dĩ,
應 有 故 人 來。    Ưng hữu cố nhân lai !
     阮 文 超                    Nguyễn Văn Siêu

     
                          

* Chú Thích :
    - Túc Hỏa 宿 火: Đèn hoặc nến ban đêm để thắp sáng.
    - Thư Dũ 書 牖 : Cửa sổ bên bàn học.
    - Hiểu Chung 曉 鍾 : Chuông chùa công phu buổi sáng.
    - Thôi Bị Khởi 催 被 起 : Đẩy cái mền ra ngồi dậy, ý chỉ thức giấc.
    - Tiểu Tử 小 子 : Ở đây không có nghĩa là CON NHỎ mà là Tiểu Đồng, Thư Đồng để đối với chữ CHỦ NHÂN ở trên.
    - Dung 融 : là Hòa, Tan, lẫn vào.
    - Tình Quang 晴 光 : là Ánh Nắng sáng.
    - Chuyển 囀 : Có bộ KHẨU 口 là Cái miệng bên trái, là (tiếng hót) Uyển Chuyển, véo von, líu lo.
    - Ưng Hữu 應 有 : Chắc có, Có thể có.

* Nghĩa Bài Thơ :
                        SÁNG XUÂN THỨC GIẤC 
       Đèn đêm còn chiếu sáng song cửa sổ, đã nghe tiếng chuông công phu buổi sáng ở Phật đài rồi. Chủ nhân vừa tung chăn thức giấc thì tiểu đồng đã báo cho biết là hoa sáng cũng đã nở rồi. (Mở cửa ra thì thấy) Hơi đêm còn như đang tan vào bụi trúc cô đơn trước ngõ và ánh nắng ban mai le lói như đang ghẹo cành mai nhỏ trước sân, tiếng chim oanh bay lượn không ngừng hót líu lo, như báo trước chắc là có bạn cũ đến chơi.

* Diễn Nôm :
                      XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI

                   
                  

                   Đèn đêm còn soi song cửa,
                   Đã nghe chuông sớm ngân nga.
                   Chủ nhân tung chăn thức giấc,
                   Tiểu đồng báo sáng nở hoa.
                   Hơi đêm tan vào tre lạnh,
                   Nắng sớm ghẹo cội mai già.
                   Tiếng oanh líu lo không ngớt,
                   Chắc là bạn đến thăm ta !

        Lục bát :
                   Đèn còn hắt sáng cửa song,
                   Phật đài đã vẳng chuông ngân đầu ngày.
                   Chủ nhân thức giấc vươn vai,
                   Thư đồng đã báo nở vài cành hoa.
                   Hơi đêm nhành trúc la đà,
                   Vài tia nắng sớm ghẹo hoa mai vàng.
                   Chim oanh ríu rít rộn ràng,
                   Chắc là có bạn thuận đàng ghé chơi !
                                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

4. Bài thơ SƠ XUÂN của THÁI THUẬN :

           Thái Thuận 蔡 順 (1440-?) tự Nghĩa Hoà, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, sinh 1440. Đậu tiến sĩ 1475 (niên hiệu Hồng Đức thứ 6). Làm quan ở Nội Các Viện triều Lê Thánh Tông hơn 20 năm, sau được bổ làm Tham Chính ở Hải Dương, sau nữa được đặc cách giữ chức Phó Nguyên Suý hội Tao Đàn. Tác phẩm còn lại: Lữ Đường Thi di cảo do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính Mô sưu tầm, biên soạn.

   初 春                                       SƠ XUÂN

三 冬 過 了 一 春 歸, Tam đông qúa liễu nhất xuân qui,
乍 暖 東 風 放 放 吹。 Sạ noãn đông phong phóng phóng xuy.  
冰 雪 凍 痕 鋪 水 面, Băng tuyết đống ngân phô thủy diện, 
乾 坤 生 意 上 林 枝。 Càn khôn sanh ý thượng lâm chi. 
柳 還 舊 綠 鶯 猶 靜, Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh, 
桃 試 新 紅 蝶 未 知。 Đào thí tân hồng điệp vị tri. 
日 暮 鄉 關 迴 首 望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng, 
草 心 遊 子 不 塍 悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi !
               蔡 順                                   Thái Thuận
  
                            

* CHÚ THÍCH :
     - SƠ XUÂN 初 春 : Mới bắt đầu mùa xuân, là Chớm Xuân, là Đầu Xuân.
     - TAM ĐÔNG 三 冬 : Chỉ 3 tháng của mùa đông.
     - SẠ NOÃN 乍 暖 : SẠ 乍 là Bất chợt, Bỗng nhiên. SẠ NOÃN là Chợt ấm lên.
     - NGÂN 痕 : là Vết sẹo, là Dấu vết.
     - SANH Ý 生 意 : là Cái ý sống, cái ý sinh tồn. Sau dùng rộng ra chỉ Sự làm ăn buôn bán của con người để kiếm sống.
     - THẢO TÂM 草 心 : Nỗi lòng của tấc cỏ.

* NGHĨA BÀI THƠ :
                           CHỚM XUÂN
       Mùa Xuân vừa mới trở về sau ba tháng của mùa Đông đã qua đi rồi. Trời chợt ấm lại nên gió Xuân từ hướng Đông đã hay hẩy thổi đến. Dấu ấn của băng tuyết còn sót lại bày ra trên mặt nước, và ý sống của đất trời đã nẩy mầm trên các cành ngọn của cây rừng. Liễu thì vẫn xanh tốt như xưa, và đào thì đã trổ màu hồng mới nhưng bướm vẫn còn chưa hay biết. Trời chiều quay đầu trông ngóng về phía quê xa, tấc lòng của người con du tử không tránh khỏi nỗi xót xa!

      Bài thơ Sơ Xuân của Thái Thuận đọc lên nghe như có âm vang hơi hám của thuở Thịnh Đường, ngay từ câu đầu tiên :

  三 冬 過 了 一 春 歸    Tam đông qúa liễu nhất xuân quy.

     Từ "Tam đông" làm ta nhớ đến từ "Tam xuân" trong hai câu trong bài "Du Tử Ngâm" của Mạnh Giao đời Đường là:

           誰 言 寸 草 心,      Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
           報 得 三 春 暉.          Báo đắc Tam Xuân huy.

   mà cụ Nguyễn Du đã thoát dịch rất hay là:

               "Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân"

   Ta thấy từ "Thảo Tâm Du Tử": Tấc lòng của người con du tử, lại được Thái Thuận sử dung ở câu cuối:
   草 心 遊 子 不 塍 悲。    Thảo tâm du tử bất thăng bi! (Tấm lòng như tấc cỏ của người con du tử không tránh khỏi buồn thương ray rức )...
   và nhất là câu:
  日 暮 鄉 關 迴 首 望.  Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,

    lại làm cho ta nhớ đến hai câu thơ cuối của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là:

    日 暮 鄉 關 何 處 是?   Nhật mộ hương quan hà xứ thị
    煙 波 江 上 使 人 愁。   Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
 ... mà Tản Đà đã dịch rất hay là:

                   Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
                 Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !
                     
* DIỄN NÔM :

                    CHỚM XUÂN

          Ba tháng Đông qua Xuân lại thay,
          Gió Xuân hây hẩy ấm lòng ai.
          Dấu tàn băng tuyết in dòng nước,
          Chồi mới đất trời biếc ngọn cây.
          Liễu đã xanh om oanh vắng tiếng,
          Đào đà đỏ nụ bướm chưa hay.
          Quay nhìn quê cũ khi chiều xuống,
          Du tử bồi hồi mắt lệ cay !
 Lục bát :
          Đông qua nay lại chớm Xuân,
          Khí trời chợt ấm gió Đông lào xào.
          Nước trôi băng tuyết dạo nào,
          Rừng cây nẩy lộc chồi cao xanh cành.
          Liễu buồn oanh hãy vắng tanh,
          Đào buồn vắng bướm cành xanh ửng hồng.
          Trời chiều quê cũ vời trông,
          Bồi hồi du tử chạnh lòng xót xa !                                            
                               Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm   

5. Bài thơ  XUÂN ĐÁN của CHU VĂN AN :
 
          春 旦                             XUÂN ĐÁN                 
    寂 寞 山 家 鎮 日 閒,    Tịch mịch sơn gia trấn nhựt nhàn,
    竹 扉 斜 擁 護 輕 寒。    Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
    碧 迷 草 色 天 如 醉,    Bích mê thảo sắc thiên như túy
    紅 濕 花 梢 露 未 乾。    Hồngthấp hoa tiêu lộ vị can.
    身 與 孤 雲 長 戀 岫,    Thân dữ cô vân trừơng luyến tụ
    心 同 古 井 不 生 瀾。    Tâm đồng cổ tỉnh bất sanh lan.
    柏 薰 半 冷 茶 煙 歇,    Bách huân bán lãnh trà yên yết,
    溪 鳥 一 聲 春 夢 殘。    Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
             朱 文 安                             Chu Văn An

    
                     
* Chú thích :
    - Trấn Nhật 鎮 日 : là Suốt cả ngày.
    - Tà Ủng 斜 擁 : TÀ là Nghiêng, là Xiêng; ỦNG là Ôm; nên TÀ ỦNG là Ôm Nghiêng, chỉ cánh cửa tre (trúc phi) xiêu vẹo nghiêng nghiêng ôm lấy cửa rào.
    - Bích Mê 碧 迷 : là Xanh biêng biếc; BÍCH MÊ THẢO SẮC 碧 迷 草 色 là màu cỏ xanh biêng biếc.
    - Hồng Thấp Hoa Tiêu 紅 濕 花 梢 : là Đỏ ướt cả đầu cành hoa, vì Sương Chưa Khô : LỘ VỊ CAN 露 未 乾.
    - Tụ 岫 : Những cái hang trên đỉnh núi, thường có hơi bốc lên thành mây.
    - Lan 瀾 : là những gợn sóng nhỏ; BẤT SANH LAN 不 生 瀾 Không còn gợn sóng. 
    - Bách Huân 柏 薰 : Cây Bách cây thông dùng để đốt lửa hong cho ấm.
    - Trà Yên 茶 煙 : YÊN là Khói mà cũng có nghĩa là Thuốc hút nữa (thuốc Lào chẳng hạn); nên TRÀ YÊN là Trà và thuốc hút. 
   - Yết 歇 : là Nghỉ, là thôi, ở đây có nghĩa là Hết, là Cạn.

* Dịch Nghĩa : 
                     Sáng Ngày Xuân
       Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa. Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm chợt tỉnh giấc, mộng Xuân cũng tàn lụi theo luôn.

* DIỄN NÔM :

                            XUÂN ĐÁN
                  
                          

              Nhà tịch mịch núi cao nghe vắng vẻ,
              Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
              Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
              Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
              Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
              Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
              Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
              Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
Lục bát :
             Nhà cao vắng vẻ an nhàn,
             Cửa tre xiêu vẹo lạnh tràn gió đông.
             Trời xanh đồng cỏ mênh mông,
             Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.
             Thân như mây nổi linh đinh,
             Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.
             Đêm tàn lửa tắt trà vơi,
             Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !
                                           Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 Chúc mọi người đều có được một cái Tết BÌNH AN,  NHƯ Ý!

        Hẹn bài viết tới !
                                                              杜 紹 德
                                                           Đỗ Chiêu Đức





Không có nhận xét nào: