Góc Việt Thi:
Thơ Xuân của Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm
NGUYỄN BỈNH KHIÊM 阮 秉 謙 (1491-1585) huý là Văn Đạt 文 達, tự Hanh Phủ 亨 甫, hiệu Bạch Vân cư sĩ 白 雲居 士, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông xuất thân từ một gia đình trí thức Nho học, cha là Nguyễn Văn Định có văn tài; mẹ là Nhữ Thị Thục, con thượng thư Nhữ Văn Lan, thông tuệ, giỏi văn chương, am tường lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã được mẹ đem thơ quốc âm và kinh truyện ra dạy. Lớn lên, vào Thanh Hoá, theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng, được thầy truyền thụ môn học Dịch lý và sách Thái Ất Thần Kinh. Tuy học giỏi, nhưng lớn lên vào lúc xã hội loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn chí, đợi thời, không chịu ra thi. Mãi sau này, Mạc thay Lê, tình hình xã hội ổn định, ông mới ra ứng thí, đậu Trạng Nguyên (1535), rồi làm quan với nhà Mạc, bấy giờ ông đã 45 tuổi.
Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập 白 雲 國 語 詩 集, Bạch Vân Am Thi Tập 白 雲 庵 詩 集 và một số bài văn chữ Hán. Sau đây là những bài thơ làm trong những ngày Tết của ông:
1. Bài thơ NGUYÊN ĐÁN THUẬT HOÀI:
元 旦 述 懷 NGUYÊN ĐÁN THUẬT HOÀI
今我行年六十支, Kim ngã hành niên lục thập chi,
老來卻與病相期。 Lão lai khước dữ bệnh tương kỳ.
惜春強勸數杯酒, Tích xuân cưởng khuyến sổ bôi tửu,
憂國休言兩鬢絲。 Ưu quốc hưu ngôn lưỡng mấn ty.
織紝不勤嗟懶婦, Chức nhẫm bất cần ta lãn phụ,
家庭無教笑癡兒。 Gia đình vô giáo tiếu si nhi.
閒中聊寓閒中趣, Nhàn trung liêu ngụ nhàn trung thú,
豈為逢人說浪詩。 Khởi vị phùng nhân thuyết lãng thi.
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Thuật Hoài 述 懷 : Tỏ bày hoài bão; Kể lể nỗi niềm tâm sự.
- Chi 支 : là Thập Nhị Địa Chi 十 二 地 支, mỗi CHI là một Con Giáp, tượng trưng cho một năm, nên LỤC THẬP CHI 六 十 支 là Sáu mươi tuổi.
- Tương Kỳ 相 期 : là Cùng nhau hẹn ước; là Hẹn hò với nhau.
- Cưỡng Khuyến 強 勸 : là Miễn cưỡng khuyên nhau...
- Hưu Ngôn 休 言 : Đừng bao giờ nói; Đừng bảo là...
- Chức Nhâm 織 紝 : là Canh cửi, là dệt vải. Chữ NHÂM ở đây được đọc là NHẪM cho ăn với luật Bằng Trắc để nghe cho êm tai.
- Lãn Phụ 懶 婦 : là người đàn bà lười biếng; là Người vợ lười.
- Si Nhi 癡 兒 : là Con ngu dại, si ngốc.
- Liêu Ngụ 聊 寓 : Ngụ ý là...; Cứ cho là...
- Thuyết Lãng Thi 說 浪 詩 : Lạm bàn lan man về thơ ca.
* Nghĩa Bài Thơ :
TẾT NGUYÊN ĐÁN KỂ LỂ NỖI LÒNG
Tết nay thì ta cũng đã được sáu mươi tuổi rồi; Càng già lại càng như là có ước hẹn với bệnh tật vậy. Tiếc xuân nên miễn cưỡng mời nhau vài ly rượu. Lo cho nước thì chớ bảo là hai mái tóc mai đã bạc như tơ cả rồi. Canh cưởi không siêng năng thì than là con vợ biếng nhác; Gia đình không dạy dỗ thì sợ người ta cười con mình ngu ngốc. Trong lúc nhàn nhã thì cứ cho là hưởng thú nhàn nhã đi, sao lại phải nói chuyện lan man về thơ ca khi gặp người nầy người nọ.
Than già than bệnh, nhưng uống rượu vui chơi với nhau lúc xuân về thì miễn cưỡng vẫn còn được, còn nói đến lo cho nước thì chớ có thoái thác là tóc đã bạc người đã già. Cũng như con vợ không siêng năng dệt cửi là tại ta thiếu quan tâm đôn đốc; gia đình không giáo dục thì con cái ngu dốt sẽ bị người cười chê. Tề gia không tốt lại đi đổ thừa cho vợ lười biếng, con ngu si. Trong khi chỉ thích hưởng thụ nhàn tản để nói ba điều bốn chuyện về những thơ ca lan man không đâu với những người gặp gỡ vô tích sự. Không biết là cụ Trạng đã mượn chuyện của mình để nhắc nhở người khác hay là cụ đang ám chỉ ai đây trong cái xã hội khá rối ren bát nháo, vàng thao lẫn lộn của lúc bấy giờ: Vừa Mạc vừa Lê vừa Trịnh vừa Nguyễn...
* Diễn Nôm :
NGUYÊN ĐÁN THUẬT HOÀI
Đến Tết ta đà sáu chục rồi,
Càng già bệnh tật lại theo đuôi.
Tiếc xuân miễn cưởng vài chung rượu,
Lo nước chớ màng tóc bạc vôi,
Canh cửi không siêng bà vợ biếng,
Ngu si thiếu dạy lũ con tồi.
Muốn nhàn thì cứ vui nhàn tản,
Sao phải vì ai lãng phí lời !
Lục bát :
Nay ta sáu chục tuổi rồi,
Càng già bệnh tật như mời theo đuôi.
Tiếc xuân vài chén uống vùi,
Nước không lo nổi rối nùi tóc mai.
Vợ lười canh cửi tại ai,
Con ngu vì bởi vô tài dạy khuyên.
Nhàn thì hãy cứ nhàn liền,
Sao còn thơ thẩn huyên thuyên với người !
2. Bài thơ TRỪ TỊCH TỨC SỰ :
除 夕 即 事 TRỪ TỊCH TỨC SỰ
新歲才臨舊歲除, Tân tuế tài lâm cựu tuế trừ,
老來笑我太庸疏。 Lão lai tiếu ngã thái dung sơ.
乾坤不盡煙花景, Càn khôn bất tận yên hoa cảnh,
門館無私水竹居。 Môn quán vô tư thủy trúc cư.
兩度手層扶日轂, Lưỡng độ thủ tằng phù nhựt cốc,
一封書肯上公車。 Nhất phong thư khẳng thượng công xư (xa).
年年管得春光好, Niên niên quản đắc xuân quang hảo,
知是天心獨厚余。 Tri thị thiên tâm độc hậu dư.
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Tài Lâm 才 臨 : là Mới vừa đến.
- Dung Sơ 庸 疏 :DUNG là Dung tục là tầm thường, SƠ là Thưa thớt, hời hợt, nên DUNG SƠ là Hời hợt tầm thường, vô tích sự, không làm được gì cả.
- Càn Khôn 乾 坤 : là hai quẻ tượng trưng cho Trời và Đất trong Bát quái.
- Yên Hoa Cảnh 煙 花 景 : Cảnh hoa nở rộ đẹp đẽ của mùa xuân.
- Thủy Trúc Cư 水 竹 居 : Nhà ở trên bến nước có tre trúc hữu tình.
- Nhựt Cốc 日 轂 : là Mặt trời, ở đây chỉ nhà vua, nên PHÙ NHỰT CỐC 扶 日 轂 là Phò trợ nhà vua.
- Công Xa 公 車 : là Xe công, chỉ Xe của vua đi.
- Quản Đắc 管 得 : là Quản lý được, có nghĩa là Nắm bắt được, là Hưởng được.
- Độc Hậu Dư 獨 厚 余 : ĐỘC là Riêng lẻ, HẬU là Hậu đãi, DƯ là Ta; nên ĐỘC HẬU DƯ là Hậu đãi riêng với mình ta.
* Nghĩa bài Thơ :
Tức Sự đêm Giao Thừa
Năm mới vừa đến thì năm cũ cũng đi qua; cười ta già đầu rồi mà còn hời hợt tầm thường vô tích sự. Cảnh hoa đẹp của mùa xuân trong đất trời thì vô cùng tận, và nơi ở nhàn nhã trước cửa có sông nước trúc tre cũng không chỉ dành riêng cho ai; Cũng đã hai lần từng phò vua giúp nước, nhưng một phong thư (kể công) cũng không chịu trình lên xe vua. (Chỉ cần) mỗi năm ta đều hưởng được những mùa xuân đẹp đẽ, thì biết là lòng trời còn hậu đãi ưu ái đến ta lắm rồi !
Qủa là lòng của một lão thần trung nghĩa, không hám vinh hoa phú qúy; không màng danh lợi buộc ràng, chỉ muốn yên thân nhàn tản thưởng ngoạn sự đẹp đẽ ưu ái của đất trời của tiết xuân với hoa thơm cỏ đẹp khi mỗi độ xuân về.
* Diễn Nôm :
TRỪ TỊCH TỨC SỰ
Năm mới đến đi lại một năm,
Cười ta già ngố lại vô tâm.
Đất trời cảnh trí hoa xuân thắm,
Nhà cửa ven sông tre trúc râm.
Hai lượt phò vua luôn dốc sức,
Một phong thư tấu mãi trầm ngâm.
Năm năm cứ được vui xuân đến,
Là phúc riêng trời kẻ hảo tâm.
Lục bát :
Năm mới đến, năm cũ đi,
Cười ta ngớ ngẩn khác gì năm qua.
Đất trời xuân thắm bao la,
Bên sông tre trúc cửa nhà riêng ai.
Hai lần phò chúa ra tay,
Một phong thư lại ngại hoài chẳng dâng.
Năm năm vui hưởng sắc xuân,
Biết trời hậu đãi lão thần riêng ta.
3. Bài thơ XUÂN ĐÁN CẢM TÁC :
春 旦 感 作 XUÂN ĐÁN CẢM TÁC
行年七十四年餘, Hành niên thất thập tứ niên dư,
喜得投閒訪舊居。 Hỉ đắc đầu nhàn phỏng cựu cư.
歲始旁觀新宇宙, Tuế thủy bàng quan tân vũ trụ,
家貧唯富舊詩書。 Gia bần duy phú cựu thi thư.
秀花野竹三春好, Tú hoa dã trúc tam xuân hảo,
淨月明窗一室虛。 Tịnh nguyệt minh song nhất thất hư.
誰是誰非休說著, Thùy thị thùy phi hưu thuyết trước
老狂自笑太庸疏。 Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ !
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Đầu Nhàn 投 閒 : Vấn thân vào việc hưởng nhàn, như ĐẦU QUÂN 投 軍 là Gia nhập vào quân đội vậy.
- Phỏng 訪 : là Thăm viếng. PHỎNG CỰU CƯ 訪 舊 居 là Thăm lại chỗ ở cũ.
- Tuế Thủy 歲 始 : Tuổi bắt đầu, có nghĩa là Đầu năm.
- Tú Hoa Dã Trúc 秀 花 野 竹 : Hoa đẹp trúc hoang (chỉ tre mọc phóng túng).
- Tịnh nguyệt Minh Song 淨 月 明 窗 : Trăng thì trong, cửa song thì sáng.
- Lão Cuồng 老 狂 : Không phải là Ông già điên, mà là Ông già ngông nghênh.
- Dung Sơ 庸 疏 : DUNG là Dung tục là tầm thường; SƠ là Hời hợt không ý tứ, nên DUNG SƠ là Hời hợt tầm thường.
* Nghĩa Bài Thơ :
CẢM TÁC NGÀY ĐẦU XUÂN
Tuổi đời đã bảy mươi tư tuổi có thừa rồi, vui vì được về thăm lại chỗ ở cũ khi đã hưởng nhàn. Đầu năm cứ đứng một bên mà xem vũ trụ đổi mới; nhà nghèo chỉ giàu ở số sách thi thơ đã cũ mèm. Ba tháng mùa xuân thì vui với hoa đẹp và những khóm tre dại; Một căn phòng trống với trăng trong cửa sáng. Mặc ai phải ai trái xin đừng nói đến nữa, ta chỉ tự cười mình là lão già ngông nghênh tầm thường hời hợt và vô tích sự mà thôi!
* Diễn Nôm :
XUÂN ĐÁN CẢM TÁC
Tuổi đà bảy chục lại thêm tư,
Mừng được nhàn thăm chốn cựu cư.
Năm mới vui còn xem vũ trụ,
Nhà nghèo giàu chỉ có thi thư.
Trúc hoang hoa đẹp ba xuân thắm,
Song sáng trăng thanh một thảo lư.
Phải trái ai người đừng nói đến,
Già ngông hời hợt tự cười trừ !
Lục bát :
Tuổi già đã bảy mươi tư,
Vui nhàn thăm chốn cựu cư năm nào.
Đầu năm vũ trụ đổi màu,
Nhà nghèo sách cũ làm giàu quanh năm.
Trúc hoang hoa đẹp ba xuân,
Trăng thanh cửa sáng một phòng trống không.
Thị phi ai đó khôn phân,
Tự cười hời hợt già ngông vụng về.
4. Bài thơ XUÂN HÀN :
春 寒 XUÂN HÀN
十二韶光春一團, Thập nhị thiều quang xuân nhất đoàn,
一天料峭送餘寒. Nhất thiên liệu tiễu tống dư hàn.
輕陰借雨侵花易, Khinh âm tá vũ xâm hoa dị,
殘雪因風墜柳難. Tàn tuyết nhân phong trụy liễu nan.
繡闥佳人低玉帳, Tú thát giai nhân đê ngọc trướng,
香街醉客促金鞍. Hương giai túy khách xúc kim an.
旋乾自有神功在, Toàn kiền tự hữu thần công tại,
已播陽和滿際蟠. Dĩ bá dương hoà mãn tế bàn.
阮 秉 謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- XUÂN HÀN 春 寒 : Cái lạnh của buổi đầu xuân.
- Thiều Quang 韶 光 : là Cái khoảng thời gian đẹp đẽ.
- Liệu Tiễu 料 峭 : là LIỆU TIỄU XUÂN HÀN 料 峭 春 寒 là thành ngữ dùng để hình dung cái lạnh của buổi đầu xuân.
- Khinh Âm Tá Vũ 輕 陰 借 雨 : là Trời âm u nhẹ trong cơn mưa xuân.
- Tàn Tuyết Nhân Phong 殘 雪 因 風 : là Gió cuốn những tàn dư của băng tuyết còn lại.
- Tú Thát 繡 闥 : là Trong phòng thêu, tức là Khuê phòng của các cô gái.
- Hương Giai 香 街 : là Đường phố thơm, ý chỉ những đường phố có nhiều người đẹp ở hay đường phố có nhiều kỹ viện.
- Xúc 促 : là Thúc mạnh vào. KIM AN 金 鞍 : là Yên cương ngựa mạ vàng.
- Toàn Kiền 旋 乾 : là Tuyền Càn Chuyển Khôn 旋 乾 轉 坤 là thành ngữ chỉ xoay chuyển từ Càn qua Khôn, từ Dương sang Âm và ngược lại; Nói chung là chỉ sự xoay vần của trời đất, vạn vật, mùa màng... hết đông rồi đến xuân...
- Bá 播 : là Gieo hạt giống , là Truyền Bá, là Rải khắp.
- Dương Hoà 陽 和 : là Khí dương xuân, chỉ khí trời ấm áp của mùa xuân.
- Tế Bàn 際 蟠 : là Trời Đất, do sách Trang Tử có câu: "Thượng tế vu thiên, hạ bàn vu địa 上 際 于 天,下 蟠 于 地", nghĩa là: Trên rộng đến trời, dưới khắp cả đất. Sau người ta dùng gọn bốn từ "Tế thiên bàn địa 際 天 蟠 地" như là một thành ngữ. Ở đây, tác giả lại lược đi hai từ, chỉ còn hai từ "tế bàn 際 蟠" nhưng cần hiểu như nghĩa của cả câu "tế thiên bàn địa".
* Nghĩa Bài Thơ :
CÁI LẠNH CỦA BUỔI ĐẦU XUÂN
Cái khoảng thời gian đẹp đẽ của 12 ngày đầu năm đã mở màn cho một vừng xuân sắc, Từng ngày một ta sẽ lần lượt đưa tiễn cái lạnh của buổi đầu xuân. Trời râm nhẹ với mưa xuân phơi phới sẽ ngấm vào hoa cỏ một cách dễ dàng, những làn gió đầu xuân còn rất lạnh khó mà thổi được những băng tuyết còn sót lại cho rơi xuống gốc liễu. Trong khuê phòng các giai nhân còn buông thấp rèm ngọc xuống vì trời còn lạnh, trên đường phố nơi có nhiều người đẹp các khách say cũng thúc vào yên cương mạ vàng để đi mau qua. Trời đất âm dương đã xoay chuyển một cách thần kỳ từ đông sang xuân, vá ánh dương xuân đã được gieo đầy khắp cả trên trời dưới đất.
* Diễn Nôm :
XUÂN HÀN
Mười hai xuân sắc đã vầy đoàn,
Cái lạnh lui dần tiết mới sang.
Phơi phới mưa xuân hoa ướm nhụy,
Rao rao gió nhẹ tuyết dần tan.
Khuê phòng người đẹp buông rèm ngọc,
Trên phố khách say thúc ngựa vàng.
Chuyển đổi thần công trời lẫn đất,
Ánh xuân chan chứa khắp nhân gian.
Lục bát :
Mười hai ngày tiết xuân hàn,
Mỗi ngày cái lạnh lại càng bớt đi.
Mưa xuân dễ thấm hoa chi,
Gió xuân lay liễu tuyết thì chưa tan.
Phòng khuê người đẹp buông màn,
Trên đường khách hãy yên vàng thúc mau.
Càn khôn huyền diệu làm sao,
Ánh dương xuân đã phủ mau đất trời !
Chúc cho mọi người, mọi nhà đều có được một mùa xân
NHƯ Ý, AN KHANG, THỊNH VƯỢNG !
Hẹn bài viết tới !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét